Nhiễm lạnh phổi là gì

Viêm phổi cộng đồng được định nghĩa là viêm phổi mắc phải ngoài bệnh viện. Các căn nguyên vi khuẩn được xác định phổ biến nhất là Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae, vi khuẩn không điển hình (ví dụ, Chlamydia pneumoniae, Mycoplasma pneumoniae, Legionella sp), và vi rút. Triệu chứng và dấu hiệu là sốt, ho, đờm, đau ngực kiểu màng phổi, khó thở, thở nhanh, và nhịp tim nhanh. Chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng và chụp X-quang ngực. Điều trị bằng thuốc kháng sinh được lựa chọn theo kinh nghiệm. Điều trị bằng các kháng sinh dựa trên kinh nghiệm Tiên lượng là rất tốt cho những bệnh nhân trẻ tuổi hoặc khỏe mạnh, nhưng nhiều trường hợp viêm phổi, đặc biệt là khi gây ra bởi S. pneumoniae, Legionella, Staphylococcus aureus, hoặc virus cúm, có thể nghiêm trọng hoặc thậm chí gây tử vong ở bệnh nhân già yếu.

Nhiều căn nguyên sinh vật gây ra viêm phổi cộng đồng, bao gồm vi khuẩn, vi rút và nấm. Các tác nhân gây bệnh thay đổi theo tuổi bệnh nhân và các yếu tố khác (xem bảng Viêm phổi cộng đồng ở người lớn

Nhiễm lạnh phổi là gì
Viêm phổi mắc phải ở người lớn ở người lớn), nhưng tầm quan trọng của mỗi tác nhân viêm phổi cộng đồng là không chắc chắn, vì hầu hết bệnh nhân không được kiểm tra kỹ lưỡng, và ngay cả khi được kiểm tra thì các tác nhân cụ thể cũng chỉ được xác định trong < 50% trường hợp.

Nguyên nhân nhiễm trùng phổ biến nhất

  • S. pneumoniae

Viêm phổi do chlamydia và mycoplasma thường không thể phân biệt được bằng lâm sàng với bệnh viêm phổi do nguyên nhân khác.

Nguyên nhân do virus bao gồm

  • Virus hợp bào đường hô hấp (RSV)

  • Nhóm adenovirus

  • Nhóm virus cúm

  • Metapneumovirus

  • Nhóm virus á cúm

vi khuẩn bội nhiễm có thể làm cho việc phân biệt virut với nhiễm khuẩn rất khó khăn.

C. pneumoniae chiếm từ 2 đến 5% số ca viêm phổi mắc phải tại cộng đồng và là nguyên nhân thứ 2 gây ra viêm phổi ở những người khỏe mạnh từ 5 đến 35 tuổi. C. pneumoniae thường là nguyên nhân của sự bùng phát các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trong gia đình, trong ký túc xá đại học, và trong các trại huấn luyện quân sự. Nó gây ra một dạng viêm phổi tương đối lành tính và thường không phải nhập viện. Viêm phổi do Chlamydia psittaci C. psittaci Ba loài Chlamydia gây bệnh ở người, bao gồm các bệnh lây truyền qua đường tình dục và các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp. Hầu hết đều nhạy... đọc thêm (psittacosis) rất hiếm và thường xảy ra ở những bệnh nhân nuôi hoặc có tiếp xúc với vẹt (Vẹt, vẹt đuôi dài, vẹt đuôi dài Nam Mỹ).

Kể từ năm 2000, tỷ lệ mắc phải Staphylococcus aureus kháng methicilin trong công đồng (CA-MRSA) từ nhiễm trùng da đã tăng lên rõ rệt. Mầm bệnh này hiếm khi gây ra viêm phổi nặng, viêm phổi hoại tử và có xu hướng ảnh hưởng đến người trưởng thành trẻ tuổi.

P. aeruginosa là một nguyên nhân phổ biến gây viêm phổi ở những bệnh nhân bị xơ nang, giảm bạch cầu, AIDS tiến triển, và/hoặc giãn phế quản.

Một loạt các căn nguyên khác gây nhiễm trùng phổi ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Ở những bệnh nhân bị viêm phổi, tiền sử phơi nhiễm, đi lại, vật nuôi, sở thích và các phơi nhiễm khác là điều cần thiết để gợi ý cho các căn nguyên ít phổ biến hơn.

Sốt Q, bệnh sốt thỏ, bệnh than và bệnh dịch hạch là những hội chứng nhiễm khuẩn không thường gặp, trong đó viêm phổi có thể là một đặc điểm nổi bật. Bệnh sốt thỏ Tularemia Bệnh sốt thỏ là bệnh sốt do Francisella tularensis; nó có thể giống với thương hàn. Triệu chứng là một tổn thương loét cục bộ ban đầu, bệnh hạch bạch huyết vù... đọc thêm

Nhiễm lạnh phổi là gì
, bệnh than Bệnh than Do vi khuẩn Bacillus anthracis, là những sinh vật sinh độc tố, có vỏ, kị khí tuỳ tiện. Bệnh than, một bệnh thường gây tử vong ở động vật, được lây sang người... đọc thêm
Nhiễm lạnh phổi là gì
, và dịch hạch Bệnh dịch hạch và các bệnh nhiễm trùng khác do Yersinia Bệnh dịch hạch do vi khuẩn gram âm gây ra Yersinia pestis. Các triệu chứng là bệnh viêm phổi nặng hoặc hạch to với sốt cao, thường tiến triển thành nhiễm... đọc thêm
Nhiễm lạnh phổi là gì
có thể làm tăng nghi ngờ khủng bố sinh học Các tác nhân sinh học dùng làm vũ khí Chiến tranh sinh học (BW) là việc sử dụng các tác nhân vi sinh cho các mục đích thù địch. Việc sử dụng như vậy là trái với luật pháp quốc tế và hiếm khi xảy ra trong chiến tranh chính quy trong... đọc thêm .

Các ký sinh trùng gây viêm phổi ở các nước phát triển bao gồm Toxocara canis hoặc là T. catis ( toxocariasis Bệnh Toxocariasis Bệnh Toxocariasis là sự nhiễm bệnh của con người với ấu trùng giun đũa tròn động vật. Triệu chứng là sốt, chán ăn, gan lách to, phát ban, viêm phổi, hen... đọc thêm

Nhiễm lạnh phổi là gì
), Dirofilaria immitis ( dirofilariasis Bệnh Dirofilariasis Bệnh Dirofilaria immitissis là bệnh nhiễm giun tròn Dirofilaria, gium tim chó, hoặc những loài Dirofilaria spp khác, được lây truyền cho người bởi... đọc thêm ), và Paragonimus westermani ( paragonimiasis Bệnh sán lá phổi Paragonimiasis là nhiễm trùng với sán lá phổi Paragonimus westermani và các loài liên quan. Con người bị nhiễm bệnh bằng cách ăn sống động... đọc thêm
Nhiễm lạnh phổi là gì
).

S. pneumoniae và MRSA có thể gây viêm phổi hoại tử.

Ở trẻ em, các nguyên nhân viêm phổi thông thường nhất phụ thuộc vào tuổi:

  • < 5 tuổi: Thường là virus; ngoài ra có một số vi khuẩn thường gặp như S. pneumoniae, S. aureus, và S. pyogenes

  • ≥ 5 tuổi: Hầu hết là các vi khuẩn S. pneumoniae, M. pneumoniae, hoặc là Chlamydia pneumoniae

Triệu chứng và Dấu hiệu

Các triệu chứng bao gồm chứng khó chịu, rét run, rùng mình, sốt, ho, khó thở, và đau ngực. Ho thường có đờm ở trẻ lớn và người trưởng thành, ho khan ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và người cao tuổi. Khó thở thường là nhẹ và xuất hiện khi gắng sức, hiếm khi xuất hiện khi nghỉ ngơi. Đau ngực kiểu màng phổi và thường đau ở vùng bị tổn thương. Viêm phổi có thể biểu hiện như đau bụng trên khi nhiễm trùng thùy dưới làm kích thích cơ hoành. Các triệu chứng tiêu hóa (buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy) cũng phổ biến. Triệu chứng thay đổi ở thời kỳ toàn phát. Nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh có thể biểu hiện như sự khó chịu và bồn chồn không đặc hiệu; ở người cao tuổi, biểu hiện có thể là thay đổi ý thức và lẫn lộn.

Dấu hiệu bao gồm sốt, thở nhanh, nhịp tim nhanh, ran nổ, tiếng thổi ống, rung thanh tăng (thay đổi E thành A, trong khi nghe, bệnh nhân nói chữ "E" và người kiểm tra nghe chữ "A"), gõ đục. Dấu hiệu tràn dịch màng phổi Triệu chứng và Dấu hiệu Tràn dịch màng phổi là tích tụ dịch trong khoang màng phổi. Có nhiều nguyên nhân gây ra và thường được phân loại là dịch thấm hoặc... đọc thêm

Nhiễm lạnh phổi là gì
cũng có thể có. Phập phồng cánh mũi, sử dụng các cơ hô hấp phụ, tím tái hay gặp ở trẻ sơ sinh. Sốt thường không gặp ở người cao tuổi.

  • X-quang ngực

  • Xem xét chẩn đoán phân biệt (ví dụ, suy tim, tắc mạch phổi)

  • Đôi khi xác định mầm bệnh

Chẩn đoán được nghĩ tới trên cơ sở hình ảnh lâm sàng và thâm nhiễm trên X-quang phổi. Khi có nhiều nghi ngờ lâm sàng về viêm phổi và chụp X quang phổi không cho thấy thâm nhiễm, nên chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp X quang phổi lặp lại trong 24 đến 48 giờ.

Chẩn đoán phân biệt ở bệnh nhân có triệu chứng giống viêm phổi bao gồm viêm phế quản cấp Viêm phế quản cấp Viêm phế quản cấp là tình trạng viêm của cây khí quản, thường xảy ra sau nhiễm trùng đường hô hấp trên, xảy ra ở những bệnh nhân không... đọc thêm và đợt cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) đặc trưng bởi sự giới hạn về luồng khí thở gây ra do đáp ứng viêm do hít phải các chất khí độc hại, thường là... đọc thêm

Nhiễm lạnh phổi là gì
, có thể được phân biệt với viêm phổi bằng cách không có thâm nhiễm trên X-quang ngực. Các rối loạn khác cần được xem xét, đặc biệt khi những triệu chứng không phù hợp hoặc không điển hình như suy tim Suy tim (HF) Suy tim (HF) là một hội chứng rối loạn chức năng tâm thất. Suy tim trái gây khó thở và mệt mỏi, suy tim phải gây ứ trệ tuần hoàn ngoại biên; cá... đọc thêm
Nhiễm lạnh phổi là gì
, viêm phổi tổ chức hóa, hoặc viêm phổi tăng cảm. Bệnh lý nghiêm trọng nhất thường bị bỏ sót là tắc mạch phổi Tắc mạch phổi (PE) Tắc mạch phổi là tắc nghẽn nhánh động mạch phổi do huyết khối xuất phát từ nơi khác, điển hình là ở tĩnh mạch lớn ở chân hoặc khung chậu. Các yếu tố nguy... đọc thêm
Nhiễm lạnh phổi là gì
, có thể gặp ở bệnh nhân khó thở cấp, ho ít đờm, không có triệu chứng đường hô hấp trên hoặc triệu chứng toàn thân, và có các yếu tố nguy cơ thuyên tắc huyết khối (Xem bảng Yếu tố nguy cơ của thuyên tắc tĩnh mạch sâu Các yếu tố nguy cơ đối với huyết khối tĩnh mạch sâu và tắc mạch phổi
Nhiễm lạnh phổi là gì
) ; do đó, xét nghiệm thuyên tắc mạch phổi nên được xem xét ở những bệnh nhân có các triệu chứng và yếu tố nguy cơ như vậy.

Các mẫu nuôi cấy từ nội soi phế quản hoặc mẫu hút, nếu được lấy trước khi dùng kháng sinh, có thể giúp phân biệt giữa vi khuẩn xâm nhập (tức là sự hiện diện của vi sinh vật ở những mức độ không gây triệu chứng và đáp ứng miễn dịch) và nhiễm trùng. Tuy nhiên, soi phế quản thường chỉ được thực hiện ở những bệnh nhân thở máy hoặc những người có các yếu tố nguy cơ khác đối với vi sinh vật không điển hình hoặc viêm phổi phức tạp (ví dụ như suy giảm miễn dịch, thất bại điều trị theo kinh nghiệm).

Phân biệt giữa viêm phổi do vi khuẩn và virus là một thách thức. Nhiều nghiên cứu đã điều tra các lợi ích của lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh, và xét nghiệm máu thường quy, nhưng không có phương pháp nào là đáng tin cậy, đủ để phân biệt các bệnh lý này.

Việc xác định mầm bệnh có thể hữu ích trực tiếp đối với việc điều trị và kiểm tra tính nhạy cảm của vi khuẩn đối với kháng sinh. Tuy nhiên, do những hạn chế của các xét nghiệm chẩn đoán hiện tại và thành công của điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm, các chuyên gia khuyên nên hạn chế các nỗ lực để xác định vi sinh vật (ví dụ, nuôi cấy, xét nghiệm kháng nguyên cụ thể) trừ khi bệnh nhân có nguy cơ cao hoặc có các biến chứng (ví dụ viêm phổi nặng, suy giảm miễn dịch, lách to, không đáp ứng với điều trị kinh nghiệm). Nhìn chung, viêm phổi càng nhẹ thì càng cần ít các xét nghiệm để chẩn đoán. Mycobacterium tuberculosisCác bệnh nhân có tình trạng lâm sàng nghiêm trọng cần được dùng các xét nghiệm chuyên sâu nhất, cũng như những bệnh nhân mà nghi ngờ nhiễm khuẩn ít gặp hoặc kháng kháng sinh (ví dụ lao, P. jirovecii) và bệnh nhân có tình trạng xấu đi hoặc không đáp ứng với điều trị trong vòng 72 giờ.

X-quang ngực các dấu hiệu thường không thể phân biệt được một loại nhiễm trùng so với loại khác, mặc dù những dấu hiệu sau đây có thể gợi ý:

  • Xâm nhập đa thùy gợi ý nhiễm S. pneumoniae hoặc là Legionella pneumophila.

  • Viêm phổi mô kẽ (trên XQ ngực, xuất hiện khi dấu hiệu kẽ tăng lên, đám mờ dạng lưới dưới màng phổi tăng từ đỉnh đến nền phổi) gợi ý căn nguyên virus hoặc mycoplasmal.

  • Viêm phổi tạo bọt S. aureus hoặc nguyên nhân nấm hoặc mycobacterial.

Nuôi cấy máu, thường áp dụng ở bệnh nhân nhập viện do viêm phổi, có thể xác định được các mầm bệnh nếu có hiện tượng nhiễm khuẩn huyết. Khoảng 12% bệnh nhân nhập viện do viêm phổi có nhiễm khuẩn huyết; S. pneumoniae chiếm 2/3 trong số những trường hợp này.

Xét nghiệm đờm có thể bao gồm nhuộm Gram và nuôi cấy để xác định mầm bệnh, nhưng giá trị của các xét nghiệm này không chắc chắn bởi vì mẫu vật thường bị nhiễm vi khuẩn miệng và khả năng chẩn đoán nói chung thấp. Dù vậy, việc xác định một vi khuẩn gây bệnh trong nuôi cấy đờm cho phép kiểm tra tính nhạy cảm của vi khuẩn. Lấy mẫu đờm cũng cho phép xét nghiệm các mầm bệnh virus thông qua kiểm tra kháng thể huỳnh quang trực tiếp hoặc PCR, nhưng cần thận trọng khi diễn giải bởi vì 15% người trưởng thành khỏe mạnh mang theo một loại vi khuẩn hô hấp hoặc vi khuẩn gây bệnh tiềm ẩn. Ở những bệnh nhân có tình trạng xấu đi và những người không đáp ứng với kháng sinh phổ rộng, đờm sẽ được nhuộm soi và nuôi cấy tìm mycobacterial và nấm.

Mẫu đờm có thể thu được bằng phương pháp không xâm lấn bằng cách khạc đờm đơn giản hoặc sau khi khí dung bằng nước muối ưu trương (gây ra đờm) cho những bệnh nhân không có đờm. Ngoài ra, bệnh nhân có thể được nội soi phế quản hoặc hút nội khí quản, dễ dàng thực hiện thông qua một ống nội khí quản ở bệnh nhân thở máy. Mặt khác, lấy mẫu qua soi phế quản thường chỉ được thực hiện cho bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ khác (ví dụ như suy giảm miễn dịch, thất bại điều trị theo kinh nghiệm).

Xét nghiệm nước tiểu tìm kháng nguyên Legionella và phế cầu khuẩn đã được phổ biến rộng rãi. Các xét nghiệm đơn giản, nhanh chóng và có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn so với nhuộm Gram đờm và nuôi cấy các mầm bệnh này. Bệnh nhân có nguy cơ viêm phổi do Legionella (như bệnh nặng, thất bại điều trị kháng sinh ngoại trú, xuất hiện tràn dịch màng phổi, lạm dụng rượu, tiền sử đi du lịch gần đây) nên thử nghiệm nước tiểu tìm kháng nguyên Legionella thường tồn tại lâu sau khi bắt đầu điều trị, nhưng xét nghiệm chỉ phát hiện được L. pneumophila nhóm huyết thanh 1 (70% trường hợp).

Các thử nghiệm tìm kháng nguyên phế cầu được khuyến cáo cho những bệnh nhân bị bệnh nặng; đã điều trị kháng sinh không thành công ngoại trú; hoặc những người có tràn dịch màng phổi, lạm dụng rượu tích cực, bệnh gan nặng, hoặc lách to. Thử nghiệm này đặc biệt hữu ích nếu không lấy mẫu đờm hoặc máu nuôi cấy trước khi bắt đầu điều trị kháng sinh. Một xét nghiệm dương tính có thể được sử dụng để điều trị kháng sinh phù hợp, mặc dù nó không cung cấp tính nhạy cảm về kháng sinh.

Tử vong thay đổi ở mức độ nào đó do mầm bệnh gây ra. Tỉ lệ tử vong cao nhất với vi khuẩn Gram âm và CA-MRSA. Tuy nhiên, vì những tác nhân gây bệnh này là các nguyên nhân gây viêm phổi cộng đồng tương đối không thường xuyên, S. pneumoniae vẫn là nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất ở bệnh nhân viêm phổi cộng đồng. Các mầm bệnh không điển hình như Mycoplasma có tiên lượng tốt. Tỷ lệ tử vong cao hơn ở bệnh nhân không đáp ứng kháng sinh theo kinh nghiệm ban đầu và ở những bệnh nhân có chế độ điều trị không phù hợp với hướng dẫn.

  • Phân tầng nguy cơ để xác định khu vực chăm sóc

  • Kháng sinh

  • Thuốc kháng virus cho cúm hoặc thủy đậu

  • Các biện pháp hỗ trợ

Phân tầng nguy cơ thông qua các quy tắc dự báo rủi ro có thể được sử dụng để ước tính nguy cơ tử vong và có thể giúp hướng dẫn các quyết định về nhập viện. Những quy tắc này đã được sử dụng để xác định bệnh nhân có thể được điều trị an toàn như bệnh nhân ngoại trú và những người cần nhập viện vì có nguy cơ cao biến chứng (Xem bảng Sự phân tầng nguy cơ đối với bệnh viêm phổi mắc phải tại cộng đồng Sự phân tầng nguy cơ đối với bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng (chỉ số mức độ nặng của viêm phổi - Pneumonia Severity Index: PSI)

Nhiễm lạnh phổi là gì
.). Tuy nhiên, các quy tắc này nên được dùng bổ sung chứ không phải thay thế cùng với các phán đoán lâm sàng bởi vì nhiều yếu tố không được trình bày như khả năng tuân thủ, khả năng chăm sóc bản thân, không muốn nhập viện, cũng ảnh hưởng đến các quyết định điều trị. Chỉ định nhập viện vào khoa hồi sức tích cực (ICU) là bắt buộc đối với bệnh nhân

  • Cần thông khí cơ học

  • Có hạ huyết áp (huyết áp tâm thu ≤ 90 mm Hg) không đáp ứng với bù dịch

Các tiêu chuẩn khác yêu cầu xem xét nhập viện ICU bao gồm

  • Nhịp thở >30 lần/phút

  • Pao2/phân số Oxi thở vào (Fio2) < 250

  • Multilobar pneumonia

  • Huyết áp tâm trương < 60 mm Hg

  • Lẫn lộn

  • BUN > 19,6 mg/dL (7 mmol/L)

Chỉ số viêm phổi nặng (PSI) là quy tắc dự đoán đã được nghiên cứu và chứng thực. Tuy nhiên, vì PSI rất phức tạp và đòi hỏi một số đánh giá trong phòng xét nghiệm, các quy tắc đơn giản hơn như CURB-65 thường được khuyến cáo cho sử dụng lâm sàng. Việc sử dụng những quy tắc dự đoán này đã dẫn đến việc giảm bớt việc nhập viện không cần thiết cho những bệnh nhân nhẹ.

Trong CURB-65, 1 điểm được phân bổ cho mỗi yếu tố nguy cơ sau:

  • Lẫn lộn

  • Ure (BUN ≥19 mg/dL [6,78 mmol/L])

  • Nhịp thở > 30 lần/phút

  • Huyết áp tâm thu < 90 mm Hg hoặc huyết áp tâm trương ≤ 60 mm Hg

  • Tuổi ≥ 65 tuổi

Điểm số có thể được sử dụng như sau:

  • 0 hoặc 1 điểm: Nguy cơ tử vong là < 3%. Điều trị ngoại trú thường phù hợp.

  • 2 điểm: Nguy cơ tử vong là 9%. Nhập viện nên được xem xét.

  • ≥ 3 điểm: Nguy cơ tử vong là 15 đến 40%. Nhập viện được chỉ định, và đặc biệt với 4 hoặc 5 điểm, nên xem xét nhập viện ICU.

Nhiễm lạnh phổi là gì

Liệu pháp kháng sinh là phương pháp điều trị chính cho bệnh viêm phổi mắc phải tại cộng đồng. Điều trị thích hợp bao gồm bắt đầu dùng kháng sinh theo kinh nghiệm càng sớm càng tốt, tốt nhất là 8 giờ sau khi xuất hiện. Bởi vì sinh vật khó xác định, chế độ kháng sinh theo kinh nghiệm được lựa chọn dựa trên các mầm bệnh có thể xảy ra và mức độ nghiêm trọng của bệnh tật. Các hướng dẫn đồng thuận đã được phát triển bởi nhiều tổ chức chuyên nghiệp; một hướng dẫn được sử dụng rộng rãi được trình bày chi tiết trong bảng Viêm phổi cộng đồng mắc phải ở người lớn Viêm phổi cộng đồng ở người lớn

Nhiễm lạnh phổi là gì
(Xem thêm Hướng dẫn lâm sàng của Hiệp hội bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ về bệnh viêm phổi mắc phải ở cộng đồng). Các hướng dẫn phải được điều chỉnh cho phù hợp với các mô hình mẫn cảm tại địa phương, công thức thuốc và hoàn cảnh của từng bệnh nhân. Nếu mầm bệnh sau đó được xác định, kết quả của thử nghiệm tính nhạy cảm với kháng sinh có thể giúp hướng dẫn bất kỳ thay đổi nào trong liệu pháp kháng sinh.

Đối với trẻ em, điều trị phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng tiêm phòng trước đó, điều trị ngoại trú hay nội trú. Đối với điều trị ngoại trú, điều trị được quyết định theo tuổi:

  • < 5 tuổi: Amoxicillin hoặc amoxicillin/clavulanate thường là thuốc được lựa chọn. Nếu dịch tễ học gợi ý một mầm bệnh không điển hình cũng như căn nguyên và bằng chứng lâm sàng phù hợp, có thể thay bằng một macrolide (ví dụ như azithromycin hoặc clarithromycin). Một số chuyên gia đề xuất không sử dụng kháng sinh nếu các đặc điểm lâm sàng gợi ý nhiều đến viêm phổi do virus.

  • ≥ 5 tuổi: Amoxicillin hoặc (đặc biệt nếu không thể loại trừ được một mầm bệnh không điển hình) amoxicillin cộng với macrolide. Amoxicillin/clavulanate là một lựa chọn thay thế. Nếu nguyên nhân là một mầm bệnh không điển hình, chỉ cần dùng macrolide đơn độc.

Đối với trẻ em được điều trị nội trú, liệu pháp kháng sinh có xu hướng phổ rộng hơn và phụ thuộc vào các mũi tiêm chủng trước đó của trẻ:

  • Tiêm chủng đấy đủ (chống lại S. pneumoniae và H. influenzaeloại b): Ampicillin hoặc penicillin G (lựa chọn thay thế là ceftriaxone hoặc cefotaxime). Nếu nghi ngờ MRSA, thêm vancomycin hoặc clindamycin. Nếu không thể loại trừ một mầm bệnh không điển hình, một macrolide được thêm vào.

  • Không được chủng ngừa đầy đủ: Ceftriaxone hoặc cefotaxime (thay thế là levofloxacin). Nếu nghi ngờ MRSA, thêm vancomycin hoặc clindamycin. Nếu không thể loại trừ một mầm bệnh không điển hình, một macrolide được thêm vào.

Với điều trị theo kinh nghiệm, 90% bệnh nhân viêm phổi do vi khuẩn được cải thiện. Sự cải thiện được thể hiện bằng giảm ho và khó thở, hạ sốt, giảm đau ngực, và giảm lượng bạch cầu máu. Nếu tình trạng không cải thiện cần nghĩ đến

  • Một căn nguyên vi sinh vật bất thường

  • Sự đề kháng với kháng sinh đã được sử dụng để điều trị

  • Viêm mủ màng phổi

  • Đồng nhiễm hoặc bội nhiễm với một tác nhân lây nhiễm thứ 2

  • Một tổn thương tắc nghẽn trong phế quản

  • Ức chế miễn dịch

  • Ổ di bệnh nhiễm trùng (trong trường hợp nhiễm phế cầu khuẩn)

  • Không tuân thủ điều trị (trong trường hợp bệnh nhân ngoại trú)

Nếu không thể xác nhận được một trong những trường hợp trên, sự thất bại điều trị có thể là do các biện pháp bảo vệ của cơ thể không đầy đủ. Khi điều trị thất bại, hội chẩn với chuyên gia hô hấp và/hoặc chuyên gia về bệnh truyền nhiễm.

Điều trị bằng thuốc kháng vi-rút có thể được chỉ định cho một số trường hợp viêm phổi do virus. Ribavirin không được sử dụng thường xuyên cho bệnh viêm phổi RSV ở trẻ em hoặc người lớn, nhưng có thể được sử dụng ở trẻ em có nguy cơ cao < 24 tháng.

Oseltamivir 75 mg uống 2 lần/ngày hoặc zanamivir 10 mg hít 2 lần/ngày trong vòng 48 giờ kể từ khi bắt đầu triệu chứng và trong 5 ngày làm giảm thời gian và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng ở bệnh nhân bị nhiễm cúm. Ở những bệnh nhân nhập viện vì nhiễm cúm, nghiên cứu quan sát cho thấy lợi ích thậm chí 48 giờ sau khi khởi phát triệu chứng.

Acyclovir 5 đến 10 mg/kg tiêm tĩnh mạch 8 giờ một lần cho người lớn hoặc 250 đến 500 mg/m2 diện tích bề mặt cơ thể, tiêm tĩnh mạch 8 giờ một lần cho trẻ em được khuyến cáo đối với nhiễm trùng phổi do varicella. Mặc dù viêm phổi do vi rút đơn thuần xảy ra, nhưng tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn bội nhiễm vẫn phổ biến và cần dùng kháng sinh chống lại S. pneumoniae, H. influenzae và S. aureus.

Chụp X-quang theo dõi nên được thực hiện sau 6 tuần điều trị ở bệnh nhân > 35; sự tồn tại dai dẳng của một thâm nhiễm 6 tuần làm tăng nghi ngờ về bệnh lao hoặc một tổn thương nội mô, có thể ác tính.

Nhiễm lạnh phổi là gì

Loại viêm phổi liên quan đến chăm sóc sức khoẻ đã được loại bỏ như là một loại viêm phổi riêng biệt trong Hướng dẫn của Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ năm 2016 đối với viêm phổi bệnh viện. Bệnh viêm phổi do liên quan đến chăm sóc y tế (HCAP) xảy ra ở những bệnh nhân không nằm bệnh viện, là người đã tiếp xúc gần đây với hệ thống chăm sóc sức khoẻ, bao gồm nhà dưỡng lão, hoặc các cơ sở chăm sóc dài hạn khác hoặc qua lại các trung tâm lọc máu và các trung tâm truyền dịch. Phân loại này được tạo ra để giúp xác định bệnh nhân có nguy cơ cao kháng vi khuẩn. Tuy nhiên, hướng dẫn của IDSA năm 2016 cho thấy nhiều bằng chứng cho thấy nhiều bệnh nhân bị viêm phổi liên quan đến chăm sóc sức khoẻ không có nguy cơ cao đối với vi khuẩn kháng kháng sinh. Thay vào đó, nguy cơ đối với vi khuẩn kháng kháng sinh ở những bệnh nhân này viêm phổi cộng đồng Viêm phổi cộng đồng ở người lớn

Nhiễm lạnh phổi là gì
.

Một số loại viêm phổi cộng đồng có thể phòng ngừa bằng tiêm chủng Tổng quan về tiêm chủng Khả năng miễn dịch có thể đạt được Chủ động bằng cách sử dụng các kháng nguyên (ví dụ: vắc-xin, các giải độc tố) Thụ động bằng cách sử dụng các kháng thể (ví dụ: globulin miễn dịch, kháng độc... đọc thêm . Thuốc chủng ngừa phế cầu kết hợp (PCV13) được khuyến cáo cho trẻ từ 2 tháng đến 2 tuổi và đối với người lớn ≥ 19 tuổi với một số bệnh kèm theo (bao gồm cả suy giảm miễn dịch). Thuốc chủng ngừa phế cầu polysaccharide (PPSV23) được dùng cho tất cả người lớn ≥ 65 tuổi và đối với bất kỳ bệnh nhân nào ≥ 2 tuổi có các yếu tố nguy cơ nhiễm phế cầu, bao gồm cả những người có rối loạn hệ tim mạch, phổi, hệ miễn dịch và những người hút thuốc lá (xem bảng Hướng dẫn Quản lý Thuốc chủng ngừa cho Người lớn Hướng dẫn Tiêm chủng Vắc xin cho Người lớn

Nhiễm lạnh phổi là gì
). Danh sách đầy đủ các chỉ định cho cả hai loại văcxin phòng phế cầu phổi có thể được nhìn thấy tại CDC website. Khuyến nghị cho các loại vắc-xin khác chẳng hạn như vắc xin H. influenzae tuýp B (Hib) (cho bệnh nhân < 2 tuổi), vaccin varicella (đối với bệnh nhân < 18 tháng và lần tiêm vaccin tăng cường sau đó), vaccin cúm (mỗi năm cho tất cả mọi người ≥ 6 tháng và đặc biệt là đối với những người có nguy cơ cao bị biến chứng nghiêm trọng do cúm), có thể tìm thấy ở trang web của CDC. Nhóm nguy cơ cao này bao gồm những người từ 65 tuổi trở lên và người ở bất kỳ độ tuổi nào mắc phải các bệnh mạn tính (bệnh đái tháo đường, hen suyễn, bệnh tim), phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ (Xem Lịch tiêm chủng trẻ em Lịch tiêm vắc-xin dành cho trẻ em Tiêm vắc-xin theo lịch trình được khuyến nghị bởi Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, Viện Hàn lâm Bác sĩ Gia đình Hoa Kỳ và Hiệp hội Sản phụ khoa... đọc thêm ).

Ở những bệnh nhân có nguy cơ cao mà không được tiêm phòng cúm và các trường hợp tiếp xúc gia đình của bệnh nhân bị cúm, oseltamivir 75 mg uống một lần/ngày hoặc zanamivir 10 mg mỗi lần/ngày có thể được dùng trong 2 tuần. Nếu bắt đầu trong vòng 48 giờ sau khi phơi nhiễm, các thuốc kháng vi-rút này có thể ngăn ngừa cúm (mặc dù kháng thuốc đã được mô tả đối với oseltamivir).

  • Viêm phổi cộng đồng là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ và trên toàn thế giới.

  • Các triệu chứng và dấu hiệu phổ biến bao gồm ho, sốt, ớn lạnh, mệt mỏi, khó thở, rét run, tiết đờm, và đau ngực kiểu màng phổi.

  • Điều trị bệnh nhân viêm phổi có nguy cơ nhẹ hoặc trung bình với kháng sinh theo kinh nghiệm mà không cần xét nghiệm để xác định mầm bệnh tiềm ẩn.

  • Bệnh nhân nhập viện có nhiều yếu tố nguy cơ, được đánh giá bằng các công cụ đánh giá nguy cơ.

  • Xem xét chẩn đoán phân biệt, bao gồm tắc mạch phổi, đặc biệt nếu các dấu hiệu và triệu chứng viêm phổi không điển hình.