Phật giáo nam tông là gì

Phật giáo Nam truyền hay Phật giáo Nam tông, Truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, là một thuật ngữ học thuật được dùng để chỉ một trong hai trường phái truyền thống Phật giáo lớn trên thế giới phân loại theo địa lý. Theo đó, Phật giáo Nam truyền dùng để chỉ truyền thống Phật giáo chủ yếu được truyền bá từ Ấn Độ theo hướng Sri Lanka, lan rộng ở Đông Nam Á và khu vực Vân Nam [Trung Quốc]. Trong khi đó, truyền thống Phật giáo Bắc truyền cũng được truyền bá từ gốc Ấn Độ, nhưng qua Trung Á, phổ biến ở Trung Quốc, lan rộng ở khu vực Đông Bắc Á và một phần ở Đông Nam Á.

Lộ trình Phật giáo truyền bá về phương Đông
Đỏ:Hướng truyền giáo của Phật giáo Bắc truyền vào Đông Á.
Xanh:Hướng truyền giáo của Phật giáo Nam truyền vào Đông Nam Á.

Đừng nhầm lẫn với Thượng tọa bộ.

 

Các truyền thống Phật giáo chính:
     Xanh [Mật tông]
     Vàng [Bắc tông]
     Đỏ [Nam tông]

Phật giáo Nam truyền được truyền bá từ Ấn Độ đến Sri Lanka và các nước trong lục địa Đông Nam Á, đặc biệt là Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Nam Bộ Việt Nam. Đặc điểm chung của hệ Phật giáo Nam truyền là sử dụng hệ kinh điển Pali làm tiêu chuẩn trong thực hành tu tập.[1] Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền, kinh văn Pali là những văn bản ghi lại nguyên vẹn những lời giảng của Đức Phật trong suốt cuộc đời truyền bá giáo pháp của mình. Do sự suy tàn của Phật giáo Ấn Độ, nguồn kinh văn Pali chủ yếu được bảo tồn ở Sri Lanka và được phân phối lại cho các vùng lãnh thổ còn lại. Tuy tồn tại những bản dịch bằng ngôn ngữ bản địa để phục vụ cho việc tìm hiểu giáo pháp, nhưng các tu sĩ Nam truyền vẫn sử dụng nguyên ngữ Pali trong quá trình tu tập.

Tuy có nguồn gốc tập hợp từ nhiều bộ phái khác nhau, ngày nay, chỉ còn duy nhất hệ phái Thượng tọa bộ [Theravāda] là đại biểu cho hệ Phật giáo Nam truyền. Theo các nhà nghiên cứu, trước thế kỷ XIII, cả hai nhánh Phật giáo Bắc truyền lẫn Nam truyền đều đã được truyền bá ở Đông Nam Á. Điều này được chứng minh bởi một số quan niệm của Đại thừa xuất hiện phổ biến trong Phật giáo Đông Nam Á [chẳng hạn như việc thờ cúng Quán Thế Âm] phản ánh sự hiện diện sớm của hệ tư tưởng Đại thừa trong truyền thống Phật giáo Nam truyền. Sự tiếp xúc liên tục giữa Đông Nam Á và Ấn Độ cũng cung cấp thêm nhiều yếu tố của các trường phái Đại thừa và Kim cương thừa, cũng như của các bộ phái sơ kỳ khác vào Đông Nam Á. Chỉ sau khi Phật giáo ở Ấn Độ suy tàn, với cơ sở truyền giáo từ Sri Lanka, hệ phái Thượng tọa bộ trở thành hệ phái có ảnh hưởng gần như tuyệt đối trong truyền thống Phật giáo Nam truyền.

Trong lịch sử, từng có nhiều học giả phái Đại thừa đã dùng thuật ngữ Tiểu thừa [zh. 小乘, sa. hīnayāna, bo. theg dman] để chỉ Phật giáo Nam truyền. Trong một thời gian dài, thuật ngữ này đã bị hiểu sai như là một định danh của Phật giáo Nam truyền mà cụ thể là chỉ phái Thượng tọa bộ. Ngày nay, thuật ngữ này đã lỗi thời và không còn được sử dụng nữa.

Phật giáo Nam truyền từng có ảnh hưởng nhất định trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, với biểu hiện rõ rệt nhất qua sự tồn tại của hệ kinh văn A-hàm Hán ngữ. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của Đại thừa ở Trung Quốc, ảnh hưởng của Phật giáo Nam truyền bị thu hẹp, chỉ truyền bá được ở Vân Nam. Ngày nay, chỉ còn Việt Nam đại diện cho một trường hợp thú vị của một quốc gia nằm trong vùng ảnh hưởng giao thoa của cả hai trường phái Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền.

  • Phật giáo Bắc truyền

  1. ^ Cantwell, Cathy; Kawanami, Hiroko. "Buddhism". In Woodhead, Linda; Partridge, Christopher; Kawanami, Hiroko. Religions in the Modern World. Routledge. p. 78. ISBN 9780415858809.

  • Cantwell & Kawanami. Religions in the Modern World. Woodhead. ISBN 978-0-415-85881-6
  • Cantwell, Cathy; Kawanami, Hiroko. "Buddhism". In Woodhead, Linda; Partridge, Christopher; Kawanami, Hiroko. Religions in the Modern World. Routledge. ISBN 9780415858809
  • Lopez Jr., Donald S., Introduction in Buddhism in Practice, Donald S. Lopez Jr., Ed., Princeton University Press, Princeton, NJ, 1995. ISBN 0-691-04441-4
  • 阿含經在线 南北传經藏对读

  Bài viết chủ đề Phật giáo này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Phật_giáo_Nam_truyền&oldid=68482381”

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Việt Nam là một trong những trung tâm phát triển sớm của Phật giáo thế giới, chứng kiến sự phát triển của cả hai trường phái Tiểu thừaĐại thừa với tư tưởng "từ bi hỉ xả", bình đẳng giữa các chúng sinh, khuyên răn con người nên làm điều thiện, tránh điều ác...

Và trong quá trình hình thành và phát triển, từ Ấn Độ Phật giáo đã truyền sang nhiều quốc gia lân cận, ra khu vực Á Đông và lan sang hàng trăm quốc gia trên thế giới. Sự phát triển này đi theo 2 hướng về phương Bắc gọi là Phật giáo Bắc Tông [mang tư tưởng Đại thừa]. Còn về phương Nam thì gọi là Phật giáo Nam Tông [mang tư tưởng Tiểu Thừa].

Phật giáo Nam Tông hay còn có tên gọi khác là Phật giáo Nguyên thủy

Vậy Phật giáo Nam Tông là gì? Phật giáo Nam Tông [hay Phật giáo Nguyên thủy] là một trường phái của Phật giáo do Mục Kiền Liên Tử Đế Tu thành lập. Phật giáo Nguyên thủy là thuật ngữ dùng để chỉ Phật giáo ở giai đoạn đầu, kể từ khi Tất Đạt Đa sáng lập Phật giáo đến trước đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ 2 ở thành phố Vasili. 

Phật giáo Nam Tông phổ biên sở Sri Lanka, Campuchia, Thái Lan, Lào và Miến Điện [Myanmar], nên truyền thống này còn được gọi là Phật giáo Nam Tông. Phật giáo Nam Tông tin rằng, giáo pháp của họ là những lời dạy ban đầu của Đức Phật. Song họ không nhấn mạnh quá nhiều về niềm tin của các giáo lý theo cách cực đoan, mà họ xem nó như một công cụ để mọi người hiểu được chân lý thông qua sự trải nghiệm cá nhân.

Theo ghi chép của nhà Phật, năm 250 TCN, Phật giáo Nam Tông được đưa về Tích Lan [Sri Lanka ngày nay] bởi cao tăng Ma Hi Đà [con vua A Dục]. Về cơ bản Phật giáo Nam Tông và Phật giáo ngày nay đều thờ Phật Thích Ca Mâu Ni và các vị La Hán khác. Tuy nhiên, Phật giáo ngày nay còn thờ nhiều vị bồ tát khác.

Một số giáo lý của Phật giáo Nam Tông có ghi, vào thế kỷ thứ 3 TCN, Phật giáo Nam Tông lan rộng ra khắp châu Á. Khi đó có nhiều diễn giải khác nhau về giáo lý của Đức Phật dẫn đến việc thành lập nhiều tông phái khác. Các giáo lý Nam Tông được truyền vào Tích Lan [[Sri Lanka ngày nay] và ghi lại bằng văn bản dựa trên tiếng Pali [một ngôn ngữ Indo-Aryan liên quan đến tiếng Phạn] vào thế kỷ thứ nhất SCN, và hình thành kinh điển đầu tiên của Phật giáo là Tripitaka-Tripitaka [kinh Tạng Pali].

Phật giáo Nam Tông du nhập vào Việt Nam khá muộn

Phật giáo Nam Tông đến Thái Lan vào khoảng thế kỷ thứ 6 TCN và trở thành tôn giáo chính thức của cả nước vào thế kỷ 13 sau khi vương quốc Sukhothai thành lập.

Phật giáo Nam Tông có khi được gọi là "Phật giáo Tiểu thừa" - Mahayana Buddhism” [Lesser Vehicle], ngược lại với “Phật giáo Đại thừa – Mahayana Buddhism” [Greater Vehicle]. Từ "Tiểu thuweaf" có nguồn gốc từ những cuộc phân ra sớm trong cộng đồng Phật giáo. Khi giáo pháp Phật tiếp tục lan truyền khắp Ấn Độ sau khi Đức Phật nhập diệt, thì các diễn giả khác nhau về những lời dạy ban đầu xuất hiện, dẫn đến sự phân chia Tăng đoàn, hình thành Phật giáo Đại thừa [Phật giáo Bắc Tông].

Tiểu thừa tức là thừa hưởng những lời dạy cơ bản của Đức Phật. Ngày nay, các học giải của nhiều trường phái Phật giáo đôi khi vẫn sử dụng thuật ngữ "Tiểu thừa". Song để tránh hiểu nhầm giữa 2 nhánh chính của Phật giáo nên các học giả đề xuất sử dụng từ ngữ trung lập là Phật giáo Nam Tông [Nam truyền Phật giáo] và Phật giáo Bắc Tông [Bắc truyền Phật giáo]. Tại Việt Nam, Phật giáo Đại thừa là trường phái chính và Tịnh Độ Tông là phái phổ biến tại đây.

Ngôn ngữ trong các văn bản kinh điển của Phật giáo Nam Tông là tiếng Pali, một ngôn ngữ phổ biến ở trung tâm Ấn Độ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Hầu hết các bài thuyết pháp của Đức Phật giáo cho đều được Tôn giả An Nan ghi nhớ. Sau khi Đức Phật qua đời vào khoảng năm 480 TCN, cộng đồng các nhà sư và Tôn Giả A Nan được triệu tập đến để đọc tất cả các bài  thuyết giảng mà họ nghe trong vòng 45 năm giảng dạy của Đức Phật. 

Theo đó, mỗi bài giảng đều bắt đầu bằng câu "tôi đã nghe nói như vậy". Các giáo lý được thông qua cộng đồng tu viện bằng hình thức truyền miệng. Cho đến nay, kinh Tạng Pali đã tồn tại trong nhiều thế kỷ như một hướng dẫn không thể thiếu đối với hàng triệu Phật tử trong việc tìm kiếm giác ngộ.

Theo sử liệu thì Phật giáo Nam tông chỉ mới được du nhập vào Việt Nam từ khoảng những năm cuối thập kỷ 1930. Như vậy, Phật giáo Nam Tông Việt Nam chỉ mới có mặt và thường tập trung tại TP Hồ Chí Minh. So với bề dày của Phật giáo Bắc Tông trong cộng đồng Phật giáo Việt Nam thì Phật giáo Nam Tông còn khá khiêm tốn. Song trong 70 năm tồn tại và phát triển tại Việt Nam, Phật giáo Nam Tông cũng có những đóng góp nhất định.

Tông chỉ tu tập và giáo lý của Phật giáo Nguyên thủy

Phật giáo Nam Tông nhấn mạnh đến việc tự giải phóng thông qua những nỗ lực của cá nhân. Phương tiện chính để đạt được giác ngộ trong truyền thống Theravada là thông qua thiền Theravada hay thiền Minh Sát. Thiền Theravada nhấn mạnh sự tuân thủ kỷ luật về cơ thể, tư tưởng và kết nối. Với các giáo lý do là: "Tránh xa những điều xấu, tích lũy mọi điều tốt lành và thanh lọc tâm trí mình”.

Thiền là phương thức chính của Phật giáo Nguyên thủy có thể thay đổi bản thân. Vì thế họ dành nhiều thời gian cho việc thiền. 

Bên cạnh đó, Phật giáo Nam Tông còn nhấn mạnh tầm quan trọng của tu viện. Hầu hết các nhà sư Phật giáo Nam Tông dành nhiều thời gian cho tu viện. Một số người tham gia khi mới 7 tuổi. Một số người mới  được gọi là Sa-di [Samanera] và một tu sĩ được gọi là Tỳ kheo. Cộng đồng tu viện như một toàn thể được gọi là Tăng đoàn.

Lễ Dâng y của phật giáo Nam Tông

Các nhà sư được đào tạo phải nắm rõ 227 quy tắc. Trong những quy tắc này hay giới luật là năm điều được thực hiện bởi tất cả những người cố gắng tuân theo lối sống của Phật giáo. Ngũ giới là thực hiện các quy tắc đào tạo để:

- Không được làm hại chúng sinh

- Không được lấy những thứ không được cho phép

- Kiềm chế hành vi sai trái tình dục

- Ngăn lời nói sai: Chẳng hạn như nói dối, trò chuyện nhàn rỗi, lời nói độc ác hoặc phát biểu cay nghiệt

- Không sử dụng những thứ gây nghiện

Phật giáo Nam Tông có 2 giáo lý là Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Phật giáo Nam Tông có một số đặc điểm cơ bản như:

- An cư và Dâng y

- Ẩm thực

- Tam y và nhất bát

- Kiến trúc và tôn thờ 

Đạo Phật tùy theo lập trường và quan điểm của mỗi hệ phái mà hình thức ăn chay cũng khác biệt. Người xuất gia ăn chay không chỉ vì trưởng dưỡng lòng từ bi mà còn vì sức khỏe bản thân.

Theo Tam Tạng Kinh Điển dịch ra từ Pali [Phật giáo Nam Tông hay Phật giáo Nguyên thủy] vốn xem là gần gũi nhất với lời Phật dạy và sinh hoạt của tăng đoàn thời Phật, không hề thấy có giới luật ăn chay. Tỳ - kheo đi khất thực ai có tấm lòng cho gì ăn đấy. 

Ở thời kỳ đầu của đạo Phật, do điều kiện khách quan còn nhiều khó khăn, chưa thể hoạt động mạnh mẽ ở mọi phương diện nên đức Phật phải tùy nghi phương tiện khất thực để hoằng phát, vừa phát triển, vừa sinh tồn.

Theo đó, các quốc gia theo Đạo Phật hay các hệ phái Phật giáo có cách ăn uống khác nhau. Điều này do tâm chúng sinh khác biệt, do căn cơ và môi trường sinh sống của chúng sinh khác biệt, lại do không gian và thời gian khác biệt.

Tăng ni của Phật giáo Nam Tông được thọ dụng thịt cá

Có nhiều quốc gia không có nhiều loại thực phẩm từ thực vật, ngũ cốc dồi dào thì họ dùng tạm thực phần từ thịt. Ví dụ, ở vùng hoang mạc hay vùng tuyết phủ quanh năm, họ dự trữ thực phẩm từ động vật bằng cách phơi khô, nướng... 

Được biết, người Phật giáo tu theo hệ Phật giáo Bắc Tông ăn chay trường nghiêm túc nhưng ăn rất cầu kỳ. Còn tu theo Phật giáo Nam Tông, người xuất gia được phép thọ dụng các thức ăn từ động vật như thịt, cá... do cúng dường [gọi là tam tịnh nhục - không thấy, không nghe, không nghi]. 

Song theo truyền thống Phật giáo Đại thừa ở Trung Quốc, người xuất gia không được ăn mặn, cho dù những loại thịt đó là tam tịnh nhục. 

Tại Việt Nam có 3 truyền thống Phật giáo chính là Nam Tông, Bắc Tông và Khất Sĩ. Trong đó, Bắc Tông và Khất Sĩ thì ăn chay còn chư Tăng ni của Nam Tông thò dùng thực mặn. 

Tuy nhiên, Đức Phật vẫn khuyến khích nên ăn chạy. Mục đích ăn chay của đạo Phật là tôn trọng và bảo vệ sự sống - một trong những đặc điểm nổi bật của Phật giáo. Không sát sinh là giới luật nhằm bảo vệ sự sống, ăn chay đối với những người theo đạo Phật chính là sự thực hành cụ thể đặc điểm này.

Video liên quan

Chủ Đề