Ngày 8/9/1945, sắc lệnh thành lập nha bình dân học vụ được ban hành theo chỉ thị của

Phong trào diệt giặc dốt 70 năm trước 

 Sau ngày 2/9/1945, chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đối mặt với nhiều khó khăn, nạn đói, nạn dốt, nạn ngoại xâm bủa vây tứ phía. Đặc biệt, có đến 95% dân số không biết chữ. Cứ trong 100 người dân thì có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi được đi học và 2 người lớn biết chữ, còn 95 người không được đi học. Nếu đi sâu vào các làng mạc, các thôn xóm xa thành thị và nhất là vùng núi thì có nơi không một người biết chữ.

Một ngày sau khi giành được độc lập, trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở chiến dịch chống nạn mù chữ, tiêu diệt giặc dốt, coi đó là nhiệm vụ cấp bách thứ hai trong 6 nhiệm vụ cấp bách của chính quyền. Hồ Chủ tịch nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nhấn mạnh "Dốt là dại, dại thì hèn. Vì vậy, không chịu dại, không chịu hèn, cho nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ mới".

Người dân đứng ngay tại bến đò, bến sông để học chữ. Ảnh tư liệu.

Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ ra đời, nằm trong Bộ Quốc gia giáo dục. Cùng ngày, Sắc lệnh số 19 - SL hạn trong 6 tháng làng nào, thị trấn nào cũng phải có ít nhất một lớp học bình dân và Sắc lệnh số 20 – SL cưỡng bách học chữ quốc ngữ trong toàn quốc được ban hành.

Một ngày sau khi thành lập, để xác định cách tổ chức và hoạt động cho phong trào, Nha Bình dân học vụ liên tiếp tổ chức các lớp huấn luyện ở Hà Nội và các miền. Lớp học đầu tiên dành cho cán bộ phụ trách ở các tỉnh mang tên "khóa Hồ Chí Minh" khai giảng ở Hà Nội, có sự tham dự của Hồ Chủ tịch và lãnh đạo các bộ. Những người đầu tiên dự lớp học này chính là nguồn cán bộ nền móng cho phong trào xóa mù chữ. Riêng ở miền Nam, ngay sau khi Bình dân học vụ thành lập được nửa tháng thì thực dân Pháp quay lại xâm chiếm. Dù Nha có cử một số cán bộ vào để gây dựng cơ sở, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên phong trào ở đây không được duy trì đều đặn, mạnh mẽ như ở Bắc, Trung Bộ.

Bình dân học vụ đã dấy lên tinh thần say mê học chữ từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng đến miền núi. Trước đó, hoạt động của Hội truyền bá chữ quốc ngữ đã để lại cho phong trào nhiều kinh nghiệm cũng như lực lượng trí thức tình nguyện tham gia dạy học cho nhân dân. Công nhân học trong xưởng thợ, thương binh học ở an dưỡng đường, ngư dân học ngay trên thuyền chài, nông dân học trên cánh đồng, sân đình chùa, gốc đa, bến nước, trẻ nhỏ học trên lưng trâu. Người dân ban ngày đi làm, ban đêm thắp đèn dầu, đốt đuốc đến lớp.

Giáo viên bình dân học vụ thuộc đủ các giới, lứa tuổi, không có lương bổng, hễ biết chữ là tham gia. Họ dạy học, dựng trường, tạo lớp, tìm kiếm học phẩm, cổ động học viên. Có lớp có giáo viên, nhưng có lớp giao cho người trong nhà dạy lẫn nhau, chồng dạy vợ, con dạy mẹ, anh chị dạy em. Cách dạy cũng được cải biên cho phù hợp với tình hình dân trí lúc bấy giờ, đó là đọc lên thành tiếng, chữ cái, vần được tạo thành câu thơ lục bát, so sánh để dễ nhớ: I, tờ [ i, t] giống móc cả hai/ I ngắn có chấm, tờ dài có ngang. O tròn như quả trứng gà/ Ô thì đội mũ, Ơ thời thêm râu.

Dụng cụ học tập thiếu thốn, người học dùng chõng tre, cánh cửa làm bàn; bảng viết là bức tường, cánh cửa, tấm phản dựng lên; phấn là gạch non, đất sét, than củi; lá chuối khô, mo cau thay giấy; còn mực thì dùng bất cứ hoa, cây có thể làm màu.

Ông Nguyễn Thìn Xuân, nguyên cán bộ Nha Bình dân học vụ. Ảnh: H.P.

"Bàn không có, người ta còn úp ngược thúng lên làm bàn học. Vở ghi không có, người dân rải cát ra sân, cầm que tập viết chữ, viết xong rồi xóa lại học viết chữ khác", ông Nguyễn Thìn Xuân [90 tuổi], Chủ nhiệm Câu lạc bộ Chiến sĩ diệt dốt, cán bộ của Nha Bình dân học vụ kể lại kỷ niệm những ngày toàn dân đi học.

Ông Xuân nhớ rõ một kỷ niệm vui mà nhiều người vẫn truyền cho nhau nghe. Để kiểm tra việc học chữ của người đi học, ban kiểm tra thường đứng ở đầu làng, bến phà, nơi đông người qua lại. Ai đọc được chữ thì mới được đi qua. Có lần, Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên đi xem tình hình các lớp bình dân học vụ. Người của đội kiểm tra không biết bộ trưởng, kiên quyết giữ ông lại hỏi xem thuộc chữ hay chưa. Cần vụ định nhắc nhở người thanh niên kia, nhưng Bộ trưởng Huyên chỉ cười ngăn lại, trả lời trôi chảy rồi mới đi qua.

Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử đất nước, Bình dân học vụ lại có những nhiệm vụ khác nhau. Sau ngày độc lập, Bình dân học vụ có nhiệm vụ xây dựng và phát triển phong trào, dạy cho nhân dân biết chữ. Chỉ trong một năm, từ tháng 8/1945 đến tháng 8/1946, Bình dân học vụ đã dạy cho hơn 2,5 triệu người biết chữ, phát triển được gần 96.000 giáo viên, mở được gần 75.000 lớp học.

Tháng 12/1946, cả nước bước vào kháng chiến chống Pháp, Chính phủ chuyển lên Việt Bắc. Theo chủ trương kháng chiến, Bình dân học vụ cũng phải ấn định kế hoạch làm việc mới, sửa đổi cho phù hợp với tình hình. Các lớp học đi theo đồng bào tản cư kháng chiến, theo các đoàn dân công tiếp vận. Những lớp học kháng chiến đã đi vào trong thơ của Tố Hữu một cách tự nhiên Nhớ sao lớp học i tờ/ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan...[Việt Bắc].

Ở vùng tạm chiếm, các lớp học được tổ chức khác so với vùng tự do, thường là những lớp học tư gia, không có bàn ghế, bảng, phấn. Thầy trò ngồi xung quanh cái phản hay chiếu, mỗi người có một ống tre để đựng sách. Ở ngoài có tự vệ canh gác, hễ có báo động thì sách vở cuộn bỏ vào ống tre đem giấu ở ngoài bờ tre rồi thầy trò quay ra làm như trong một xưởng thủ công nghiệp nhỏ. Cứ như vậy, Bình dân học vụ vẫn giữ được ở nhiều vùng bị địch tạm chiếm, mạnh nhất là Hưng Yên, Hải Phòng, Nam Định, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế…

Chủ tịch Hồ Chí Minh kiểm tra công tác Bình dân học vụ tại Thái Bình, Hà Tĩnh. Ảnh tư liệu.

Là người khai sinh ra ngành học bình dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dõi theo từng bước đi của phong trào. Người luôn động viên, thăm hỏi kịp thời giáo viên, những cụ già, em bé chăm chỉ đến lớp. Trong sự nghiệp giáo dục nói chung, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm đến hiệu quả cuối cùng của việc dạy và học để sau này tổng kết thành câu nói "Vì lợi ích 10 năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người".

Theo ông Nguyễn Thìn Xuân, Bình dân học vụ đã để lại cho nền giáo dục nước nhà nhiều bài học quý báu. Phong trào phát triển rộng khắp, có sức sống lâu bền cả trong suốt thời kỳ kháng chiến vì được "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Bình dân học vụ do Chính phủ lãnh đạo nhưng cách tổ chức và hoạt động của phải dựa vào sức của nhân dân để phát triển. 

"Bình dân học vụ không chỉ xóa nạn mù chữ trong nhân dân, còn giúp người dân có ý thức về quyền lợi và bổn phận của công dân một nước động lập, đó là ngoài được tự do thì còn phải được học hành, mở mang kiến thức. Phong trào góp thành tích lớn, là cơ sở để nâng cao dân trí nước nhà, cùng với nhiều yếu tố khác làm nên sức mạnh đưa dân tộc bước qua hai cuộc trường chinh kháng chiến", ông Xuân nói.

Hoàng Phương

Ngày 2/9/1945, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, cùng lúc đối mặt với nạn đói, nạn dốt và nạn ngoại xâm. Thống kê thời kỳ đó, trong 100 người thì có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi đi học và 2 người lớn biết chữ, còn 95 người thất học. Có những làng không một người nào biết chữ.

Trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sáu việc cấp bách, chống nạn mù chữ xếp thứ hai, chỉ sau nạn đói. Bác nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ".

Ngày 8/9/1945, Chính phủ ban hành liền ba sắc lệnh số 17, 19 và 20. Theo đó, Nha Bình dân học vụ được ra đời nằm trong Bộ Quốc gia Giáo dục, hạn trong 6 tháng làng và thị trấn nào cũng phải có "ít ra là một lớp bình dân" và cưỡng bách học chữ quốc ngữ trên toàn quốc.

Hồ Chủ tịch ra bản hiệu triệu đồng bào tham gia chống nạn mù chữ, khuyên người chưa biết chữ phải thi đua đi học, những người đã biết phải thi đua dạy học; kêu gọi mọi người, kẻ giúp của, người giúp công để tiêu diệt giặc dốt.

Nhân dân khu phố Hà Trung [Hà Nội] cổ động phong trào diệt giặc dốt ngày 6/12/1945. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Ra đời giữa lúc khó khăn bủa vây, phong trào bình dân học vụ gặp nhiều vấn đề nan giải, trong đó hai điều kiện cốt yếu là người và tiền đều thiếu. Theo Việt - Nam diệt giặc dốt năm 1951 của NXB Bình dân học vụ, Việt Nam cần hơn 100.000 người từ chỉ huy đến nhân viên, giáo viên. Nếu phải trả lương cho cán bộ, một năm có thể lên tới ngót 200 triệu đồng, chưa kể tiền in sách, mua học phẩm. Nhưng khi đó ngân sách dành cho bình dân học vụ chỉ 2 triệu đồng.

Tình thế ấy buộc bình dân học vụ phải theo phương pháp vận động cách mạng là "của dân, do dân, vì dân". Cán bộ cấp chỉ huy có người làm không lương, người dạy cũng không lấy lương. Để tiết kiệm tiền mua học phẩm, Chính phủ ra lệnh các công sở thu nhặt giấy cũ phát cho người nghèo để viết vào chỗ bỏ trắng; nếu không đủ thì dùng phấn, than, gạch, que thay bút mực; lá chuối, quạt nan, mo nang thay giấy.

Quảng cáo

Nha Bình dân học vụ liên tiếp tổ chức các lớp huấn luyện. Khóa đầu tiên mang tên "Hồ Chí Minh", khai mạc ở Hà Nội sau đúng một tháng thành lập Nha, kéo dài 10 ngày. Tiếp đó là khóa "Phan Thanh" ở Huế vào tháng 11, đặt nền móng bình dân học vụ ở Trung Bộ. Đến tháng 7/1946, khóa huấn luyện khác mang tên "Đoàn kết" dành cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Riêng miền Nam, sau khi Nha Bình dân học vụ thành lập được nửa tháng thì thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nên dù cử một số cán bộ vào gây dựng cơ sở, phong trào ở đây không duy trì mạnh mẽ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự khai mạc lớp huấn luyện cán bộ bình dân học vụ [khóa Hồ Chí Minh] tại Hà Nội ngày 8/10/1945. Ảnh: Sách Bác Hồ với giáo dục.

Tất cả lực lượng bình dân học vụ đổ dồn vào trừ nạn mù chữ. Họ dùng khẩu hiệu viết, kẻ, dán ở từng nhà, trên mặt đường, thân cây; hô trong các buổi phát thanh, đám rước đuốc, diễu hành để tuyên truyền. Nhiều người cảm phục nên bỏ tiền mua giấy bút cho học viên, người bỏ công đi dạy.

Chỉ sau 3 tháng, hàng trăm "lớp học i, tờ" [hai chữ trong bài đầu tiên] mở ra từ thành thị đến thôn quê, rừng núi. Giáo viên đủ các giới, hạng tuổi. Không có lương bổng, họ vẫn vừa dạy học, vừa làm cổ động học viên, xây dựng trường, tìm kiếm học phẩm.

Có những phụ nữ vừa cho con bú vừa học, những cụ già đầu tóc bạc phơ vẫn đến lớp. Có người phải đốt đuốc đi 2-3 cây số xuyên rừng, lội suối đến lớp học. Nhiều người khuyết tật cũng không chịu mù chữ, trong đó có chị Huỳnh Thị Chính, 17 tuổi, ở Liên khu 5, cụt cả hai tay, phải buộc bút vào cánh tay tập viết.

Quảng cáo

Tuy nhiên, vẫn còn những người vì sinh kế hoặc ngại ngùng mà chưa đi học. Nha Bình dân học vụ phải tổ chức mít tinh, ca kịch, triển lãm để lồng ghép giới thiệu lợi ích của sự học, chứng minh học chữ quốc ngữ "dễ, chóng biết và vui vẻ". Các đoàn cổ động dùng những câu ca dao dí dỏm để tuyên truyền, như: "Lấy chồng biết chữ là tiên/ Lấy chồng mù chữ là duyên con bò".

Ở một số nơi, trạm kiểm soát chữ được lập ra, ai muốn qua phải đọc được chữ, còn không thì được mời vào lớp bên cạnh để giáo viên dạy học thử. Ở nhiều con đường, cổng chợ, cán bộ bình dân học vụ dựng một cổng có hai cửa. Một cửa cao rộng để người biết chữ đi qua, một cửa thấp hẹp để ai mù chữ phải bò qua. Dần dần, học viên đến lớp ngày một đông.

Phong trào bình dân học vụ duy trì ngay cả khi thực dân Pháp quay lại xâm lược. Dựa trên tình hình thực tế, có lớp lưu động cho chị em đi làm ruộng; có lớp cho đồng bào tản cư trong các lán bí mật; có lớp học lộ thiên ở bến đò, cổng chợ; lớp học ở các chợ Hôm, Đồng Xuân [Hà Nội], Sắt [Hải Phòng], Vinh [Nghệ An] cho người buôn bán; lớp ở vùng tạm bị chiếm. Lớp học mở 1-2 tiếng mỗi ngày tùy theo sự thuận tiện của học viên và hoàn cảnh địa phương.

Thay vì cách học cổ truyền là "đánh vần từng chữ", dạy chữ cái theo thứ tự a, b, c rồi vần bằng, vần trắc, bình dân học vụ tiếp nối Hội Truyền bá quốc ngữ, sử dụng phương pháp "đọc lên thành tiếng". Những chữ cái và vần được sửa đổi là bật lên thành tiếng một cách hợp lý. Người dạy sáng tác những câu hát, ví von để người học dễ nhớ và nhớ lâu, như: "I, T giống móc cả hai/ I ngắn có chấm, [t] tờ dài có ngang". Nha Bình dân học vụ in hàng chục nghìn cuốn sách tóm tắt phương pháp giảng dạy để phổ biến cho bất cứ ai biết chữ và muốn dạy lại đồng bào.

Các bà, các mẹ ở tỉnh Sa Đéc [khu vực Đồng Tháp ngày nay] đi học chữ trong kháng chiến chống pháp. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Theo sách Việt Nam chống nạn thất học, NXB Giáo dục năm 1980, với cách làm trên, chỉ trong một năm [8/1945-8/1946], phong trào bình dân học vụ đã xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người, phát triển được gần 96.000 giáo viên, mở được gần 75.000 lớp học. Sau 5 năm [đến 30/6/1950], gần 12,2 triệu người biết chữ. 10 tỉnh với 80 huyện, hơn 1.400 xã và 7.200 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ. Số người mù chữ còn lại tập trung ở miền núi, vùng bị địch chiếm như Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ.

Từ năm 1951, phong trào bình dân học vụ tiếp tục xóa nạn mù chữ và bước đầu tổ chức các lớp bổ túc văn hóa. Sau năm 1954, việc thanh toán nạn mù chữ được đẩy mạnh. Kết quả cuối tháng 12/1958, vùng đồng bằng và trung du miền Bắc đã căn bản xóa xong nạn mù chữ. 93,4% người dân từ 12 đến 50 tuổi đã biết đọc, biết viết. Với miền núi, đến năm 1965 thì hoàn thành xóa nạn mù chữ.

Tại miền Nam, đến năm 1975, 30% người dân vẫn mù chữ. Trong Chỉ thị 221 ngày 17/6/1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng nhấn mạnh: "Trước mắt, phải coi đây [xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa] là nhiệm vụ cấp thiết số một". Trong thư gửi giáo viên và học sinh nhân dịp năm học mới năm 1976, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng lưu ý "miền Nam phải tập trung sức nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa cho cán bộ và thanh niên công nông". Hai năm sau đó, cuối tháng 2/1978, 21 tỉnh thành miền Nam cơ bản xóa mù chữ.

Từng tham gia dạy bình dân học vụ năm 1955-1956, bà Nguyễn Thị Côi, 78 tuổi, nguyên Hiệu trưởng trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội, đánh giá phong trào bình dân học vụ là "ánh sáng" mở ra hiểu biết cho người dân, từ đó dân trí được nâng cao, đất nước phát triển. Phong trào cũng để lại nhiều bài học có giá trị đến bây giờ. "Khi đó, tôi chỉ là đứa trẻ 14 tuổi đi dạy chữ cho các cô, các bác mà rất nhiệt huyết. Thầy cô bình dân học vụ ai cũng tận tình, sáng tạo, linh hoạt, điều mà không phải giáo viên nào thời nay cũng có", bà Côi nói.

Bình dân học vụ còn cho thấy sự quan trọng của việc học tập suốt đời, học nữa học mãi. Năm 1994, bên cạnh công tác tại trường, bà Côi đi dạy những trẻ em lang thang từ các tỉnh về Hà Nội. Sau khi nghỉ hưu năm 1998, bà tiếp tục mở lớp linh hoạt xóa mù, dạy chữ cho những trẻ tự kỷ, thiểu năng trí tuệ. Lớp học này còn duy trì đến ngày này.

Ông Nguyễn Phong Niên, nguyên Ủy viên thư ký Ủy ban Quốc gia Chống nạn mù chữ, thầy giáo trong phong trào bình dân học vụ những năm 1951-1953, đánh giá bình dân học vụ là phong trào quần chúng sáng tạo, linh hoạt, là nền tảng của giáo dục thường xuyên và là ví dụ điển hình cho việc học tập suốt đời mà ngày nay mọi người vẫn nhắc nhở nhau.

"Bác Hồ nói rất đúng rằng Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Ngay cả có nhiều trí thức giỏi mà toàn dân yếu thì cũng không được bởi không thể lấy một đội ngũ giỏi ở trên để thay thế quần chúng cực đông ở dưới được. Việc mở ra phong trào giúp toàn dân biết chữ như bình dân học vụ là đúng đắn và cần thiết, để lại nhiều bài học đến tận bây giờ", ông Niên khẳng định.

Video liên quan

Chủ Đề