Phương pháp trực quan trọng Âm nhạc

Phương pháp trực quan trọng Âm nhạc

Phương pháp giáo dục trực quan hay còn gọi là dạy học trực quan, có nhiều tài liệu gọi đó là trình bày trực quan. Nó PPDH có sử dụng phương tiện trực quan như các phương tiện kỹ thuật dạy học trong, trước và sau khi sử dụng các tài liệu mới hay khi ôn tập để củng cố , thậm chí là hệ thống hóa kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.

Phương pháp dạy học trực quan được thể hiện dưới các hình thức:

  • Việc trình bày các thí nghiệm thực tế, các chiếu đèn, chiếu phim chiếu nhằm đem lại cái nhìn rõ nét, sinh động. Những thiết bị kỹ thuật, phim điện ảnh, video. Trình bày các mô hình đại diện cho hiện thức một cách khách quan nhất và nó cũng được lựa chọn cẩn thận để phù hợp trong môi trường sư phạm. Đó chính là cơ sở cho quá trình nhận thức và lĩnh hội bài giảng tốt hơn.
  • Nó còn là những minh họa trình bày bằng đồ dùng trực quan có tính chất minh họa như bản đồ, tranh ảnh, hình vẽ trên bảng ….

Điểm đặc biệt của phương pháp giáo dục trực quan ở mầm non rất phát triển lại dễ thực hiện giúp trẻ nhận thức cũng như hiểu rõ hơn nội dung nhờ hình ảnh minh họa. Các bé sẽ dễ dàng tiếp thu kiến thức, lĩnh hội văn bản.

II. Ưu Điểm Của Phương Pháp Dạy Học Trực Quan

Phương pháp trực quan trọng Âm nhạc

Phương pháp dạy học trực quan ở tiểu học và các cấp học khác đều mang lại những ưu điển lớn. Đặc biệt đó là sự tiếp thu có tiến bộ của các học sinh, giúp bài giảng thêm sôi động, hấp dẫn.

  • Với cách dạy học trực quan, các đồ dùng phục vụ cho việc học được đặc biệt quan tâm, nhờ đồ dùng mà các học sinh có thể nhớ nhanh, nhớ lâu và nhớ rất kỹ bài giảng. Bằng hình ảnh trực quan sống động cùng những kiến thức lịch sử sống động cho các em như đang được sống ở thời kỳ lịch sử đó. Bạn cũng biết, các hình ảnh tuy không cần sử dụng tới chữ viết cũng được lưu giữ lại vững chắc trong trí nhớ, nó chính là hình ảnh thu được từ trực quan. Chính bởi vậy, học theo phương pháp trực quan góp phần tạo nên biểu tượng về lịch sử. Bên cạnh đó, đồ dùng trong các tiết học trực quan còn giúp phát triển khả năng quan sát cũng như tư duy và trí tưởng tượng cùng khả năng ngôn ngữ của học sinh.
  • Phương pháp dạy học trực quan là một phương pháp học sử dụng trực quan, trực quan là nguyên tắc cơ bản của lý luận giúp học sinh có thể hình thành khái niệm dựa trên cơ sở trực tiếp quan sát các vật, đồ dùng qua minh họa bằng tranh, ảnh, video. Đồ dùng đó chính là chỗ dựa giúp học sinh hiểu bản chất của kiến thức, là một phương tiện giúp các em hình thành khái niệm, nắm vững được các quy luật của sự phát triển xã hội.

Ví dụ: Khi được học với các bức tranh có hình vẽ trên đá là hình con người sử dụng cung tân. Các em học sinh sẽ hiểu con người thời nguyên thủy đã biết và sử dụng cung tên để chuyển tư hình thức săn bắt sang săn bắn và làm thay đổi cả nền kinh tế thời bấy giờ.

III. Hạn Chế Của Phương Pháp Dạy Học Trực Quan

Phương pháp trực quan trọng Âm nhạc

Tuy có nhiều ưu điểm nhưng phương pháp sử dụng đồ dùng trong giáo dục trực quan lại có những hạn chế nhất định. Những mặt hạn chế đó được kể tới như sau.

  • Với các hình ảnh, video, phim ảnh đều là những thứ gây chú ý những nếu không biết cách sử dụng phù hợp sẽ khiến các em học sinh phân tán, giản sự chú ý. Điều này khiến các em không nắm được vấn đề trong bài học.
  • Đây là phương pháp dạy học đòi hỏi nhiều thời gian và các giáo viên lại cần cân nhắc, tính toán để phù hợp với thời lượng dạy.
  • Các hình ảnh, video, phim ảnh sẽ có cả những chi tiết ngoài lề, nhỏ lẻ và không liên quan tới bài học. Nếu không định hướng tốt các em học sinh có thể chỉ chú ý tới các chi tiết đó.

IV. Quy Trình Thực Hiện Phương Pháp Dạy Học Trực Quan

Phương pháp trực quan trọng Âm nhạc

Để có những tiết học trực quan bổ ích cũng như hiệu quả, tạo hứng thú cho các em học sinh, giáo viên cần quan tâm tới quy trình thực hiện.

  • Bước đầu tiên, các giáo viên cần chuẩn bị hình ảnh, video, băng đĩa, phim …..về chủ đề bài học. Các hình ảnh, video cần được xem xét kỹ lưỡng để không chứa các nội dung phản cảm, không đúng văn hóa.
  • Bước tiếp theo các giáo viên treo các tranh ảnh, đồ dùng minh họa, các vật dụng thí nghiệm hay những thiết bị …..sau đó, giáo viên cần đưa ra định hướng quan sát cho học sinh.
  • Trình bày chi tiết các nội dung trong bản đồ, sơ đồ và hình ảnh, với video cần chi tiết rõ nét hơn. Với các dụng cụ thí nghiệm giáo viên tiến hành thí nghiệm  và trình chiếu phim ảnh cho học sinh quan sát.
  • Giáo viên yêu cầu một vài học sinh trình bày lại nội dung bức hình, nội dung đoạn video hay cách thức tiến hành thí nghiệm. Từ đó các em học được những gì.
  • Giáo viên soạn sẵn những câu hỏi nhằm giúp các em học sinh vận dụng những gì được thấy được xem để trả lời. từ đó hiểu và nắm bài rõ hơn.

Có rất nhiều phương pháp dạy học trực quan và tùy vào mục đích ta chia các loại ra làm:

  • Căn cứ theo mức độ tổ chức quan sát ta có thể chia ra là quan sát có sự bố trí, sắp xếp của giáo viên hoặc quan sát tự nhiên.
  • Căn cứ theo cách thức quan sát ta chia làm quan sát gián tiếp và quan sát trực tiếp
  • Căn cứ theo phạm vi quan sát ta chia làm quan sát các khía cạnh và quan sát toàn diện.
  • Căn cứ theo thời gian ta chia quan sát dài hạn và ngắn hạn.

V. Một Số Lưu Ý Khi Dạy Học Theo Phương Pháp Trực Quan

Phương pháp trực quan trọng Âm nhạc

  • Các giáo viên khi đưa hình ảnh, phim truyện lên cần chú ý đảm bảo hướng quan sát cho tất cả các học sinh.
  • Mỗi dụng cụ, đồ dùng thí nghiệm, video trực quan lại có phương pháp, cách thức quan sát thích hợp. Giáo viên phải tìm hiểu để đưa ra phương pháp phù hợp nhất.
  • Tùy vào mỗi bài học sẽ cần đồ dùng trực quan khác nhau. Có những bài học cần video, bởi vậy, các giáo viên phải là người lựa chọn dụng cụ thích hợp nhằm giúp các em có hứng thú quan sát. Nếu mang tính chuyên nghiệp, các giáo viên phải xây dựng hệ thống dụng cụ cho trực quan theo từng bài học.
  • Luôn tìm cách phát huy tính tích cực của học sinh với các đồ dùng học trực quan. Các em phải được sờ, nắm, quan sát kỹ lưỡng.
  • Tuy các đồ dùng như tranh ảnh, phim rất cần thiết cho mỗi bài học, nhưng lời nói, thuyết trình của giáo viên cũng vô cùng quan trọng đặc biệt trong các môn như Địa lý, công nghệ, sinh học ở cấp bậc THPT. Giáo viên phải rèn luyện, nâng cao nghiệp vụ của mình để thực hiện tốt công việc của mình.
  • Tìm cách khai thác tối đa kiến thức trong các đồ dùng trực quan, phương pháp dạy học trực quan ở mầm non khác với tiểu học. Các giáo viên phải tùy vào trình độ để đặt câu hỏi phù hợp.
  • Các giáo viên cũng cần chú ý tới các đồ dùng trực quan nhỏ khi dùng với từng học sinh, hay trong việc tự học ở nhà. Các giáo viên phải hướng dẫn kỹ lưỡng cho các em, liên hệ với phụ huynh để phụ huynh cùng thực hiện và hướng dẫn các em. Các em cũng phải tìm hiểu kỹ lưỡng, hoàn thành đầy đủ bài tập, câu hỏi.

Qua bài viết, các giáo viên, phụ huynh đã hiểu được lợi ích cũng như cách tiến hình buổi học trực quan hiệu quả. Cũng cần tùy thuộc vào điều kiện, cơ sở vật chất từng nơi để áp dụng riêng biệt.

Tư vấn gia sư (24/7) 097.948.1988

-->

1MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiÂm nhạc là bộ môn nghệ thuật có sức mạnh vô cùng to lớn và phong phútrong việc thể hiện một cách tinh tế thế giới nội tâm của con người và đờisống xã hội. Âm nhạc tác động tới con người ngay từ khi mới sinh ra trongtiếng hát ru của mẹ, âm nhạc có sức mạnh làm cho con người nhận thức cuộcsống và thêm yêu cuộc sống đặc biệt là với thế hệ trẻ, thế hệ tương lai thì âmnhạc là môt phương tiện giáo dục và hình thành nhân cách hết sức hiệu quả.Âm nhạc giúp trẻ tận hưởng một cách đúng đắn cái hay, cái đẹp chứa đựngtrong những âm thanh nhịp điệu…, hình thành nên cơ sở ban đầu của nhữngcảm xúc thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc lành mạnh. Bồi dưỡng cho trẻ một tâmhồn trong sáng yêu thương vị tha, biết rung động trước cái đẹp, ngoài ra cáchoạt động âm nhạc như ca hát sẽ giúp trẻ tư tin giao tiếp với bạn bè xungquanh. Chính vì thế, âm nhạc đã trở thành một môn học trong các nhà trườngtừ Mẫu giáo, Tiểu học đến Trung học cơ sở.Trong trường Tiểu học mục tiêu giáo dục của Âm nhạc nhằm tổ chức cáchoạt động âm nhạc như ca hát, nghe nhạc giúp học sinh tham gia vào các hoạtđộng văn nghệ trong trường trong lớp, với cộng đồng để có thể phát triểnnhân cách toàn diện cho các em.Trong chương trình các lớp1, lớp 2, lớp 3, học sinh được học hát và pháttriển khả năng nghe nhạc. Học sinh các lớp 4, lớp 5 được học hát, phát triểnkhả năng nghe nhạc và làm quen với tập đọc nhạc. Để thực hiện tốt những nộidung trên thì người giáo viên Tiểu học trong giảng dạy môn âm nhạc phải cókiến thức vững vàng về âm nhạc, biết vận dụng và tổ chức các hoạt động âmnhạc sao cho phù hợp. Điều đó cho thấy, việc đào tạo một đội ngũ giáo viêntiểu học có khả năng dạy học môn âm nhạc là hết sức quan trọng.2Nhiều năm qua trường CĐSP Nam Định là nơi đào tạo giáo viên tiểu họctrình độ cao đẳng để cung cấp cho gần 30 trường tiểu học trong phạm vi toàntỉnh. Sinh viên CĐSP Tiểu học học môn âm nhạc với 3 phân môn Nhạc lýphổ thông, Đọc - ghi nhạc, Hát.Trong đó, Nhạc lý phổ thông là phân môn cóvị trí rất quan trọng, chiếm 30 tiết trong tổng số 90 tiết của môn âm nhạc. Đólà lý thuyết cơ bản đầu tiên, cung cấp những kiến thức sơ giản về âm nhạc, làcơ sở để sinh viên sư phạm Tiểu học tiếp thu các nội dung âm nhạc khác nhưĐọc - ghi nhạc, Hát.Phân môn Nhạc lý phổ thông đòi hỏi người học phải tư duy lôgic và trừutượng cao. Nếu chỉ được tiếp cận phân môn Nhạc lý phổ thông bằng lý thuyếtđơn thuần thì người học sẽ gặp khó khăn trong việc ứng dụng những nội dungđó vào thực hành các hoạt động âm nhạc khác.Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học khiến cho những kháiniệm trừu tượng trở nên rõ ràng, cụ thể, người học dễ tiếp nhận nhiều hơn nếugiáo viên chỉ dùng lời nói để giảng dạy. Những hình ảnh, âm thanh sinh độngsẽ làm cho giờ học trở nên hấp dẫn và giúp người học lĩnh hội tri thức mộtcách tốt nhất.Thực tế những năm gần đây, nhiều giáo viên một số bộ môn đã nhận ravai trò tích cực của phương pháp trực quan trong dạy học. Một số giáo viênđã biết vận dụng khá hệu quả các phương tiện dạy học như máy chiếu, bảngbiểu, tranh ảnh… vào quá trình dạy học.Tuy nhiên, trong thực tiễn dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông ở hệCĐSP Tiểu học tại Nam Định vẫn còn nhiều điều đáng suy nghĩ, băn khoăn.Dự giờ một số tiết học phân môn Nhạc lý phổ thông cho thấy giáo viênchuẩn bị bài khá kỹ, trình bày các nội dung lý thuyết khá mạch lạc nhưngkhông khí lớp học tương đối trầm lắng, sinh viên ít được thực hành, chủ yếu3là nghe ghi và chép, giáo viên chủ yếu là nói, diễn giải, rất ít sử dụng các đồdùng dạy học để minh họa...Tổng hợp phiếu điều tra của 2 khóa sinh viên cao đẳng Tiểu học năm thứ2 và năm thứ 3, khóa 33 và khóa 34 với khoảng 80 sinh viên, cho thấy tronggiờ dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông, giáo viên chỉ dùng bảng, phấn làchính và sinh viên không thích học tiết học Nhạc lý phổ thông.Phỏng vấn một số giáo viên dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông, đượcbiết rằng, họ nhận thức được lợi ích của việc sử dụng phương tiện trực quandạy học. Tuy nhiên, họ ngại sử dụng vì mất nhiều thời gian chuẩn bị và mangPTTQ lên lớp, xuống lớp… Có lẽ, đây là một trong những nguyên nhân chínhdẫn đến kết quả học tập phân môn Nhạc lý phổ thông của sinh viên CĐSPTiểu học còn chưa cao.Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu"Sử dụng một số phương tiện trực quan trong dạy học môn nhạc lý phổthông tại trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định" cho luận văn tốt nghiệpthạc sỹ chuyên ngành phương pháp và lý luận dạy học âm nhạc.2. Tình hình nghiên cứuLiên quan đến những vấn đề nghiên cứu về lý thuyết âm nhạc, đã cónhững công trình của các nhà nhà nghiên cứu âm nhạc, sư phạm âm nhạc.Phạm Tú Hương, Đỗ Xuân Tùng, Nguyễn Trọng Ánh là những tác giảcủa giáo trình “Lý thuyết âm nhạc cơ bản” dành cho hệ Trung học Âm nhạcchuyên nghiệp, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, năm 2005.Giáo trình gốm 12 chương, cung cấp một số kiến thức về Lý thuyết âmnhạc gồm: Khái quát về âm thanh, tiết tấu, nhịp, quãng, điệu thức, hợp âm,giai điệu, các ký hiệu cách diễn tấu, một số phương pháp xác định giọng, dịchgiọng, chuyển giọng và giới thiệu sơ lược về âm nhạc truyền thống Việt Nam.4Phạm Tú Hương, tác giả cuốn“Lý thuyết âm nhạc cơ bản”, Bộ Giáo dụcvà Đào tạo, dự án đào tạo giáo viên THCS hệ CĐSP Âm nhạc, Nxb ĐHSP,năm 2010.Giáo trình này cung cấp hệ thống lý thuyết âm nhạc gồm: khái quát vềâm thanh, cách ghi âm, nhịp, quãng, một số phương pháp xác định giọng vàchuyển giọng…Trịnh Hoài Thu chủ biên của giáo trình “Lý thuyết âm nhạc cơ bản”,Trường ĐHSP Nghệ thuật TW, năm 2014.Giáo trình có 10 chương gồm những kiến thức về âm thanh, lối ghinhạc, nhịp, giọng, thang âm, điệu thức dân gian, hợp âm, giai điệu, lý thuyếtÂm nhạc đương đại và một số ký hiệu âm nhạc thường dùng.Hoàng Quốc Khánh, Luận văn tốt nghiệp Cao học Sư phạm Âm nhạc,2013, Học viện Âm nhạc Huế, “Nâng cao chất lượng giảng dạy môn lýthuyết âm nhạc cơ bản cho CĐSP Âm nhạc trường CĐVHNT Đăk lăk”,Đề tài nghiên cứu thực trạng và đưa ra những cải tiến nâng cao chấtlượng giảng dạy môn Lý thuyết âm nhạc cơ bản cho sinh viên hệ CĐSP Âmnhạc ở trường CĐVHNT Đắk lắk.Nguyễn Thế Phương, Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ LL&PPDHAN Khóa1 trường ĐHSP Nhạc họa TW, năm 2014. “Giải pháp nâng cao chất lượnghọc môn nhạc lý cho CĐSP Giáo dục Tiểu học, Trường CĐSP Hà Nam”.Đề tài đề ra những giải pháp nâng cao nhằm tiến tới hoàn thiện và chínhqui hóa môn Nhạc lý trong chuyên ngành Giáo dục Tiểu học của TrườngCĐSP Hà Nam.Qua các công trình nghiên cứu, luận văn nêu trên, chúng tôi thấy phầnlớn các đề tài đều đi vào vấn đề nâng cao chất lượng giảng dạy môn Nhạc lýcơ bản. Tuy nhiên chưa có một đề tài nào nghiên cứu việc sử dụng phươngtiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông cho sinh viênCĐSP tiểu học tại Nam Định.Chúng tôi coi, các nghiên cứu đó là những tư liệu rất bổ ích, cần thiết đểtham khảo và tiếp thu trong quá trình nghiên cứu của mình.53. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu3.1. Mục đích nghiên cứuNghiên cứu sử dụng phương tiện trực quan nhằm nâng cao chất lượngdạy học phân môn Nhạc lý phổ thông góp phần hiệu quả vào đào tạo bộ mônâm nhạc cho sinh viên CĐSP tiểu học Nam Định, hướng tới nâng cao hiệuquả giáo dục âm nhạc cho học sinh Tiểu học Nam Định.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứuNghiên cứu chương trình phân môn Nhạc lý phổ thông trong đào tạomôn âm nhạc cho sinh viên ở hệ CĐSP tiểu học.Làm rõ thực trạng sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học phânmôn Nhạc lý phổ thông ở trường CĐSP Nam Định.Lựa chọn, phân loại một số nhóm phương tiện trực quan cho dạy họcphân môn Nhạc lý phổ thông.Nghiên cứu đưa ra biện pháp hướng dẫn sử dụng phương tiện trực quantrong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu4.1. Đối tượng nghiên cứuBiện pháp sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạclý phổ thông cho sinh viên hệ CĐSP Tiểu học.4.2. Phạm vi nghiên cứuBiện pháp sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạclý phổ thông cho hệ CĐSP tiểu học tại Nam Định5. Phương pháp nghiên cứuTrong thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:6Phương pháp quan sát, dự giờ các tiết dạy học phân môn Nhạc lý phổthông để nghiên cứu thực trạng, làm rõ nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạyhọc còn hạn chế ở phân môn này.Phương pháp phỏng vấn giáo viên và điều tra bằng phiếu với sinh viên đểtìm hiểu nhận thức của họ về phương tiện trực quan và tình hình sử dụngphương tiện trực quan trong dậy học phân môn Nhạc lý phổ thôngCác phương pháp nghiên cứu lý thuyết để phân tích, tổng hợp, phân loại,hệ thống hóa những nội dung có liên quan đến đề tài.Phương pháp thống kê để đánh giá kết quả học tập phân môn Nhạc lý phổthông trước và sau thực nghiệm.Tổ chức thực nghiệm diện hẹp để kiểm chứng bước đầu kết quả nghiêncứu của đề tài.6. Những đóng góp của luận vănĐề tài luận văn đã nghiên cứu, đưa ra biện pháp sử dụng phương tiệntrực quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông cho sinh viên hệ CĐSPTiểu học tại Nam Định.Góp phần nâng cao chất lượng dạy học Âm nhạc cho sinh viên, hướngtới hiệu quả giáo dục âm nhạc cho học sinh tiểu học Nam Định.7. Cấu trúc của luận vănNgoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văngồm có hai chương, cụ thể như sau:Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn sử dụng phương tiện trực quantrong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thôngChương 2: Biện pháp sử dụng một số phương tiện trực quan trong dạyhọc phân môn Nhạc lý phổ thông ở hệ CĐSP Tiểu học tại Nam Định.Chương 1CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC7QUAN TRONG DẠY HỌC PHÂN MÔN NHẠC LÝ PHỔ THÔNG1.1. Nhạc lý phổ thông1.1.1. Nhạc lýÂm nhạc là bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh để khắc họa cuộc sống, tưtưởng, tình cảm…của con người.Âm thanh trong âm nhạc là mối quan hệ tổng hòa các phương tiện diễntả như giai điệu, tiết tấu, hòa thanh, cường độ, nhịp dộ, âm sắc…Âm nhạc có hệ thống lý luận bao gồm: Lý thuyết âm nhạc, hòa âm, phântích tác phẩm, lịch sử âm nhạc…Lý thuyết âm nhạc gồm những kiến thức về âm thanh, nốt nhạc, trườngđộ, tiết tấu, quãng, điệu thức, giọng, hợp âm…Lý thuyết âm nhạc là môn học cơ bản trong chương trình đào tạo ngườihoạt động âm nhạc, giúp cho người học có kiến thức cơ sở để học, tìm hểu vềhòa âm, phân tích tác phẩm, lịch sử âm nhạc…Sự hình thành lý thuyết âm nhạc có từ rất sớm trong lịch sử phát triểnnghệ thuật âm nhạc. Người ta gọi nó theo ngôn ngữ của mỗi quốc gia, như:Tiếng Anh: Music theoryTiếng Pháp: La théorie musicale de baseTiếng Nga: Основы теории музыкиTiếng Trung Quốc: Yīnyuè lǐlùnTiếng Việt Nam, tên môn học Lý thuyết âm nhạc, xuất phát từ việc dịchnghĩa từ tiếng nước ngoài. Nó có khá nhiều tên gọi như: Lý thuyết âm nhạc cơbản, Nhạc lý cơ bản, Nhạc lý, Lý thuyết âm nhạc, Nhạc lý sơ giản, Nhạc lý8phổ thông… Tên gọi và nội dung của nó tùy mức độ sử dụng ở các chươngtrình đào tạo khác nhau.1.1.2. Nhạc lý phổ thông trong đào tạo giáo viên hệ CĐSP Tiểu họcTại những cơ sở đào tạo người hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp - biểudiễn âm nhạc, lý luận, phê bình, sáng tác âm nhạc như: Học viện âm nhạcquốc gia Việt Nam, Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh, Đại học nghệ thuậtHuế, Trường ĐH Văn hóa nghệ thuật Quân đội, Nhạc, thì môn học này đượcgọi là Lý thuyết âm nhạc.Ở các hệ đào tạo giáo viên âm nhạc trình độ cao đẳng sư phạm âm nhạc,trình độ đại học sư phạm âm nhạc thì môn học này có tên gọi là Lý thuyết âmnhạc cơ bản hoặc Nhạc lý cơ bản.Trong chương trình đào tạo giáo viên Mầm non và giáo viên Tiểu học hệcao đẳng, hệ đại học của nhiều trường, sinh viên các ngành SP Tiểu học và SPMầm non được học nhiều môn, trong đó có môn âm nhạc. Một phần của mônhọc Âm nhạc, là phân môn Nhạc lý sơ giản hoặc Nhạc lý phổ thông.Ở hệ CĐSP Tiểu học tại Nam định thì đây là phân môn Nhạc lý phổthông, một phần của bộ môn Âm nhạc, trong toàn bộ chương trình đào tạogiáo viên tiểu học trình độ cao đẳng.Phân môn Nhạc lý phổ thông trong đào tạo giáo viên CĐSP Tiểu họcgồm những kiến thức âm nhạc khá đơn giản, cần thiết như về âm thanh, độcao, độ dài, tiết tấu, nhip, quãng, hợp âm, gam, điệu thức, dịch giọng,… Đó lànhững kiến thức cơ bản, là cơ sở để sinh viên có thể tiếp thu các phân mônkhác như: hát, tập đọc nhạc, sử dụng nhạc cụ, phương pháp dạy học âmnhạc….9Tuy phân môn Nhạc lý phổ thông là đơn giản so với những chương trìnhđào tạo khác, nhưng nội dung của nó vẫn là những kiến thức trừu tượng mangtính lý thuyết. Vì vậy, vấn đề làm thế nào cho sinh viên hiểu, nắm chắc và vậndụng được kiến thức phân môn Nhạc lý phổ thông, vẫn là một thách thức đốivới giảng viên dạy học phân môn này.Điều đó đòi hỏi trước hết phải tìm hiểu, nắm vững quá trình dạy họcphân môn Nhạc lý phổ thông, những khái niệm cơ bản xung quanh vấn đềnày, để tìm được biện pháp phù hợp, cải thiện tình hình dạy học.1.2. Quá trình dạy học nhạc lý phổ thông1.2.1. Quá trình dạy họcSự truyền thụ kiến thức từ người dạy sang người học, để người học có thểnắm vững được kiến thức cũng cần có một quá trình. Đó là quá trình mà cảngười dạy và người học đều phải nỗ lực hết sức nếu muốn đạt được kết quả cao.Qúa trình dạy học:Quá trình dạy học là một quá trình phức tạp và rộng lớn bao gồm nhiềuthành tố liên quan chặt chẽ với nhau. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau vềquá trình dạy học tùy theo quan điểm tiếp cận về hoạt động dạy và học.Chẳng hạn, các nước sử dụng tiếng Anh khi nghiên cứu QTDH thườngxem xét hai phạm trù độc lập: dạy và học (teaching and learning). Theo đó,với hoạt động dạy có phương pháp dạy của giáo viên, với hoạt động học cóphong cách học của mỗi cá nhân.Quá trình dạy học là chuỗi liên tiếp các hành động dạy, hành động củangười dạy và người học đan xen và tương tác với nhau trong khoảng khônggian và thời gian nhất định, nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học. [10;29].10Qua quá trình được đào tạo ở hệ Đại học sư phạm Âm nhạc, tiếp thu kiếnthức ở hệ cao học lý luận và phương pháp dạy học âm nhạc, đúc rút nhữngkinh nghiệm dạy học của bản thân chúng tôi hiểu rằng:Quá trình dạy học là hệ thống những hành động liên tiếp và thâm nhậpvào nhau của thầy và trò dưới sự hướng dẫn của thầy, nhằm đạt được mụcđích dạy học và qua đó phát triển nhân cách của trò.Các thành tố cơ bản của quá trình dạy họcQuá trình dạy học bao gồm các thành tố cơ bản: Giáo viên với hoạt độngdạy, học sinh với hoạt động học, nội dung dạy học, hình thức dạy học,phương pháp dạy học, phương tiện dạy học.Trong quá trình dạy học, các thành tố nói trên có quan hệ chặt chẽ và tácđộng qua lại lẫn nhau.Giáo viên và học sinh là hai đối tượng quan trọng nhất trong quá trìnhdạy học. Giáo viên với hoạt động dạy có chức năng tổ chức, điều khiển, lãnhđạo hoạt động học tập của học sinh, đảm bảo cho học sinh thực hiện đầy đủvà có chất lượng những yêu cầu cần đạt mà mục đích và nhiệm vụ dạy học đãđặt ra.Nội dung dạy học là hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cụ thể màngười học cần phải nắm vững trong quá trình dạy học. Nội dung dạy học còngồm cả việc giáo dục thái độ cho học sinh.Hình thức dạy học là không gian, địa điểm và những điều kiện cần thiếtđể thực hiện hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh.Phương pháp và là hệ thống những cách thức hoạt động phối hợp củangười dạy và người học nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.11Phương tiện dạy học là những đồ dùng, thiết bị mà giáo viên và học sinh sửdụng trong quá trình dạy học nhằm đạt mục tiêu, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra.Nếu các thành tố: giáo viên - học sinh, mục đích - nhiệm vụ, nội dung,hình thức tổ chức, phương pháp, phương tiện… là các thành tố bên trong quátrình dạy học thì môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học…, được xemlà thành tố bên ngoài của quá trình dạy học.Các môi trường này không chỉ tác động đến hoạt động dạy học nóichung mà còn ảnh hưởng đến tất cả các thành tố cấu trúc bên trong quá trìnhdạy học. Ngược lại, QTDH phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sự vận động đi lêncủa các môi trường bên ngoài.Khi quá trình dạy học diễn ra, là các thành tố cơ bản nói trên: Thầy - trò,nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện dạy học có sự vận động và tácđộng lẫn nhau trong một cấu trúc nhất định để thúc đẩy quá trình dạy học pháttriển. Nếu thiếu đi một trong những thành tố đó thì QTDH sẽ không thể đạtđược kết quả cao.1.2.2. Dạy học nhạc lý phổ thông ở hệ CĐSP Tiểu họcQuá trình dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông diễn ra với các thành tốcơ bản: Người dạy, người học, nội dung, hình thức, phương pháp và phươngtiện cụ thể như sau:Người dạy là giảng viên chuyên ngành sư pham âm nhạc, sử dụng cácphương pháp và phương tiện dạy học âm nhạc phù hợp để giúp cho người học chủđộng tích cực nắm bắt được nội dung kiến thức phân môn Nhạc lý phổ thông.Người học là sinh viên CĐSP Tiểu học chủ động và tích cực trong họctập để nắm được những kiến thức nhạc lý phổ thông quy định trong chươngtrình phân môn.12Nội dung phân môn Nhạc lý phổ thông bao gồm những tri thức về: Âmthanh, cao độ, trường độ, quãng, gam, điệu thức, giọng, hợp âm…Hình thức dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông là lớp học lớn, khoảng40 sinh viên một lớp.Phương pháp dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông được sử dụng là cácphương pháp dùng lời, phương pháp sử dụng phương tiện trực quan, phươngpháp thực hành luyện tập, phương pháp trình bày tác phẩm …Phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông lànhạc cụ, bảng biểu, sơ đồ máy vi tính, máy chiếu …, những đồ dùng giúp chosinh viên nhận thức nội dung phân môn Nhạc lý phổ thông một cách cụ thể vàdễ dàng hơn.1.3. Phương tiện trực quanĐể tìm hiểu được rõ tầm quan trọng của phương tiện trực quan trong quátrình dạy học nhạc lý phổ thông, chúng tôi xác định là phải làm rõ được cáckhái niệm: Phương tiện, Trực quan, Phương tiện trực quan1.3.1. Phương tiệnTheo từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2003, phương tiện được xem làcái dùng để làm một việc gì, để đạt một mục đích nào đó.Theo từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, 2011,phương tiện dạy học (còn gọi là đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học) là một vậtthể hoặc một tập hợp các vật thể mà giáo viên sử dụng trong quá trình dạy họcđể nâng cao hiệu quả của quá trình này, giúp học sinh lĩnh hội khái niệm, địnhluật,...Hình thành các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ cần thiết.Trong mỗi lĩnh vực hoạt động đều có những phương tiện phù hợp đểhoạt động. Chẳng hạn, trong lĩnh vực giao thông, có các phương tiện giao13thông, vận chuyển… nối liền quan hệ giữa các vùng; trong lĩnh vực y tế, cócác phương tiện khám chữa bệnh là các thiết bị, dụng cụ, đồ dùng khác nhau.Trong lĩnh vực giáo dục, dạy học cũng có những phương tiện riêng để phụcvụ cho quá trình dạy học.Như vậy, có thể hiểu rằng, trong dạy học, cái mà giáo viên sử dụng đểđạt mục đích giúp cho sinh viên nắm được nội dung kiến thức, kỹ năng cụthể của bài học, được gọi là phương tiện.1.3.2. Trực quanQúa trình dạy học là quá trình trong đó người học nhận thức nội dungkiến thức, kỹ năng của môn học.GS.TS. Nguyễn Quang Uẩn đã căn cứ vào tính chất phản ánh, có thểchia toàn bộ hoạt động nhận thức thành hai mức độ lớn:Nhận thức cảm tính (gồm cảm giác và tri giác) và nhận thức lý tính (tưduy và tưởng tượng)”. [67;29]Học thuyết duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Lênin cho rằng quátrình nhận thức là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tưduy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thứcchân lí, của sự nhận thức hiện thực khách quan. [88;5]Trực quan là những gì được nhận biết dưới các hình thức cảm giác, trigiác, biểu tượng. Nó cho ta một hình ảnh cảm tính về sự vật, hiện tượng.Trên cơ sở đó, nhận thức con người đi vào các giai đoạn cao hơn của tư duytrừu tượng.Như vậy có thể thấy con đường người dạy truyền đạt kiến thức bằngcách để người học tiếp xúc trực tiếp với những sự vật, hiện tượng, hay hình14tượng của chúng, qua thị giác, thính giác, xúc giác… là tiền đề quan trọng đểhình thành các khái niệm.1.3.3. Phương tiện trực quanNói về phương tiện trực quan trong dạy học, có nhiều cách diễn đạt khácnhau về khái niệm này.Phương tiện trực quan là (đồ dùng, thiết bị dạy học) một vật thể hoặcmột tập hợp các vật thể mà giáo viên sử dụng trong quá trình dạy học để nângcao hiệu quả của quá trình này, giúp sinh viên lĩnh hội khái niệm, định luật…,hình thành các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ cần thiết.Phương tiện trực quan là tất cả các phương tiện vật chất cần thiết giúpGV hay SV tổ chức và tiến hành hợp lí, có hiệu quả quá trình giáo dục và giáodưỡng ở các cấp học, các lĩnh vực, các môn học để có thể thực hiện đượcnhững yêu cầu của chương trình giảng dạy.Phương tiện trực quan là chỉ một vật thể hoặc một tập hợp những đốitượng vật chất mà người GV sử dụng với tư cách là phương tiện điều khiểnhoạt động nhận thức của SV, còn đối với SV thì đây là các nguồn tri thức, làphương tiện giúp SV lĩnh hội các khái niệm, định luật, học thuyết khoa học,hình thành ở họ các kỹ năng, kỹ xảo, đảm bảo việc giáo dục, phục vụ các mụcđích dạy học và giáo dục.Phương tiện trực quan bao gồm mọi thiết bị kỹ thuật từ đơn giản đếnphức tạp được dùng trong quá trình dạy học để làm dễ dàng cho sự truyền đạtvà sự lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.Phương tiện trực quan là một tập hợp những đối tượng vật chất đượcgiáo viên sử dụng với tư cách là những phương tiện điều khiển hoạt độngnhận thức của sinh viên. Đối với SV đó là nguồn tri thức phong phú sinhđộng, là các phương tiện giúp cho các em lĩnh hội tri thức và rèn luyện các kỹnăng, kỹ xảo.15Theo chúng tôi, có thể hiểu phương tiện trực quan là một tập hợp tất cảcác đồ dùng và thiết bị dạy học mà người giáo viên và sinh viên sử dụng trongquá trình dạy học nhằm đạt được mục đích dạy học. Đó là những công cụgiúp người giáo viên tổ chức, điều khiển quá trình dạy học và giúp người họclĩnh hội tri thức cũng như tổ chức hoạt động nhận thức của mình có hiệu quả.1.3.4. Vai trò của phương tiện trực quan trong dạy học phân môn nhạclý phổ thôngĐối với những nội dung có tính lý thuyết, đòi hỏi người học phải tư duytrừu tượng và tư duy logic như ở phân môn Nhạc lý phổ thông thì phương tiệntrực quan là thành tố đóng vai trò rất quan trọng.Phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông giúpgiảng viên dễ dàng thiết kế các bài giảng có hình nốt nhạc, những bài kiểm traâm nhạc, tạo các slide với nội dung cô đọng, dễ nhớ bằng việc chèn hình ảnhvề quãng, hợp âm, điệu thức để minh họa. Các giai điệu, hợp âm vang lên từđàn, các bảng biểu, sơ đồ về quãng, điệu thức sẽ giúp giảng viên truyền đạtnội dung bài học một cách khoa học, làm cho tiết học Nhạc lý phổ thông sôinổi và đạt hiệu quả hơn.Phương tiện trực quan trong dạy học nhạc lý phổ thông giúp SV huyđộng sự tham gia của nhiều giác quan kết hợp với lời nói, tạo điều kiện dễhiểu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn, làm phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát,óc tò mò khoa học sáng tạo của sinh viên.Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học nhạc lý phổ thông khiếncho những khái niệm trừu tượng như gam, điệu thức, giọng, hợp âm… trở nênrõ ràng, cụ thể, SV dễ tiếp nhận. Cho SV nghe âm nhạc vang lên trực tiếp từnhững nhạc cụ phổ thông hay băng đĩa từ đài cát sét…, kết hợp với xem bảngbiểu, sơ đồ, hình ảnh… chắc chắn tác động mạnh mẽ tới họ hơn là chỉ dùng16lời nói. Vì thế, trong dạy học Nhạc lý phổ thông, GV không những cần giỏi vềvề lý luận, mà còn phải biết sử dụng đàn, và các thiết bị khác…Phương tiện trực quan và các phương pháp dạy học dùng trong quá trìnhdạy học phân môn Nhạc lý phổ thông có mối quan hệ mật thiết với nhau.Trong khi thuyết trình về các khái niệm quãng, hợp âm, giáo viên sử dụngPTTQ phù hợp sẽ làm cho các khái niệm bớt trừu tượng. Khi hướng dẫn SVthực hành luyện tập thì các PTTQ sẽ cụ thể hóa những nội dung luyện tậpbằng các miếng ghép, bảng biểu…, giúp SV dễ dàng thực hành để nắm cáckhái niệm.Như vậy, có thể nói là phương tiện trực quan không chỉ gắn bó chặt chẽvới các thành tố cơ bản trong quá trình dạy học Nhạc lý phổ thông, mà nó còncó ý nghĩa to lớn mang lại hiệu quả tích cực trong nhận thức của sinh viên đốivới những kiến thức, kỹ năng âm nhạc của phân môn này.1.4. Thực trạng dạy học nhạc lý phổ thông ở trường CĐSP Nam Định1.4.1. Vài nét trường CĐSP Nam ĐịnhTrường CĐSP Nam Đinh là nơi đào tạo, bồi dưỡng hàng ngàn lượt giáoviên, cán bộ quản lý cho ngành giáo dục của tỉnh Nam Định nói riêng và cảnước nói chung. Đây là một trong những cơ sở đào tạo uy tín, lâu năm đượcnhà nước, xã hội công nhận. Năm 1965 tỉnh Nam Hà được thành lập trên cơsở hợp nhất hai tỉnh Nam Định và Hà Nam đến năm 1997 tỉnh Hà Nam đượctách ra, trường đổi tên là trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định.Trường có các phòng chức năng và bốn khoa: Khoa xã hội, khoa Tiểuhọc mầm non, khoa Tự nhiên, khoa Ngoại ngữ.Trong trường có các hệ đào tạo chính quy và không chính quy Trung cấpsư pham, cao đẳng sư phạm nhiều ngành như: Toán lý, Toán hóa, Toán tin,Tin kỹ thuật công nghiệp, Hóa sinh, Sinh kỹ thuật nông nghiệp, Văn sử, Văn17địa, Văn công tác đội, Văn giáo dục công dân, Giáo dục công dân sử, Sử địa,Tiếng Anh, Âm nhạc , Giáo dục thể chất, Mỹ thuật, Mầm non, Tiểu học.Chuyên ngành CĐSP Tiểu học và Mầm non luôn có đông đảo sinh viêntheo học.Một số nét về khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non.Khoa SP Tiểu học - Mầm non có các chức năng và nhiệm vụ sau: Đàotạo giáo viên Mầm non trình độ Trung cấp, Cao đẳng; đào tạo giáo viên Tiểuhọc trình độ Trung cấp, Cao đẳng; đào tạo Trung cấp, Cao đẳng ngoài sưphạm theo nhu cầu của địa phươngHiện nay ở Khoa có 17 Giảng viên, trong đó có 8 Thạc sĩ, và 4 học viênđang đi học cao học, số lượng giáo viên âm nhạc là 5 người. Định hướng củaKhoa và Nhà trường trong những năm tới sẽ không ngừng bồi dưỡng, nângcao chất lượng đội ngũ giảng viên.1.4.2. Chương trình học phần nhạc lý phổ thông hệ CĐSP Tiểu học1.4.2.1. Khung chương trình phân môn Nhạc lý phổ thôngChương trình đào tạo hệ CĐSP Tiểu học được triển khai trong 3 nămđào tạo theo tín chỉ, đúng với quy định của Bộ giáo dục - Đào tạo.Toàn khóa CĐSP Tiểu học bao gồm 123 tín chỉ. Trong đó, thời lượngdành cho Môn âm nhạc là 6 tín chỉ.Môn Âm nhạc có ba phân môn, phân bố như sau:Nhạc lý phổ thông - 2 tín chỉĐọc - Ghi nhạc - 2 tín chỉHát - 2 tín chỉ18Trong chương trình phân môn nhạc lý phổ thông của hệ CĐSP Tiểu học,nội dung kiến thức được chia thành 8 chương:Chương I: Âm thanh - Cao độChương II:Trường độ của âm thanhChương III: Nhịp - phách - Tiết tấuChương IV: Các loại dấu hóa - Hóa biểuChương V: QuãngChương VI: Hợp âmChương VII: Điệu thức - Gam - GiọngChương VIII: Dịch giọngVề giáo trình: Do chưa biên soạn được giáo trình, nên giảng viên tổ âmnhạc dạy học dựa vào các giáo trình sau:Phạm Tú Hương: Giáo trình “Lý thuyết Âm nhạc cơ bản” – Bộ Giáodục và Đào tạo, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2010.Hoàng Long – Hoàng Lân: Giáo trình “Âm nhạc và phương pháp dạyhọc Âm nhạc”, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2012.1.4.3. Tình hình dạy học phân môn nhạc lý phổ thông1.4.3.1. Đặc điểm khả năng âm nhạc của sinh viên CĐSP Tiểu họcTrường CĐSP Nam ĐịnhĐể chất lượng giảng dạy và học tập đạt kết quả cao, ngoài yếu tố ngườithầy còn phải kể đến yếu tố người học. Qua khảo sát thực tế, cho thấy khảnăng âm nhạc cùa sinh viên trường CĐSP Nam Định có một số đặc điểm nhưsau:Tuyển sinh ngành cao đẳng sư phạm tiểu học với 3 môn Văn, Toán,Anh, không tuyển năng khiếu âm nhạc nên chất lượng khả năng âm nhạc củasinh viên là không đồng đều, nhìn chung là thấp. Đa số SV còn hạn chế vềnăng khiếu âm nhạc.Một số sinh viên sống ở thành phố Nam Định, hoặc ở các thành phốkhác có được tiếp xúc với âm nhạc từ trước. Trong số này có những em có19giọng hát rất tốt. Có một vài em đã từng tham gia một số cuộc thi giọng háthay ở tỉnh nhà. Những sinh viên này tiếp cận với môn học âm nhạc khá dễdàng. Các em có khả năng nghe nhạc, đọc nhạc khá nhanh. Trong học hát, cácem thể hiện bài hát khá diễn cảm. Có một số sinh viên có giọng hát khá hayvới âm sắc giọng đẹp, âm vực giọng khá rộng, có thể thể hiện được một số bàihát có phong cách nhạc trẻ, nhạc thính phòng, dân ca… Khả năng ghi nhớ âmnhạc của những sinh viên này là tương đối tốt. Các em dễ dàng tham gianhững hoạt động âm nhạc của khoa, của nhà trường tổ chức và là những hạtnhân âm nhạc của phong trào văn nghệ ở nhà trườngPhần lớn sinh viên thuộc hệ CĐSP Tiểu học xuất thân từ những vùng nôngthôn, ở các huyện lân cận hoặc xa thành phố, nhiều em đến từ các huyện vùngbiển Nam định. Một số ít sinh viên đã từng tham gia văn nghệ, ca hát trong xóm,trongg xã. Trong những sinh viên này, những em có năng khiếu âm nhạc làkhông nhiều. Khi tiếp cận với âm nhạc, phần lớn SV ở nông thôn còn rất lúngtúng và hạn chế về một số mặt. Về giọng hát, các em hát bằng giọng hát tựnhiên, bản năng, âm vực giọng hát hẹp. Khi hát, một số em còn hát sai về cao độ,hoặc hát chậm hơn nhịp độ quy dịnh. Khả năng nghe nhạc của những sinh viênđến từ nông thôn còn yếu. Quá trình dạy học tập đọc nhạc cho thấy các em gặpnhiều khó khăn để thực hành được đúng yêu cầu của giảng viên. Khả năng nắmbắt nhịp phách, tiết tấu, cũng như thực hành đọc các quãng có cao độ phức tạpcủa họ cũng còn chậm, phải luyện tập nhiều lần.Qua quan sát một số giờ học hát của sinh viên cao đẳng sư phạm Tiểuhọc thấy được việc ghi nhớ cao độ, giai điệu các bài hát của sinh viên cònchưa tốt. Khi vừa học xong một bài hát hay một nội dung âm nhạc mà giáoviên yêu cầu các sinh viên thực hành lại ngay trong giờ học thì sinh viên chưalàm được.20Sinh viên cao đẳng sư phạm Tiểu học tuy còn hạn chế về năng khiếu âmnhạc và chênh lệch nhiều về khả năng tiếp thu kiến thức, kỹ năng âm nhạc.Nhưng hầu hết sinh viên CĐSP Tiểu học đều có khả năng tiếp thu các kiếnthức văn hóa khác. Họ xác định rất rõ mục tiêu ngành nghề mà sau này ratrường họ sẽ sử dụng là dạy học cho học sinh tiểu học.Họ rất chăm chỉ và tíchcực, nghiêm túc trong học tập, rèn luyện tất cả các môn học trong chươngtrình đào tạo.1.4.3.2. Tình hình dạy học phân môn nhạc lý phổ thôngQua tìm hiểu thực tế, dự giờ dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông tạitrường cho thấy trong mỗi tiết học giảng viên thường thuyết trình, giải thíchcác khái niệm là chính. Hầu hết các tiết học phân môn này không thấy sửdụng tới bảng biểu hay máy móc hỗ trợ. Chỉ có một đôi tiết học là thấy códùng đàn Organ.Một vài giảng viên còn lược bỏ một số nội dung bài giảng để theo kịptiến độ giảng dạy. Do vậy, những kiến thức nhạc lý phổ thông bị lược bỏ đãtrở thành những bài học thuộc lòng.Trao đổi trực tiếp với giảng viên dạy học phân môn Nhạc lý phổ thôngtại trường, được biết, họ rất ngại sử dụng các phương tiện trực quan trong quátrình dạy học. Vì muốn dùng phương tiện trực quan thì giảng viên cần phải cósự chuẩn bị. Khi muốn dùng bảng biểu cho sinh viên xem, giảng viên phảimang ra ngoài để in từ giáo trình hoặc mất nhiều thời gian để vẽ. Cũng nhưkhi chuẩn bị cho sinh viên nghe một đoạn nhạc, giảng viên phải tập trước ởnhà với đàn Organ, hay đàn Guitar. Giảng viên còn ngại mang PTTQ lên lớp,xuống lớp.Quan sát, dự giờ dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông, cho thấy, sinhviên phải tiếp thu kiến thức âm nhạc một cách khó khăn.21Tiết học phân môn Nhạc lý phổ thông diễn ra khá nặng nề và trầm lặng.Sinh viên chủ yếu là nghe và ghi. rất ít được thực hành. Các khái niệm âmnhạc được sinh viên nhận biết chủ yếu bằng ngôn ngữ, mô tả bằng lời củagiảng viên. Vì cố hình dung khái niệm âm nhạc như quãng, hợp âm, gam,giọng, điệu thức …, qua phần mô tả của giảng viên nên nhiều sinh viên tỏ ramệt mỏi, uể oải và chậm phản ứng theo yêu cầu của giảng viên.Trao đổi với một số sinh viên, được biết, những khái niệm âm nhạc màcác em tiếp cận trong lớp học rất trừu tượng, khó hình dung và khó nhớ.Nhiều em cho rằng từ những kiến thức âm nhạc này đến việc có thể thực hànhđược cũng còn một khoảng cách.Từ những gì thấy được qua dự giờ quan sát và trao đổi đối với giảngviên âm nhạc, với sinh viên cao đẳng sư phạm Tiểu học, chúng tôi đã tiếnhành tổng hợp kết quả điểm thi kết thúc phân môn Nhạc lý phổ thông của sinhviên hai khóa 33 và 34, để làm rõ chất lượng dạy học phân môn này nhữngnăm trước đây.Kết quả học tập nhạc lý phổ thông của sinh viên khóa 33 và khóa 34năm học 2013 và 2014.Bảng 1: Tổng hợp kết quả học tập phân môn NLPTKhóa 33Kết quảGiỏiKhóa 34Số lượng SVTỉ lệSố lượng SVTỉ lệ25%37.5%22Khá1537.5%1025%Trung bình1845%2050%Yếu512.5%717.5%Tổng40100%40100%Trên bảng 1, cho thấy quá nửa số sinh viên của hai khóa chỉ đạt trungbình và yếu. Rất ít sinh viên đạt kết quả giỏi. Chí có ít sinh viên là đạt khá.Điều đó phản ánh một cách khách quan là chất lượng dạy học phân môn Nhạclý phổ thông còn chưa cao.Để làm rõ vấn đề sinh viên có quan tâm, hứng thú với phân môn nhạc lýphổ thông hay không, sinh viên có mong muốn gì để học tập Nhạc lý phổthông tốt hơn, chúng tôi đã sử dụng hai phiểu điều tra 80 sinh viên CĐSPTiểu học khóa 33, khóa 34. Họ là những sinh viên đã được học phân môn nàytừ những học kỳ trước.Phiếu điều tra số 1 để điều tra mức độ hứng thú học tập của sinh viêntrong các tiết học phân môn Nhạc lý phổ thông và kết quả điều tra thể hiệntrên bảng 2.Bảng 2: Tổng hợp kết quả điều tra hứng thú của sinh viên với NLPTCâu 1: Bạn có thích học Nhạc lý phổ thông không?STTMức độSố lượngPhần trăm1Rất thích55%2Có thích1010 %3Bình thường1515%4Không thích6070%23Qua bảng 2 chúng tôi thấy được có rất ít sinh viên thích học phân mônNhạc lý phổ thông, chỉ có rất ít số lượng sinh viên tỏ ra có hứng thú trong tiếthọc, còn lại hơn nửa số sinh viên không thích học bộ môn này. Vì sao lại nhưthế, Chúng tôi tiếp tục làm phiếu điều tra số 2 tìm hiểu một phần nguyên nhânvì sao có một số lượng lớn sinh viên không thích học phân môn Nhạc lý phổthông. Và tìm hiểu mong muốn của sinh viên muốn cải thiện vấn đề gì tronggiờ học Nhạc lý phổ thông.Bảng 3: Tổng hợp kết quả điều tra yếu tố cần cải thiện trong dạy học NLPTCâu 2: Bạn muốn cải thiện điều gì trong giờ học nhạc lý phổ thông:STTMức độSố lượngPhần trăm1Tất cả các nội dung1010%7080%2Bổ sung các phương tiện trựcquan trong giờ học3Cải thiện giáo án1010%4Không muốn thay đổi00Qua bảng 3 cho thấy hầu hết tất cả các sinh viên đều muôn bổ sung cácphương tiện trực quan trong giờ học. Phải chăng giảng viên giảng dạy bộ mônnày trong các tiết học không sử dụng phương tiện trực quan?.Chúng tôi đã tiến hành quan sát, dự giờ, phỏng vấn và trao đổi với một sốgiảng viên giảng dạy bộ môn này thì kết quả thu được như sau: Sử dụngPTTQ trong quá trình dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông còn chưa đượcgiảng viên quan tâm đến, còn ít sử dụng PTTQ trong giờ dạy. Đó cũng có thểchính là nguyên nhân khách quan dẫn đến những biểu hiện không tích cựctrong các giờ dạy hoc phân môn này. Chúng tôi cho rằng kết quả dạy họcphân môn Nhạc lý phổ thông như vậy sẽ có ảnh hưởng không ít đến việc tiếpthu các nội dung khác trong môn Âm nhạc của sinh viên CĐSP Tiểu học.Tiểu kết chương 124Dạy học và giáo dục âm nhạc ở trường tiểu học đòi hỏi phải có một độingũ giáo viên tiểu học có khả năng tổ chức cho học sinh ca hát, phát triển khảnăng nghe nhạc, làm quen với tập đọc nhạc, thông qua đó tiếp cận với cáckiến thức sơ giản về âm nhạc.Trường CĐSP Nam Định là nơi đào tạo các hệ giáo viên tiểu học trìnhđộ CĐSP. Trong chương trình đào tạo toàn khóa, sinh viên được học âm nhạcvới những kiến thức đầu tiên ở phân môn Nhạc lý phổ thông.Nội dung phân môn Nhạc lý phổ thông mang tính lý thuyết, trừu tượng,đòi hỏi người giảng viên âm nhạc phải biết cụ thể hóa, làm rõ các khái niệmđể sinh viên dễ dàng tiếp thu và thực hành những kiến thức âm nhạc, đáp ứngđược yêu cầu mục tiêu dạy học phân môn này.Trong chương 1, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu phântích, tổng hợp, khái quát hóa để làm rõ những khái niệm cần thiết về quá trìnhdạy học phân môn Nhạc lý phổ thông, về vai trò của phương tiện trực quanđối với việc dạy học của giáo viên và sinh viên CĐSP Tiểu học.Chúng tôi đã sử dụng phương pháp điều tra, quan sát, dự giờ, phỏng vấn,trao đổi để tìm hiểu thực trạng dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông một sốkhóa sinh viên trước đây, để thấy được chất lượng dạy học phân môn này cònthấp, mà nguyên nhân khách quan dẫn đến thực trạng này là vấn đề dùngphương tiện trực quan còn chưa được quan tâm sử dụng.Để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Âm nhạc nói chung và phân mônNhạc lý phổ thông nói riêng trong đào tạo ở hệ CĐSP Tiểu học tại Nam Định,chúng tôi cho rằng cần mạnh dạn nghiên cứu đưa ra các biện pháp sử dụngphương tiện trực quan để giúp cho giảng viên và sinh viên thực hiện quá trìnhdạy học phân môn này một cách thuân lợi và dễ dàng hơn.25

Trích đoạn Nguyên tắc dùng phương tiện trực quan phù hợp với nội dung bài học Nguyên tắc sử dụng phương tiện trực quan thành thạo Nguyên tắc sử dụng vừa đủ phương tiện trực quan Cách sử dụng từng PTTQ trong dạy học phân môn Nhạc lý phổ thông Kết quả thực nghiệm


Page 2