Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống trong môn đạo đức lớp 2
DẠY LỒNG GHÉP KĨ NĂNG SỐNG THÔNG QUA MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 2Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 10 trang ) Show Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 + Phát triển khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh. +Rèn cho học sinh biết cách tự phục vụ bản thân và vệ sinh cá nhân, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường. + Rèn cho học sinh biết cách giao tiếp và ứng xử phù hợp và linh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. +Hướng dẫn học sinh biết cách phối hợp công việc của từng cá nhân khi làm việc đồng đội. +KNS giúp HS vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính thực hành +Biết sống tích cực, chủ động +Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Con ngoan Trò giỏi Công dân tốt Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 Giáo viên báo cáo : Dương Tấn Bá Trường tiểu học Ngọc Đông 1 2 Trước tình hình chung của toàn xã hội và từ tình hình thực tế trong quá trình giảng dạy ở trường Tiểu học Lê Văn Tám. Ban giám hiệu trường Tiểu học Lê Văn Tám chỉ đạo toàn bộ các khối, đặc biệt là khối 2 nghiên cứu bài dạy, tài liệu, dự giờ - rút kinh nghiệm các giáo viên trong tổ nhằm tìm ra những biện pháp tối ưu nhất để lồng ghép kĩ năng sống vào tất cả các môn học và thực hiện chuyên đề: "Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức lớp 2". II.Nội dung giáo dục KNS cho học sinh qua môn Đạo đức : 1. Kĩ năng sống là những kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… 2. Kĩ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kỹ năng sống một con người mới có những kỹ năng sống đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải nghiệm, va vấp, thành công và thất bại giúp con người có được bài học quý giá về kỹ năng sống. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn. 3. Kĩ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Trong các chương trình giáo dục kĩ năng sống cho HSTH , người ta nhắc đến những nhóm kỹ năng sống sau đây: a)Nhóm kĩ năng nhận thức: Nhận thức bản thân. Xây dựng kế hoạch. Kĩ năng học và tự học Tư duy tích cực và tư duy sáng tạo. Giải quyết vấn đề b)Nhóm kĩ năng xã hội: Kĩ năng giao tiếp . Kĩ năng thuyết trình và nói được đám đông. Kĩ năng diễn đạt cảm xúc và phản hồi. Kĩ năng làm việc nhóm (làm việc đồng đội) c)Nhóm kĩ năng quản lý bản thân: Kĩ năng làm chủ. Quản lý thời gian Giải trí lành mạnh d)Nhóm kĩ năng xã hội: Kĩ năng quan sát. Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 Giáo viên báo cáo : Dương Tấn Bá Trường tiểu học Ngọc Đông 1 3 Kĩ năng làm việc nhóm. Kĩ năng lãnh đạo (làm thủ lĩnh). đ)Nhóm kĩ năng giao tiếp Xác định đối tượng giao tiếp Xác định nội dung và hình thức giao tiếp e)Nhóm kĩ năng phòng chống bạo lực: Phòng chống xâm hại thân thể. Phòng chống bạo lực học đường. Phòng chống bạo lực gia đình. Tránh tác động xấu từ bạn bè. III. Kế hoạch lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn đạo đức ở lớp 2 : - Ngoài những tiết : Ôn tập, thực hành kĩ năng cuối GHKI – CHKI - GHKII, CHKII, tổ chúng tôi đã có kế hoạch dạy lồng ghép kĩ năng sống như sau : Kĩ năng Nội dung Bài học được lồng ghép Kĩ năng học và tự học Kĩ năng quản lý thời gian. Kĩ năng giải quyết vấn đề. Kĩ năng làm việc theo nhóm. Kỹ năng nói được đám đông. Kỹ năng quan sát. Kĩ năng ứng xử trong các tình huống của cuộc sống. Kĩ năng tự nhận thức Rèn cho học sinh có thái độ tự giác và khả năng tự học. - Bài 1: Học tập, sinh hoạt đúng giờ. - Bài 5: Chăm chỉ học tập Kĩ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc. Kĩ năng làm việc theo nhóm. Kĩ năng quan sát. Hướng dẫn học sinh biết sắp xếp thời gian biểu hợp lí. - Bài 1: Học tập sinh hoạt đúng giờ. Kĩ năng giao tiếp và ứng Rèn cho học sinh - Bài 2: Biết nhận lỗi và sửa Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 Giáo viên báo cáo : Dương Tấn Bá Trường tiểu học Ngọc Đông 1 4 xử. Kĩ năng xác định đối tượng và hình thức giao tiếp. Kĩ năng quan sát. Kĩ năng làm việc nhóm. biết cách giao tiếp và ứng xử phù hợp. lỗi - Bài 6: Quan tâm, giúp đỡ bạn. - Bài 9: Trả lại của rơi. - Bài 10: Biết nói lời yêu cầu, đề nghị. - Bài 11: Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại. - Bài 12: Lịch sự khi đến nhà người khác. Bài 14: Giúp đỡ người khuyết tật Kĩ năng diễn đạt cảm xúc và phản hồi Kĩ năng thuyết trình trước đám đông Rèn cho HS nhận biết được việc làm đúng. Bài 8: Giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng Bài 11: Trả lại của rơi Bài 12 : Biết nói lời yêu cầu, đề nghị Bài 15: Bảo vệ loài vật có ích Bài : Giáo dục đạo đức địa phương Kĩ năng giải quyết vấn đề Kĩ năng làm chủ Rèn cho học sinh biết cách tự phục vụ bản thân và vệ sinh cá nhân, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường. Bài 3: Gọn gàng, ngăn nắp Bài 4: Chăm làm việc nhà Bài 7: Giữ gìn trường lớp sạch đẹp. Bài 8: Giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng Bài 14: Bảo vệ loài vật có ích. Bài : Giáo dục đạo đức địa phương Thông qua môn Đạo đức, kiến thức được hình thành trên cơ sở từ việc quan sát tranh, từ một truyện kể, một việc làm, một hành vi, chuẩn mực nào đó, sau đó rút ra bài học. Từ bài học đó các em liên hệ thực tế xung quanh, bản thân, gia đình và xã hội và môi trường tự nhiên. Chỉ khác hơn là GV viên cố gắng trong phạm vi có thể khi Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 Giáo viên báo cáo : Dương Tấn Bá Trường tiểu học Ngọc Đông 1 5 soạn và giảng từng phần của bài học phải tạo một điểm nhấn cụ thể, rõ ràng, nhằm khắc sâu những kĩ năng sống đã có sẵn trong từng bài học và những kĩ năng sống chúng ta lồng ghép trong quá trình soạn –giảng. III.Cách tiếp cận và các phương pháp : A.Cách tiếp cận : Việc giáo dục KNS cho HS trong nhà trường phổ thông được thực hiện thông qua dạy học các môn học và tổ chức các hoạt động giáo dục nhưng không phải là lồng ghép, tích hợp thêm KNS vào nội dung các môn học và hoạt động giáo dục một cách quá tải; mà theo một cách tiếp cận mới, đó là sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho HS được thực hành, trải nghiệm KNS trong quá trình học tập, từ đó lồng ghép một cách nhẹ nhàng những kĩ năng sống vào bài học và đến từng đối tượng học sinh. B.Các phương pháp : - Phương pháp động não. - Thảo luận nhóm. - Phương pháp đóng vai. - Phương pháp trò chơi. - Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình (nghiên cứu tình huống). - Phương pháp giải quyết vấn đề - Phương pháp dự án (là phương pháp kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, vận dụng lí thuyết vào thực tiễn. HS có cơ hội rèn luyện nhiều kĩ năng sống quan trọng như: giao tiếp, ra quyết định, giải quyết vấn đề, đặt mục tiêu …) Ngoài những phương pháp trên, trong quá trình dạy lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua môn Đạo đức cũng cần phải khơi gợi và phát huy sự tham gia của các em bên cạnh sự hướng dẫn của thầy – cô giáo, chứ tuyệt đối không nên áp đặt ý kiến hay suy nghĩ chủ quan của thầy – cô giáo cũng như người lớn. Tuyệt đối không được phê bình hay đánh giá khi các em làm điều gì đó chưa tốt, bởi nếu vậy sẽ triệt tiêu sự chủ động, tự tin và hoà nhập cùng bạn bè, vì ở lứa tuổi này các em rất muốn thể hiện mình. Chuyên gia tâm lí học người Nga Dorothy Holte đã nói: “Nếu trẻ sống với sự phê bình, thì trẻ sẽ học cách chỉ trích”; do đó, những điều trên là tối kị trong việc giáo dục nói chung và giáo dục kĩ năng sống cho các em nói riêng. IV.Những điểm giống và khác nhau giữa bài soạn GD KNS với bài soạn truyền thống. ** Điểm giống nhau 1. Mục tiêu bài. 2. Các phương tiện ĐDDH. **Điểm khác nhau 1. Thêm kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài. Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 Giáo viên báo cáo : Dương Tấn Bá Trường tiểu học Ngọc Đông 1 6 3. Các bước lên lớp 4. Các hoạt động dạy học. 2.Nêu kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng trong bài. V.Một số biện pháp tích cực trong quá trình tiến hành dạy lồng ghép kĩ năng sống và một số kĩ thuật dạy học tích cực : ( có VD minh qua bài dạy) A.Một số biện pháp tích cực trong quá trình tiến hành dạy lồng ghép kĩ năng sống : 1/. Dạy học sinh kĩ năng làm việc đồng đội theo hướng sau: Theo kết quả nghiên cứu, để có hiệu quả khi làm việc theo nhóm, các thành viên trong nhóm phải tuân thủ 7 kĩ năng. Những kĩ năng này được sử dụng trong quá trình làm việc đồng đội nhằm thể hiện và củng cố mức độ “ăn rơ” của các thành viên trong nhóm để từ đó đưa ra một kết quả hoàn hảo nhất cho việc giải quyết vấn đề: - Thứ nhất là các thành viên phải biết lắng nghe: Đây là một trong những kĩ năng quan trọng nhất. Các thành viên trong nhóm phải biết lắng nghe ý kiến của nhau. Kĩ năng này phản ánh sự tôn trọng (hay xây dựng) ý kiến giữa các thành viên. - Thứ hai là phải biết chất vấn lẫn nhau: Qua cách thức mỗi người đặt câu hỏi, chúng ta có thể nhận biết mức độ tác động lẫn nhau, khả năng thảo luận, đưa ra vấn đề cho các thành viên khác của họ. - Thứ ba là phải có kĩ năng thuyết phục mọi người về thông tin mình đưa ra: Các thành viên phải trao đổi, suy xét những ý tưởng đã đưa ra. Đồng thời họ cần biết tự bảo vệ và thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình. - Thứ tư là phải biết tôn trọng ý kiến của người khác: Mỗi thành viên trong nhóm phải tôn trọng ý kiến của những người khác thể hiện qua việc động viên, hỗ trợ nhau, nỗ lực biến chúng thành hiện thực. - Thứ năm là phải biết trợ giúp lẫn nhau: Các thành viên phải biết giúp đỡ nhau. - Thứ sáu là phải biết sẻ chia: Các thành viên đưa ra ý kiến và tường thuật cách họ nghĩ ra nó cho nhau. - Thứ bảy là phải biết cùng chung sức: Mỗi thành viên phải đóng góp trí lực cùng nhau thực hiện kế hoạch đã đề ra. Từ 7 kĩ năng trên, GV hướng dẫn cho học sinh nhớ được trình tự từng công đoạn và áp dụng khi thực hiện hoạt động nhóm để giải quyết vấn đề đặt ra như sau: - Công việc thứ nhất là mỗi thành viên trong nhóm sẽ đưa ra hướng giải quyết vấn đề mà GV đã đặt ra. - Các thành viên trong nhóm chăm chú lắng nghe đồng thời đưa ra câu hỏi để chất vấn. - Các thành viên được chất vấn sẽ thuyết phục mọi người về thông tin mình đưa ra bằng khả năng lí luận của mình. - Các thành viên trong nhóm trợ giúp nhau để kết luận một phương án hoàn hảo nhất cho việc giải quyết vấn đề GV đã đặt ra. Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 Giáo viên báo cáo : Dương Tấn Bá Trường tiểu học Ngọc Đông 1 7 ( Ở kĩ năng này thể hiện trong bài dạy minh hoạ qua hoạt động 1 : KN quan sát tranh, KN trả lời câu hỏi và Hoạt động 3: Xử lí tình huống của bài dạy minh hoạ) 2/. Rèn kĩ năng tư duy sáng tạo thông qua vẽ tranh theo nội dung của bài học: Sáng tạo là một phẩm chất, một năng lực vô cùng quan trọng, cần thiết cho mỗi người sống trong nền kinh tế tri thức theo cơ chế thị trường và xu hướng hội nhập. toàn cầu hoá hiện nay. Việc bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho học sinh là một vấn đề vô cùng khó khăn phức tạp. Muốn làm tốt được điều đó, người thầy giáo phải hiểu rõ bản chất của sự sáng tạo là gì và quan hệ của phẩm chất năng lực này với các phẩm chất năng lực khác trong hoạt động tâm lý của con người, trong quá trình phát triển nhân cách. Trong hoạt động dạy học, ngoài việc nêu ra tình huống để học sinh độc lập suy nghĩ nhằm đưa ra hướng giải quyết, đặt câu hỏi như “Em còn có thể thử cách nào nữa”, “Còn cách nào không?” hoặc “Còn điều gì quan trọng nữa không?” để phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo cho học sinh thì mỹ thuật cũng có lợi cho sự phát triển tâm trí của trẻ nhỏ. Hoạt động mỹ thuật có lợi cho năng lực tư duy và năng lực phát triển toàn diện. Vì vậy, mỹ thuật có vai trò giúp trẻ phát triển tình cảm tốt đẹp, nâng cao năng lực thẩm mỹ và kiềm chế tính tình. Ở lớp 2, trong 4 tiết thực hành và rèn luyện kĩ năng trong chương trình đưa vào hoạt động sưu tầm tranh, ảnh, cảm thụ nội dung và thuyết minh tranh, ảnh dẫn đến vẽ tranh theo nhóm và thuyết minh tranh để phát huy khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh. Cụ thể như sau: Bài học Nội dung Thực hành và rèn luyện kĩ năng giữa HKI Em hãy sưu tầm tranh, ảnh thể hiện việc học tập, sinh hoạt đúng giờ, quang cảnh nhà cửa ngăn nắp, gọn gàng, thể hiện những việc làm góp phần làm nhà cửa sạch đẹp Thực hành và rèn luyện kĩ năng cuối HKII Em hãy sưu tầm tranh, ảnh thể hiện việc chăm chỉ học tập, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, quang cảnh trường lớp sạch đẹp. Thực hành và rèn luyện kĩ năng giữa HKII Em hãy vẽ tranh thể hiện việc sự lịch sự khi đến nhà người khác hoặc thể hiện sự lịch sự khi nhận và gọi điện thoại. Thực hành và rèn luyện kĩ năng cuối HKII Em hãy vẽ về những con vật có ích. Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 Giáo viên báo cáo : Dương Tấn Bá Trường tiểu học Ngọc Đông 1 8 3/. Thường xuyên kiểm tra việc tự phục vụ bản thân và vệ sinh cá nhân, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường. ( VD qua bài dạy : Bài gọn gàng ngăn nắp; Chăm làm việc nhà; Giữ gìn vệ sinh môi trường.,…Sau quá trình dạy GV quan sát và kiểm tra thường xuyên việc làm đúng hoặc chưa đúng của HS để kịp thời sửa chữa sai sót). 4/. Phát huy tối đa việc hình thành và rèn kĩ năng đối với những tiết học bài mới và tiết luyện tập thực hành trên lớp: GV tiến hành như sau: - Dựa vào kế hoạch lồng ghép nêu trên, giáo viên tăng cường cho học sinh được luyện tập thực hành từng kĩ năng một phù hợp với nội dung bài học. Chú trọng rèn luyện ở tiết 2 (Luyện tập thực hành). ** Trong tiến trình bài dạy minh hoạ GV đã lồng ghép hình thành các kĩ năng cho HS : KN quản lí thời gian, giải quyết vấn đề ( trả lời câu hỏi chất vấn của bạn, cô giáo – HĐ1; kĩ năng tự nhận thức ( đúng, sai – HĐ 2) kĩ năng ứng xử trong các tình huống của cuộc sống; kĩ năng nói trước đám đông (HĐ3) - Sau mỗi kĩ năng được hình thành, GV đưa kĩ năng này vào thực tế cuộc sống hàng ngày thông qua phần thực hành ở cuối mỗi bài học để giúp học sinh rèn luyện và thực hiện dưới sự kiểm tra của GV. 5/. Đầu tư thiết kế bài giảng ở bốn tiết Thực hành rèn luyện kĩ năng giữa kỳ I, cuối kỳ I, giữa kỳ II và cuối kỳ II - Đối với 4 tiết Thực hành rèn luyện kĩ năng giữa kì và cuối kì, GV cần chú trọng rèn luyện kĩ năng cho các em nhiều hơn ở những tiết học khác. Bốn tiết thực hành này không có hướng dẫn soạn giảng trong SGV. Vì vậy, GV cần phải đầu tư vào việc thiết kế bài giảng sao cho hợp lí để giúp học sinh được rèn luyện các kĩ năng đã được học trong thời gian qua. - Khi thiết kế bài giảng của tiết “Thực hành rèn luyện kĩ năng giữa kì và cuối kì”, GV nên lưu ý mục tiêu ở đây là rèn luyện các kĩ năng đã học trong nữa hoặc cả học kì nên tất cả những bài tập, những yêu cầu GV đưa ra đối với học sinh đều phải hướng vào các kĩ năng cần rèn luyện. (Có thể tham khảo phần phụ lục trong SGV để lấy tư liệu soạn giảng). Đồng thời, GV cũng cần giành một ít thời gian trong tiết học để học sinh bày tỏ ý kiến về việc vận dụng kĩ năng vào thực tế cuộc sống. B. Một số kĩ thuật dạy học tích cực : **Kĩ thuật dạy học tích cực: KT chia nhóm, KT giao nhiệm vụ, KT đặt câu hỏi, KT động não, KT hoàn tất một nhiệm vụ Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện chuyên đề: "Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức lớp 2". Với những kế hoạch, biện pháp, kĩ thuật dạy Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 Giáo viên báo cáo : Dương Tấn Bá Trường tiểu học Ngọc Đông 1 9 học tích cực nêu trên, sau hơn một năm học ( đối với GV lớp 2/2 – dạy thí điểm từ năm học 2009 – 2010 ) và 9 tuần thực dạy đối với các lớp còn lại của khối 2 đã thu được kết quả như sau: - Chất lượng giảng dạy và chất lượng học tập môn Đạo đức đạt kết quả rõ rệt. - Giáo viên nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong quá trình giáo dục đạo đức và KNS cho học sinh. - Giáo viên đã tích cực học tập bồi dưỡng, vững vàng hơn về chuyên môn, nắm chắc quy trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy. - GV tự tin hơn khi đã giúp học sinh tự hoàn thiện dần bản thân của các em. - Học sinh học tập tích cực, hứng thú chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức. - Không khí lớp học sôi nổi, hào hứng, học sinh thích thú với môn Đạo đức. - Các em đã mạnh dạn thể hiện mình trước đám đông. - Có tinh thần đồng đội, đoàn kết hơn. - Đã biết lựa chọn những trò chơi lành mạnh, có tính giáo dục cao. - Tự phục vụ được một số nhu cầu của bản thân. Tóm lại, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ngày càng trở nên thiết yếu nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ”, “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” hay “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” Ngạn ngữ có câu “Gieo hành vi, gặt thói quen; gieo thói quen, gặt tính cách ”. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phải phù hợp với lứa tuổi, cấp học, văn học của từng vùng sao cho các em cảm thấy gần gũi với cuộc sống của bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, chứ không nên chỉ trên sách vở hay những lời nói suông. Tuỳ theo đặc điểm từng lớp mà GV linh hoạt lồng ghép không gây quá tải, giúp HS thoải mái, nhẹ nhàng, tự tin, hiệu quả. Trên đây là phần báo cáo về chuyên đề: "Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức lớp 2" của tổ 2 Rất mong đón nhận những đóng góp chân thành của các bạn đồng nghiệp. Tam Kỳ, ngày 28 tháng 10 năm 2010 Nghiên cứu và viết chuyên đề Tổ 2 Chuyên đề “Dạy lồng ghép kĩ năng sống thông qua môn Đạo đức – Lớp 2 Giáo viên báo cáo : Dương Tấn Bá Trường tiểu học Ngọc Đông 1 10 Skkn một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp 2
MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài II. Mục đích, phương pháp nghiên cứu 1. Mục đích nghiên cứu 2. Phương pháp nghiên cứu III. Giới hạn của đề tài IV. Kế hoạch thực hiện B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận II. Cơ sở thực tiễn III. Thực trạng và những mâu thuẫn 1. Thuận lợi 2. Khó khăn IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề V. Hiệu quả C. KẾT LUẬN I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác III. Bài học kinh nghiệm9 Trang 1 1 2 2 2 2 2 3 3 4 5 5 5 5 7 9 9 9 II. Khả năng áp dụng TÀI LIỆU THAM KHẢO 11 0 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Thực hiện Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010 của Bộ giáo dục và Đào tạo triển khai giáo dục kĩ năng sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học; dựa trên cơ sở những định hướng của đợt tập huấn tăng cường giáo dục kĩ năng sống trong các môn học của Bộ cho các cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thông. Ở Việt Nam, để thực hiện việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ thông đã và đang từng bước đổi mới theo hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Qua đó, cho thấy tầm quan trọng và cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung, học sinh tiểu học nói riêng. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học nhằm đạt mục tiêu trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp; tạo cơ hội thuận lợi cho học sinh sử dụng quyền và bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học được tập trung chủ yếu ở 4 môn học: Tiếng Việt, Đạo đức, Khoa học và Tự nhiên xã hội. Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không chỉ từ các bài giảng. Thực chất của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là nhằm trang bị cho học sinh các kĩ năng sống cơ bản là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh. Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dẫn đến có một bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết 1 trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của nhiều học sinh. Chính sự cần thiết ấy, tôi đã cố gắng thử nghiệm nhiều biện pháp để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh song theo bản thân tôi nhận thấy việc giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được thể hiện rõ nét nhất trong môn Tiếng Việt. Vì thế tôi đã chọn đề tài “Các biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 qua môn Tiếng Việt ”. II. Mục đích, phương pháp nghiên cứu 1. Mục đích nghiên cứu - Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; Giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân; có hành vi thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật,… - Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc. - Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản của kĩ năng sống được hình thành qua việc học tập môn tiếng Việt tại lớp 2G trường Tiểu học An Thạnh 1, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. 2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phỏng vấn. - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp thực hành. III. Giới hạn của đề tài Tìm hiểu về hình thức giáo dục hình thành kĩ năng sống cho học sinh thông qua lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn tiếng Việt của học sinh lớp 2G trường Tiểu học An Thạnh 1, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. IV. Kế hoạch thực hiện - Chọn đề tài. - Lập đề cương nghiên cứu. - Đọc, thu thập tài liệu viết đề tài. - Thâm nhập thực tế. - Hoàn thành sáng kiến. 2 B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận Kĩ năng sống thúc đẩy phát triển cá nhân và xã hội, có thể nói kĩ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ. Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Hiện nay việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường đã được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. Theo tài liệu của UNICEF, hiện nay có 153 nước đã đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường, hơn 140 nước đã thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh với các phương thức khác nhau. Xu hướng hội nhập và phát triển không cho phép giáo dục nước ta giậm chân với những cách làm cũ, lạc hậu và trì trệ. Môn Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Kĩ năng đặc thù, thể hiện ưu thế của tiếng Việt là kĩ năng giao tiếp, sau đó là kĩ năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra quyết định, … kĩ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kĩ năng sống một con người mới có những kĩ năng sống đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải nghiệm, va vấp, thành công và thất bại giúp con người có được bài học quý giá về kĩ năng sống. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn. Kĩ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng vẫn cần học kĩ năng sống. Ở học sinh bậc tiểu học, để giúp các em có tinh thần tự học, sáng tạo và biết vận dụng linh hoạt những điều đã học vào thực tiễn, trong quá trình dạy người giáo viên phải luôn tìm tòi, sáng tạo ra những phương pháp hay. Chẳng hạn như phương pháp “học mà chơi, chơi mà học”. Giúp các em vui chơi giải trí nhằm thay đổi trạng thái 3 của các em sau những giờ học căng thẳng và để bắt đầu một tiết học mới tốt hơn. Thường xuyên đặt câu hỏi cho các em, tạo điều kiện để các em tham gia hoạt động nhóm, giải quyết vấn đề nào đó cụ thể,… trên cơ sở nền tảng là kiến thức cơ bản đã được học. Ngày nay, rèn luyện kĩ năng sống cho thế hệ trẻ mà tiêu biểu là các em học sinh là trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, người giáo viên giữ vai trò quyết định. Đây cũng là một trong những nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục đã đề ra. II. Cơ sở thực tiễn Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường sống xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng về kiến thức hàn lâm trong khi những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu vắng. Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập khiến cho không còn nhiều thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội. Điều này đã dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Do vậy, kĩ năng sống với mỗi người sẽ có cách hiểu khác nhau: - Đối với học sinh: kĩ năng sống là một cái gì mơ hồ, không thiết thực, chưa có ý thức trau dồi kĩ năng sống. - Đối với giáo viên: giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là ở phân môn đạo đức, là công việc của người khác, giáo viên chỉ lo trang bị kiến thức cho học sinh. - Đối với phụ huynh: Nhiều phụ huynh cho rằng việc giáo dục con em chủ yếu là ở nhà trường, nhà trường dạy như thế nào thì các em sẽ như thế đó phụ huynh không nhất thiết phải quan tâm nhiều. Thế nhưng giáo dục kĩ năng sống trong trường học là một việc làm cần thiết, không thể thiếu, bên cạnh đó việc khắc sâu và tạo thành kĩ năng thuần thục cho học sinh là việc làm thường xuyên không ai hết chính là những người gần gũi học sinh nhất đó là giáo viên và phụ huynh học sinh. 4 III. Thực trạng và những mâu thuẫn 1. Thuận lợi - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, tổ khối và các thầy cô trong nhà trường thường xuyên trao đổi phương pháp dạy học qua các tiết dự giờ, thao giảng, hội giảng đã giúp tôi có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy . - Đa số học sinh có điều kiện học tập tốt, được gia đình quan tâm. - Lứa tuổi của các em học mà chơi, chơi mà học nên các em rất dễ thâm nhập tiếp thu các kiến thức một cách năng động và sáng tạo. 2. Khó khăn - Nội dung các bài học vốn đã nhiều, thời lượng lại ít nên khó lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào. - Học sinh cũng chưa có nhận thức đầy đủ và ý thức trau dồi kĩ năng sống, chưa tích cực chủ động tham gia các họat động trải nghiệm để tạo lập, rèn luyện kĩ năng sống. - Một số gia đình học sinh chưa thật sự kết hợp với nhà trường, có thái độ không đúng trong công tác giáo dục học sinh, chưa quan tâm đúng mức đến việc tập của con em mình. - Qua thực tế giảng dạy lớp 2, tôi thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Bảng số liệu các kĩ năng sống của học sinh lớp 2G. Tốt Các kĩ năng sống Số Diễn đạt trước đám đông. Tương trợ nhóm khi làm việc. lượng 9 8 Tỉ lệ 28% 25% Bình thường Số Tỉ lệ lượng 11 34% 12 37,5% Chưa tốt Số lượng 12 12 Tỉ lệ 38% 37,5% IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề 1. Nghiên cứu kĩ năng sống cần rèn luyện qua từng bài dạy cho học sinh. Xác định rõ nhiệm vụ của môn học và nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn học Dạy học sinh học tiếng Việt mà cụ thể là phân môn tập làm văn là giúp cho các em nói viết lưu loát. Học sinh phát triển vốn từ ngữ, bồi dưỡng cảm xúc tình cảm lành 5 mạnh trong sáng, khả năng lựa chọn sắp xếp ý rõ ràng. Rèn khả năng tư duy, trí tưởng tượng phong phú. Qua đó vốn sống của các em được tăng lên giúp các em tự tin, có khả năng ứng xử linh hoạt trong cuộc sống. 2. Nghiên cứu mục tiêu cần đạt của giờ học, chú trọng cung cấp kĩ năng phu hợp với từng nội dung bài dạy cụ thể là việc chuẩn bị giáo án có lồng ghép cẩn thận Khả năng giáo dục kĩ năng sống của môn Tiếng Việt không chỉ thể hiện ở nội dung môn học mà còn thể hiện qua phương pháp giảng dạy của giáo viên. Để hình thành các kiến thức và rèn luyện kĩ năng mà chương trình môn Tiếng Việt đặt ra với học sinh tiểu học, người giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh,…Thông qua các hoạt động học tập học sinh có cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cơ bản, cần thiết. 3. Thực hiện mô hình dạy học có 4 giai đoạn a. Giai đoạn 1: Khám phá Tìm hiểu kĩ năng hiểu biết của học sinh về những việc làm hoặc sự kiện diến ra trong cuộc sống. b. Giai đoạn 2: Kết nối Giới thiệu thông tin kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo “cầu nối” liên kết giữa cái đã biết và cái chưa biết. c. Giai đoạn 3: Vận dụng Tạo cơ hội cho người học vận dụng kiến thức rèn kĩ năng mới học vào hoàn cảnh điều kiện có ý nghĩa. d. Giai đoạn 4: Thực hành - Nâng cao mức độ vận dụng kiến thức và kĩ năng. - Điều chỉnh hiểu biết và kĩ năng còn sai lệch. - Luyện tập thực hành kĩ năng. 4. Để làm tốt việc dạy học như đã nêu trên, người giáo viện cần chuẩn bị những công việc sau: a. Chọn những kĩ năng cần thiết phù hợp địa phương: Chọn những kĩ năng phù hợp, gần gũi với học sinh. Các em có khả năng trực tiếp thực hành kĩ năng sau khi tiếp cận. VD: Thực hành kĩ năng: Giao tiếp, ứng xử lịch sự, xưng hô đúng mực trong giao tiếp với bạn. 6 b. Học sinh dự đoán các kĩ năng, yêu cầu của các kĩ năng cần đạt được sau khi học tiết học. c. Gợi ý học sinh nêu các kĩ năng thông qua bài học: Giáo viên cho học sinh nêu các yêu cầu, kĩ năng sau khi đọc trước bài học d. Hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu cần đạt sau bài học. Từ đó xác định các kĩ năng cần đạt: Tạo ra hứng thú, cảm xúc, lưu ý đó phải là cảm xúc riêng, thật, phải có sự liên tưởng từ đó xác định những yêu cầu của kĩ năng cần đạt. e. Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh tự xác định các kĩ năng sống cần đạt: VD: Bài yêu cầu gì ? - Theo em cần phải làm gì để đạt được điều đó? - Trọng tâm bài ở chỗ nào? - Em cần có kĩ năng gì để thực hiện các vấn đề đó? - Sau khi học xong bài này em rút ra điều gì? - Em sẽ ứng dụng như thế nào, làm gì trong cuộc sống hàng ngày khi gặp trường hợp như trong bài? 5. Tổ chức cho học sinh thực hành kĩ năng sống vừa được học Tuỳ theo bài, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động ngay tại lớp với tình huống tương tự bài học để học sinh tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề, sau đó học sinh tự nêu các kĩ năng mà em đã ứng dụng để giải quyết vấn đề đó. Nếu không thể tổ chức thực hành được thì giáo viên hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu các tình huống tương tự mà các em đã gặp ở cuộc sống thường ngày, ghi chép lại và nêu cách giải quyết của bản thân để hôm sau trình bày trước lớp cho các bạn nghe và bổ sung chọn cách giải quyết tốt nhất. V. Hiệu quả Nhờ việc vận dụng các phương pháp như đã trình bày, kết quả giảng dạy giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh của tôi tốt hơn nhiều. Điều đáng mừng là trong các tiết học này học sinh hào hứng hơn, tích cực hoạt động hơn. Học sinh biết chăm chú lắng nghe, thực hành kĩ năng một cách tương đối chính xác. Mạnh dạn, tự tin trình bày trước lớp. Trong các hoạt động nhóm các em biết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng hoàn thành công việc được giao. Biết lắng nghe ý kiến và tôn trọng lẫn nhau.. Đăc biệt 7 học sinh tự tin cố gắng vươn lên trong học tập, rất nhiều học sinh tiến bộ. Số học sinh khá, giỏi tăng rõ rệt. Tốt Các kĩ năng sống Diễn đạt trước đám đông. Tương trợ nhóm khi làm việc. Số Tỉ lệ Bình thường Số Tỉ lệ lượng lượng 20 62,5% 10 31,3% 22 68,8% 9 28,1% Chưa tốt Số lượng 2 1 Tỉ lệ 6,2% 3,1% 8 C.KẾT LUẬN I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác “ Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt” đã góp phần giúp giáo viên có những định hướng cơ bản, những việc cần phải chuẩn bị để tiết dạy có tích hợp kĩ năng sống diễn ra một cách nhẹ nhàng qua đó giáo dục cho học sinh những kĩ năng sống cơ bản,cần thiết mà không mang tính áp đặt hay hình thức. Học sinh có ý thức hơn trong việc tự trang bị cho mình những kĩ năng sống cơ bản, gần gũi để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. II. Khả năng áp dụng Đề tài có thể được áp dụng với tất cả các tiết dạy có tích hợp kĩ năng sống ở môn Tiếng Việt lớp 2. III. Bài học kinh nghiệm Qua việc nghiên cứu đề tài, tôi việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học là một việc làm rất khó. Tuy vậy, tôi cũng tự rút ra cho mình bài học kinh nghiệm. Giáo viên cần nắm được phương pháp đặc trưng việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh, biết lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp, kết hợp hình thức dạy học hợp lý nhằm phát huy tính chủ động của học sinh sẽ giúp các em phát huy cao độ trí tuệ, cảm xúc, năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp. Tôi thấy đây cũng là cơ sở bước đầu khẳng định rằng: Để tổ chức giờ học dạy lồng ghép giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2, đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng tri thức, kĩ năng nghiệp vụ sư phạm một cách hợp lý. Đồng thời đưa ra áp dụng là hoàn toàn có cơ sở khoa học và phù hợp với thực tế giảng dạy hiện nay. Một trong những yêu cầu quan trọng để thực hiện việc lồng ghép giáo dục kĩ năng vào bài học trên lớp là giáo viên phải tìm ra được mối liên hệ giữa các kỹ thuật dạy học với nội dung rèn luyện kĩ năng sống. Chẳng hạn, với học sinh tiểu học, để hình thành nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm: nhận thức bản thân, xây dựng kế hoạch, xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu, tư duy tích cực và tư duy sáng tạo,… giáo viên cần sáng tạo rất nhiều tình huống trong bài học để học sinh qua đó tự hình thành các kĩ năng này. Để làm tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi ở giáo viên một tinh thần trách nhiệm và khả năng sáng tạo rất cao. 9 Giáo dục kĩ năng sống chỉ thật sự có hiệu quả khi người thầy có tâm huyết, sự kiên nhẫn và nhất là phải có thời gian. Giáo dục kĩ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội, cộng đồng. “Phải kết hợp cả gia đình, nhà trường và xã hội mới mong đào tạo được những học sinh phát triển toàn diện”. Nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông trong các nhà trường chính là các thầy cô giáo. Đối với cộng đồng thì đó là các bậc phụ huynh, ông bà, họ hàng thân thích, những người lớn tuổi,… Trên đây là những suy nghĩ và kinh nghiệm của bản thân về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt. Chắc chắn đây chưa phải là giải pháp hay nhất nhưng nó sẽ giúp cho giáo viên một số kinh nghiệm để giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT CỦA TRƯỜNG An Thạnh, ngày 15 tháng 04 năm 2012 Xếp loại:…………….. Người viết CTHĐ 10 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học lớp 2 – Tài liệu dành cho giáo viên (NXB giáo dục Việt Nam). 2. Sách giáo viên tiếng Việt lớp 2 – tập 1, 2 (NXB giáo dục Việt Nam). 3. Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 2 (NXB giáo dục). 4. Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 11 Tải về bản full GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG TRONG MÔN ĐẠO ĐỨC Ở TIỂU HỌC (LỚP MỘT)Là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống( Có nghĩa là biến cái biết thành cái làm trong thực tế cuộc sống một cách tích cực nhất) - Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lí- xã ... » Xem thêm
Là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với
những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống
của cuộc sống( Có nghĩa là biến cái biết thành cái làm trong thực tế cuộc sống một
cách tích cực nhất)
- Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lí- xã hội cơ bản giúp cho con người tồn tại
và thích ứng, giúp cho con người vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức
nhưng cũng có nhiều cơ hội trong thực tại....
» Thu gọn
Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
|