Nguyên nhân dân đến 2 cuộc cách mạng ở Nga
Một nước Nga trì trệ “một cổ hai tròng” Đến năm 1917, phần lớn người dân Nga đã mất niềm tin vào khả năng lãnh đạo của chế độ Sa hoàng. Nạn tham nhũng tràn lan trong chính phủ, nền kinh tế Nga vẫn lạc hậu. Sa hoàng Nicholas liên tục giải tán Duma - Quốc hội Nga được thành lập sau Cách mạng 1905, khi nó chống lạiý nguyện của ông và gia tộc. Chính sự bảo thủ của chế độ Sa hoàng đã tạo ra các tổ chức tư bản độc quyền nhưng vẫn mang màu sắc quý tộc, phong kiến thông qua các tước vị cha truyền, con nối. Các nhà đại tư bản kiểm soát phần lớn các ngành công nghiệp nội địa của Nga như: Dầu mỏ, than đá, luyện kim, đường sắt… Giai cấp công nhân Nga vừa bị bóc lột, vừa bị đối xử tàn tệ như những kẻ nô lệ trong hầm mỏ và nhà máy. Trong khi đó, người nông dân Nga do không chịu nổi tô, thuế, phần lớn đã bỏ ruộng đất ra các thành phố lớn kiếm việc làm. Đây là những tàn tích của chế độ phong kiến-nông nô khi phần lớn ruộng đất tại Nga nằm trong tay giới địa chủ, quý tộc và nhà thờ. Cuộc sống cực khổ đã đưa người nông dân Nga tiến tới con đường bần cùng hóa.
Cuộc sống bị bần cùng hóa của nhân dân Nga dưới thời Sa hoàng đã tạo ra hàng loạt phong trào đấu tranh với cao trào là cuộc Cách mạng Tháng Hai lật đổ chế độ phong kiến đã tồn tại hàng trăm năm. Ảnh: RIA Novosti. Thực tế, do ảnh hưởng của chế độ phong kiến, mức độ phát triển sản xuất tư bản tại Nga chỉ tương đương một quốc gia trung bình tại châu Âu. Công nghệ lạc hậu, dựa nhiều vào sức người, năng suất thấp và phần lớn lợi tức phụ thuộc vào việc xuất khẩu các sản phẩm nguyên liệu thô sang phương Tây, nhất là Anh, Pháp và Đức. Phương Tây coi Nga vừa là nơi tiêu thụ hàng hóa, vừa là nơi cung cấp những nguyên liệu thô thiết yếu cho nền công nghiệp của họ. Để dập tắt các phong trào đấu tranh dân chủ trong nước, Sa hoàng và lực lượng đại tư bản đã thẳng tay bóc lột và tước bỏ mọi quyền tự do của giai cấp công nhân, nông dân. Để duy trì quyền cai trị, Sa hoàng duy trì một đội quân thường trực đông đảo cùng với lực lượng cảnh sát, hiến binh sẵn sàng đàn áp các hành động chống đối trong biển máu. Chính những mâu thuẫn đan xen giữa giai cấp công nhân, nông dân Nga với tầng lớp tư bản, chủ nô, Sa hoàng và sự đấu tranh vì quyền lợi giữa bản thân giai cấp tư bản Nga với giới tư bản nước ngoài đã biến nước Nga phong kiến như một ly nước đầy và chỉ cần một giọt nước sẽ làm tràn ly. “Giọt nước tràn ly” đó chính là sự can dự của Sa hoàng vào Thế chiến thứ nhất. Về mặt quân sự, đế quốc phong kiến Nga không sánh được với nước Đức công nghiệp hóa. Cuộc chiến kéo dài và quân đội Nga chịu nhiều thương vong hơn bất kỳ quốc gia nào phải chịu đựng trong các cuộc chiến tranh trước đó. Không chỉ thảm bại trên chiến trường, chiến tranh đã làm nền kinh tế nửa tư bản, nửa phong kiến của Nga bị hủy hoại đến vô vọng bởi các nỗ lực tìm nguồn lực duy trì chiến tranh tốn kém. Ở các thành phố lớn, việc cung cấp bánh mì, đường sữa ngày càng thất thường. Nạn đói đã xảy ra trầm trọng ở nhiều vùng nông thôn. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân tăng lên mạnh mẽ. Đây chính là cơ hội chín muồi cho một cuộc cách mạng lật độ chế độ Sa hoàng. Cách mạng Tháng Hai bùng nổ và sự sụp đổ của chế độ phong kiến Sa hoàng Ngày 8-3-1917 (tức 23-2 theo lịch cũ Julius của Nga), kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ, chị em công nhân các nhà máy ở thủ đô Petrograd (nay là Saint Petersburg) đã xuống đường biểu tình, tuần hành. Hoạt động trên đã nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà máy trong thành phố và nhanh chóng biến thành làn sóng không thể kiểm soát. Hơn 128.000 công nhân, nông dân đã xuống đường đấu tranh với khẩu hiệu: “Đả đảo chiến tranh'', “Đả đảo chế độ chuyên chế”, ''Bánh mì''… Hoạt động biểu tình, tuần hành tiếp tục duy trì trong nhiều ngày sau đó và tới ngày 10-3, khi các yêu sách của công nhân không được giới chủ tư bản và chính quyền Sa hoàng đáp ứng, các cuộc biểu tình đã biến thành khởi nghĩa vũ trang. Các đám đông người biểu tình tấn công và chiếm các sở cảnh sát. Tổ chức Xô viết công nhân, binh lính được thành lập tại nhiều nhà máy.
Sự đàn áp đẫm máu của Sa hoàng đối với các phong trào đấu tranh đã dẫn tớicuộc Cách mạng Tháng Hai và lịch sử nước Nga đã chính thức sang trang mới. Ảnh: RIA Novosti. Tới ngày 11-3, quân đội Sa hoàng và cảnh sát được lệnh bắn vào người biểu tình. Không chùn bước, phong trào biểu tình tiếp tục lan rộng và tạo ra sự dao động trong tinh thần lực lượng quân đội Bảo hoàng. Đến ngày 12-3, người biểu tình đã chiếm thủ đô, kiểm soát các kho vũ khí. Các trung đoàn của quân đội đồn trú ở Petrograd theo nhau quay sang ủng hộ lý tưởng của những người quần chúng. Quân đội, gồm khoảng 150.000 người, sau đó đã thành lập các ủy ban để bầu đại biểu tham giaXô viết Petrograd.Bộ máy công quyền Sa hoàng cơ bản tê liệt hoàn toàn. Các đơn vị khởi nghĩa vũ trang đánh chiếm các công sở, nhà ga xe lửa, trung tâm bưu điện, các nhà giam và giải phóng tù chính trị. Các bộ trưởng và tướng tá chính quyền Sa hoàng bị bắt giam. Quần chúng khởi nghĩa làm chủ tình hình ở thủ đô. Ngày 13-3, các đơn vị quân đội ở thủ đô Petrograd hạ vũ khí. Tin thắng lợi của phong trào khởi nghĩa tại thủ đô Petrograd nhanh chóng bay khắp nước Nga và các phong trào đấu tranh, khởi nghĩa xảy ra ở hàng loạt thành phố lớn. Ở Moscow và nhiều thành phố khác, công nhân và nhân dân lao động đã nổi dậy lật đổ chế độ Sa hoàng, thành lập các Xô viết để liên kết công nông-binh sĩ giành chính quyền. Chỉ trong vòng 8 ngày, cuộc Cách mạng Tháng Hai đã thành công và lật đổ hoàn toàn chế độ Sa hoàng đã tồn tại hàng thế kỷ qua. Tuy đã lật đổ chế độ cũ và giành được chính quyền, nhưng nước Nga theo chế độ cộng hòa dân chủ lại lâm vào tình trạng phức tạp mới. Quyền lực của chính quyền mới không hợp nhất, mà phân tán do các tổ chức Xô viết và chính quyền dân chủ tư sản nắm giữ. Ngày 14-3, Xô viết ra bản Quân lệnh số 1 nổi tiếng, trong đó chỉ đạo lục quân và hải quân Nga chỉ tuân thủ các sắc lệnh của Xô viết chứ không phải là Chính phủ lâm thời tư sản. Chính phủ lâm thời hoàn toàn bất lực trước mệnh lệnh này. Đây chính là nguy cơ mới của một cuộc cách mạng công nông không triệt để và cần thêm một cuộc cách mạng để nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới ra đời. Trong thời điểm đó, lãnh tụ của người Bolsevich, Vladimir Ilich Lenin đã vượt qua chiến tuyến Đức trở về nước Nga để lãnh đạo phong trào cách mạng Nga với đỉnh điểm là Cuộc khởi nghĩa Tháng Mười.
TUẤN SƠN (tổng hợp) Bài 2: Sự phản bội lý tưởng của những người Mensevich Bài này không có nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây. Đến đầu năm 1917 tại nước Nga đã xuất hiện các nguyên nhân khách quan và chủ quan cho các cuộc cách mạng nổ ra. Các nguyên nhân này đã xuất hiện từ lâu nhưng việc đế quốc Nga tham gia vào thế chiến thứ nhất là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cách mạng.
Đầu thế kỷ XX, đế quốc Nga là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới. Sau khi Nga hoàng Aleksandr II thực hiện cuộc cải cách nông nô 1861, chủ nghĩa tư bản Nga phát triển nhanh chóng. Tuy phát triển sau các nước tư bản Tây Âu nhưng đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cũng như các nước Tây Âu khác, đế quốc Nga cũng chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Tư bản nước ngoài đầu tư mạnh mẽ vào Nga như Anh, Pháp, Đức đặc biệt là Pháp với 5 tỉ Rupee. Các ngành công nghiệp nặng phát triển như luyện kim, cơ khí, hoá dầu,… với nhiều thành tựu như từ năm 1860 đến 1890, sản lượng thép tăng lên 3 lần, than đá tăng 19 lần, chiều dài đường xe lửa tăng gấp đôi. Năm 1913, sản lượng công nghiệp Nga chiếm 5,5% sản lượng công nghiệp thế giới, đứng thứ 5 thế giới.
Đến đầu thế kỷ XX, 150 công ty độc quyền thao túng toàn bộ nền kinh tế Nga như ngân hàng Nga Á chiếm 1/3 tổng số vốn ngân hàng của nước Nga. Về trình độ công nghiệp của Nga thua kém các nước khác nhưng mức độ tập trung công nghiệp rất cao. ¾ công nhân Nga tập trung ở các thành phố lớn như Petrograd, Moskva, khu khai thác than Donetsk, khu khai thác dầu Baku.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng nhưng muộn màng của chủ nghĩa tư bản Nga vẫn không thể thay đổi 1 thực tế là nước Nga là vẫn là 1 nước nông nghiệp với mối quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Tàn tích của chế độ nông nô vẫn còn tồn tại sâu rộng ở nước Nga thể hiện rõ nét ở việc phần lớn ruộng đất tập trung trong tay quý tộc, địa chủ. 2/3 ruộng đất trong nước nằm trong tay địa chủ, quý tộc, 30 000 đại địa chủ chiếm tới 70 triệu mẫu Nga (1 mẫu Nga = 1,09 hecta) ruộng đất. Nga hoàng đồng thời cũng là địa chủ lớn nhất với 7 triệu mẫu Nga ruộng đất. Địa chủ bóc lột nông dân hết sức nặng nề và tàn bạo, nhất là chế độ lao dịch. Trình độ sản xuất nông nghiệp lạc hậu do đó năng suất thấp, nạn mất mùa và đói kém xảy ra thường xuyên.
Sau khi Nga tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chiến tranh đã làm cho nền kinh tế bị kiệt quệ. Nhiều lãnh thổ trù phú, nhiều nhà máy ở vùng phía Tây nước Nga bị quân Đức chiếm nên tiềm lực công nghiệp chỉ còn một nửa mức trước chiến tranh, sản lượng nông nghiệp bị giảm 20%, chỉ còn lại 1/2 chiều dài đường sắt và các phương tiện vận tải, tiền tệ lạm phát nghiêm trọng. Những khó khăn về kinh tế đã làm bùng nổ mâu thuẫn chính trị, xã hội. Chính trị - xã hộiĐến đầu thế kỷ XX và trước thế chiến thứ nhất, Nga vẫn là nước theo chế độ quân chủ chuyên chế dưới sự cai trị của Nga hoàng Nikolai II. Sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản độc quyền và những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa, sự kết hợp giữa hình thái kinh tế tiên tiến nhất và lạc hậu nhất đã làm cho nước Nga trở thành nơi tập trung cao độ các mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc:
Với tình trạng kinh tế và tình hình xã hội tồn tại nhiều mối mâu thuẫn như vậy làm cho đế quốc Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, tạo nên tiền đề chủ quan cho cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi. Giai cấp công nhân Nga có sự phát triển riêng so với các nước khác. Công nhân Nga phải làm việc 12 tiếng thậm chí đến 17 tiếng mỗi ngày. Điều kiện lao động hết sức tồi tệ lại có mức lương thấp nhất trong các nước tư bản chủ nghĩa do đó công nhân Nga sớm có ý thức đấu tranh cao. Ngoài ra, đa số công nhân Nga tập trung ở các thành phố lớn có lợi cho sự đoàn kết của giai cấp công nhân. Sự phát triển của phong trào công nhân đã đẩy nhanh việc truyền bá chủ nghĩa Marx vào nước Nga. Năm 1903, đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga được thành lập do Lenin đứng đầu. Từ đó giai cấp vô sản Nga đã có chính đảng là đảng Bolshevick dưới sự lãnh đạo của Lenin. Giai cấp vô sản Nga đã tiến hành cuộc cách mạng Nga 1905 và thất bại nhưng đã mang đến cho họ nhiều kinh nghiệm về mặt tổ chức và tiến hành khởi nghĩa. Lenin đã nói: " Không có cuộc tổng diễn tập 1905 thì cũng không có thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 ". Một điều kiện thuận lợi là giai cấp tư sản Nga yếu cả về kinh tế lẫn chính trị do sự phát triển muộn của chủ nghĩa tư bản Nga, mang tính phụ thuộc cao vào chế độ quân chủ chuyên chế và tư bản nước ngoài do đó giai cấp tư sản Nga không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng và không có đủ khả năng để đàn áp giai cấp vô sản. Ngày 1 tháng 8 1914, đế quốc Đức tuyên chiến với đế quốc Nga, đế quốc Nga tham gia vào thế chiến thứ nhất. Cuộc chiến tranh kéo dài càng đẩy mạnh sự sụp đổ về kinh tế và khủng hoảng chính trị, xã hội ở Nga. Sự sụp đổ về kinh tếNền kinh tế Nga vốn lạc hậu nên không chịu được cường độ cao của cuộc chiến tranh. Lệnh tổng động viên 10 triệu người tham gia nhập ngũ đã làm cho sản xuất nông nghiệp thiếu nhân lực nghiêm trọng nên ngày càng suy thoái. Từ năm 1916 đến 1917 sản lượng lương thực giảm 20%. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra khắp nơi. Sản xuất công nghiệp cũng đình đốn trong chiến tranh nên nạn thất nghiệp tăng nhanh. Chiến tranh cũng làm cho nền tài chính nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng. Từ tháng 8/1914 đến tháng 3/1917, triều đình Nga hoàng đã chi vào cuộc chiến 29,6 tỷ Rupee, cao gấp 3 lần tổng thu quốc khố. Để có tiền chi dùng cho cuộc chiến, triều đình liên tục trưng thu những loại thuế mới và tổ chức bán quốc trái trong nhân dân. Tổng số quốc trái tính từ đầu 1914 là 8,8 tỷ Rupee đã tăng lên 36,6 tỷ Rupee vào năm 1917. Trong thế chiến thứ nhất, các mặt hàng có giá trị nhất là ngũ cốc, các phú nông và thương buôn đã đầu cơ, tích trữ lương thực: giá lương thực tăng cao hơn so với bất kỳ loại hàng hóa khác trong chiến tranh. Năm 1916, giá lương thực tăng cao hơn so với mức lương 3 lần, mặc dù vụ mùa bội thu trong cả hai năm 1915 và 1916. Giá ngũ cốc từ 2,5 rúp được dự đoán sẽ tăng lên đến 25 rúp. Với giá lương thực đắt đỏ, trong suốt năm 1916, người lao động ở đô thị Nga chỉ ăn trung bình khoảng từ 200 đến 300 gram lương thực cho mỗi ngày. Năm 1917, dân cư ở các đô thị của Nga được phép mua chỉ 450 gram bánh mỳ cho mỗi người lớn, mỗi ngày. Tới mùa thu năm 1917, nước Nga đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị hết sức trầm trọng. Sản xuất công nghiệp chỉ bằng 36,4% so với năm trước. Giao thông vận tải hầu như bị tê liệt. Nạn đói đã xảy ra ở nhiều vùng trong nước, nhất là ở các thành phố. Các mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt. Khủng hoảng chính trị, xã hộiNgoài mặt trận, quân đội Nga do trang bị kém và lạc hậu nên liên tiếp thất bại, từ tháng 8 1914 đến tháng 2 1917, quân đội Nga bỏ nhiều vị trí quan trọng như Ba Lan, Latvia, Lithunia, Litva, Bucovina. Đi kèm với các thất bại là mức độ thương vong khủng khiếp. Quân lính Nga chết vì bệnh tật, đói, rét và bị bắt làm từ binh. Đến đầu năm 1917 đã có 1,5 triệu lính Nga chết, 4 triệu người bị thương, gần 2 triệu binh lính bị bắt hoặc đào ngũ. Trong khi đó, một số sĩ quan trong quân đội Nga hoàng và bọn tư sản, địa chủ đã lợi dụng cuộc chiến tranh để làm giàu bất chính. Mọi nỗi khổ của cuộc chiến tranh đè nặng lên vai các tầng lớp nhân dân Nga, đặc biệt là nông dân, công nhân Nga và hơn 100 dân tộc trong đế quốc Nga. Ngay cả một số người trong giai cấp tư sản cũng bất mãn với chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng, muốn lợi dụng thời cơ để giành lấy chính quyền. Trước tình hình đó, trên toàn nước Nga đã xảy ra 1416 cuộc bãi công và 294 cuộc nổi loạn của nông dân. Quân đội cũng bất mãn với chế độ Nga hoàng. Ngoài mặt trận quân đội đào ngũ hàng loạt và tổ chức nổi loạn như vụ nổi loạn của các lính thủy trên chiến hạm vào tháng 10 1916. Các dân tộc cũng nổi dậy. Tháng 7 1916 tại Kazakhstan, nông dân đã đứng lên khởi nghĩa, thiêu huỷ danh sách trưng binh và đập phá các cơ quan nhà nước. Đến thời điểm này, triều đình Nga hoàng đã không còn khả năng thống trị nữa và nước Nga tiến sát tới một cuộc cách mạng.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Lịch_sử_Nga_(1892–1917)&oldid=68937110” |