Nhiễm lạnh phổi là gì

Viêm phổi cộng đồng được định nghĩa là viêm phổi mắc phải ngoài bệnh viện. Các căn nguyên vi khuẩn được xác định phổ biến nhất là Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae, vi khuẩn không điển hình [ví dụ, Chlamydia pneumoniae, Mycoplasma pneumoniae, Legionella sp], và vi rút. Triệu chứng và dấu hiệu là sốt, ho, đờm, đau ngực kiểu màng phổi, khó thở, thở nhanh, và nhịp tim nhanh. Chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng và chụp X-quang ngực. Điều trị bằng thuốc kháng sinh được lựa chọn theo kinh nghiệm. Điều trị bằng các kháng sinh dựa trên kinh nghiệm Tiên lượng là rất tốt cho những bệnh nhân trẻ tuổi hoặc khỏe mạnh, nhưng nhiều trường hợp viêm phổi, đặc biệt là khi gây ra bởi S. pneumoniae, Legionella, Staphylococcus aureus, hoặc virus cúm, có thể nghiêm trọng hoặc thậm chí gây tử vong ở bệnh nhân già yếu.

Nhiều căn nguyên sinh vật gây ra viêm phổi cộng đồng, bao gồm vi khuẩn, vi rút và nấm. Các tác nhân gây bệnh thay đổi theo tuổi bệnh nhân và các yếu tố khác [xem bảng Viêm phổi cộng đồng ở người lớn

Viêm phổi mắc phải ở người lớn ở người lớn], nhưng tầm quan trọng của mỗi tác nhân viêm phổi cộng đồng là không chắc chắn, vì hầu hết bệnh nhân không được kiểm tra kỹ lưỡng, và ngay cả khi được kiểm tra thì các tác nhân cụ thể cũng chỉ được xác định trong 30 lần/phút

  • Pao2/phân số Oxi thở vào [Fio2] 30 lần/phút

  • Huyết áp tâm thu < 90 mm Hg hoặc huyết áp tâm trương ≤ 60 mm Hg

  • Tuổi ≥ 65 tuổi

  • Điểm số có thể được sử dụng như sau:

    • 0 hoặc 1 điểm: Nguy cơ tử vong là < 3%. Điều trị ngoại trú thường phù hợp.

    • 2 điểm: Nguy cơ tử vong là 9%. Nhập viện nên được xem xét.

    • ≥ 3 điểm: Nguy cơ tử vong là 15 đến 40%. Nhập viện được chỉ định, và đặc biệt với 4 hoặc 5 điểm, nên xem xét nhập viện ICU.

    Liệu pháp kháng sinh là phương pháp điều trị chính cho bệnh viêm phổi mắc phải tại cộng đồng. Điều trị thích hợp bao gồm bắt đầu dùng kháng sinh theo kinh nghiệm càng sớm càng tốt, tốt nhất là 8 giờ sau khi xuất hiện. Bởi vì sinh vật khó xác định, chế độ kháng sinh theo kinh nghiệm được lựa chọn dựa trên các mầm bệnh có thể xảy ra và mức độ nghiêm trọng của bệnh tật. Các hướng dẫn đồng thuận đã được phát triển bởi nhiều tổ chức chuyên nghiệp; một hướng dẫn được sử dụng rộng rãi được trình bày chi tiết trong bảng Viêm phổi cộng đồng mắc phải ở người lớn Viêm phổi cộng đồng ở người lớn

    [Xem thêm Hướng dẫn lâm sàng của Hiệp hội bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ về bệnh viêm phổi mắc phải ở cộng đồng]. Các hướng dẫn phải được điều chỉnh cho phù hợp với các mô hình mẫn cảm tại địa phương, công thức thuốc và hoàn cảnh của từng bệnh nhân. Nếu mầm bệnh sau đó được xác định, kết quả của thử nghiệm tính nhạy cảm với kháng sinh có thể giúp hướng dẫn bất kỳ thay đổi nào trong liệu pháp kháng sinh.

    Đối với trẻ em, điều trị phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng tiêm phòng trước đó, điều trị ngoại trú hay nội trú. Đối với điều trị ngoại trú, điều trị được quyết định theo tuổi:

    • < 5 tuổi: Amoxicillin hoặc amoxicillin/clavulanate thường là thuốc được lựa chọn. Nếu dịch tễ học gợi ý một mầm bệnh không điển hình cũng như căn nguyên và bằng chứng lâm sàng phù hợp, có thể thay bằng một macrolide [ví dụ như azithromycin hoặc clarithromycin]. Một số chuyên gia đề xuất không sử dụng kháng sinh nếu các đặc điểm lâm sàng gợi ý nhiều đến viêm phổi do virus.

    • ≥ 5 tuổi: Amoxicillin hoặc [đặc biệt nếu không thể loại trừ được một mầm bệnh không điển hình] amoxicillin cộng với macrolide. Amoxicillin/clavulanate là một lựa chọn thay thế. Nếu nguyên nhân là một mầm bệnh không điển hình, chỉ cần dùng macrolide đơn độc.

    Đối với trẻ em được điều trị nội trú, liệu pháp kháng sinh có xu hướng phổ rộng hơn và phụ thuộc vào các mũi tiêm chủng trước đó của trẻ:

    • Tiêm chủng đấy đủ [chống lại S. pneumoniae và H. influenzaeloại b]: Ampicillin hoặc penicillin G [lựa chọn thay thế là ceftriaxone hoặc cefotaxime]. Nếu nghi ngờ MRSA, thêm vancomycin hoặc clindamycin. Nếu không thể loại trừ một mầm bệnh không điển hình, một macrolide được thêm vào.

    • Không được chủng ngừa đầy đủ: Ceftriaxone hoặc cefotaxime [thay thế là levofloxacin]. Nếu nghi ngờ MRSA, thêm vancomycin hoặc clindamycin. Nếu không thể loại trừ một mầm bệnh không điển hình, một macrolide được thêm vào.

    Với điều trị theo kinh nghiệm, 90% bệnh nhân viêm phổi do vi khuẩn được cải thiện. Sự cải thiện được thể hiện bằng giảm ho và khó thở, hạ sốt, giảm đau ngực, và giảm lượng bạch cầu máu. Nếu tình trạng không cải thiện cần nghĩ đến

    • Một căn nguyên vi sinh vật bất thường

    • Sự đề kháng với kháng sinh đã được sử dụng để điều trị

    • Viêm mủ màng phổi

    • Đồng nhiễm hoặc bội nhiễm với một tác nhân lây nhiễm thứ 2

    • Một tổn thương tắc nghẽn trong phế quản

    • Ức chế miễn dịch

    • Ổ di bệnh nhiễm trùng [trong trường hợp nhiễm phế cầu khuẩn]

    • Không tuân thủ điều trị [trong trường hợp bệnh nhân ngoại trú]

    Nếu không thể xác nhận được một trong những trường hợp trên, sự thất bại điều trị có thể là do các biện pháp bảo vệ của cơ thể không đầy đủ. Khi điều trị thất bại, hội chẩn với chuyên gia hô hấp và/hoặc chuyên gia về bệnh truyền nhiễm.

    Điều trị bằng thuốc kháng vi-rút có thể được chỉ định cho một số trường hợp viêm phổi do virus. Ribavirin không được sử dụng thường xuyên cho bệnh viêm phổi RSV ở trẻ em hoặc người lớn, nhưng có thể được sử dụng ở trẻ em có nguy cơ cao < 24 tháng.

    Oseltamivir 75 mg uống 2 lần/ngày hoặc zanamivir 10 mg hít 2 lần/ngày trong vòng 48 giờ kể từ khi bắt đầu triệu chứng và trong 5 ngày làm giảm thời gian và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng ở bệnh nhân bị nhiễm cúm. Ở những bệnh nhân nhập viện vì nhiễm cúm, nghiên cứu quan sát cho thấy lợi ích thậm chí 48 giờ sau khi khởi phát triệu chứng.

    Acyclovir 5 đến 10 mg/kg tiêm tĩnh mạch 8 giờ một lần cho người lớn hoặc 250 đến 500 mg/m2 diện tích bề mặt cơ thể, tiêm tĩnh mạch 8 giờ một lần cho trẻ em được khuyến cáo đối với nhiễm trùng phổi do varicella. Mặc dù viêm phổi do vi rút đơn thuần xảy ra, nhưng tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn bội nhiễm vẫn phổ biến và cần dùng kháng sinh chống lại S. pneumoniae, H. influenzae và S. aureus.

    Chụp X-quang theo dõi nên được thực hiện sau 6 tuần điều trị ở bệnh nhân > 35; sự tồn tại dai dẳng của một thâm nhiễm 6 tuần làm tăng nghi ngờ về bệnh lao hoặc một tổn thương nội mô, có thể ác tính.

    Loại viêm phổi liên quan đến chăm sóc sức khoẻ đã được loại bỏ như là một loại viêm phổi riêng biệt trong Hướng dẫn của Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ năm 2016 đối với viêm phổi bệnh viện. Bệnh viêm phổi do liên quan đến chăm sóc y tế [HCAP] xảy ra ở những bệnh nhân không nằm bệnh viện, là người đã tiếp xúc gần đây với hệ thống chăm sóc sức khoẻ, bao gồm nhà dưỡng lão, hoặc các cơ sở chăm sóc dài hạn khác hoặc qua lại các trung tâm lọc máu và các trung tâm truyền dịch. Phân loại này được tạo ra để giúp xác định bệnh nhân có nguy cơ cao kháng vi khuẩn. Tuy nhiên, hướng dẫn của IDSA năm 2016 cho thấy nhiều bằng chứng cho thấy nhiều bệnh nhân bị viêm phổi liên quan đến chăm sóc sức khoẻ không có nguy cơ cao đối với vi khuẩn kháng kháng sinh. Thay vào đó, nguy cơ đối với vi khuẩn kháng kháng sinh ở những bệnh nhân này viêm phổi cộng đồng Viêm phổi cộng đồng ở người lớn

    .

    Một số loại viêm phổi cộng đồng có thể phòng ngừa bằng tiêm chủng Tổng quan về tiêm chủng Khả năng miễn dịch có thể đạt được Chủ động bằng cách sử dụng các kháng nguyên [ví dụ: vắc-xin, các giải độc tố] Thụ động bằng cách sử dụng các kháng thể [ví dụ: globulin miễn dịch, kháng độc... đọc thêm . Thuốc chủng ngừa phế cầu kết hợp [PCV13] được khuyến cáo cho trẻ từ 2 tháng đến 2 tuổi và đối với người lớn ≥ 19 tuổi với một số bệnh kèm theo [bao gồm cả suy giảm miễn dịch]. Thuốc chủng ngừa phế cầu polysaccharide [PPSV23] được dùng cho tất cả người lớn ≥ 65 tuổi và đối với bất kỳ bệnh nhân nào ≥ 2 tuổi có các yếu tố nguy cơ nhiễm phế cầu, bao gồm cả những người có rối loạn hệ tim mạch, phổi, hệ miễn dịch và những người hút thuốc lá [xem bảng Hướng dẫn Quản lý Thuốc chủng ngừa cho Người lớn Hướng dẫn Tiêm chủng Vắc xin cho Người lớn

    ]. Danh sách đầy đủ các chỉ định cho cả hai loại văcxin phòng phế cầu phổi có thể được nhìn thấy tại CDC website. Khuyến nghị cho các loại vắc-xin khác chẳng hạn như vắc xin H. influenzae tuýp B [Hib] [cho bệnh nhân

    Chủ Đề