8 183 KB 1 75
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Miền Trung - Tây Nguyên VẤN ĐỀ QUAN, HÔN, TANG, TẾ CỦA CÁC GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ
Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY
? TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG * I. Đặt vấn đề
Quan, hôn, tang, tế là bốn điển lệ có giá trị tinh
thần hết sức quan trọng trong đời sống của người
dân Việt Nam. Mặc dù hiện nay, bốn điển lệ này đã
có nhiều thay đổi nhưng nó vẫn là những quy ước tạo
nên một nền văn hóa lành mạnh.
Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX những hủ tục
nặng nề trong nhân dân đã được cụ Phan Bội Châu
cảnh báo, phê phán đả kích mạnh mẽ những tập
quán, phong tục hủ lậu của nông thôn đã và đang
được thi hành. Ông tấn công toàn diện vào những
nghi lễ cơ bản của xã hội, trước hết là những biểu
hiện của tục thờ cúng tổ tiên, tế lễ thần linh.
Đến nay, 15 năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình xa
hoa, lãng phí trong hôn nhân, tế lễ, tang ma lại càng
trầm trọng hơn và nhất là mê tín, hay khoe khoang
và vẫn còn nhiều hủ tục nặng nề trong các gia đình,
dòng họ Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế
nói riêng.
II. Vấn đề quan, hôn, tang, tế của các gia đình,
dòng họ ở Thừa Thiên Huế hiện nay
Như chúng ta đã biết, Quan là một loại lễ nghi
nhằm mục đích làm cho người con trai tự nhận thức
được vai trò quan trọng của mình trong xã hội mà ra
sức học tập và thi hành đạo lý, trở thành một nhân tố
tốt cho xã hội. Lễ gia quan xưa kia cũng chính là kỳ
vọng của bậc cha mẹ đặt vào đứa con trai, mong cho
con nên người làm vẻ vang cho dòng dõi và góp phần
xây dựng một xã hội tốt đẹp nên thường tổ chức long
trọng cho họ hàng, xóm giềng cùng biết. Đây chính
là một tập tục tốt đẹp, được người xưa coi trọng, thế
* Đồ vàng mã cúng trong ngày 23.5 âm lịch - Ngày thất thủ
kinh đô 1885. nhưng trải qua bao thăng trầm của các thời đại, hiện
nay không còn chút dấu vết gì nữa.
Mặc dù lễ gia quan đã mất, thế nhưng vấn đề
trọng nam khinh nữ lại còn đặt nặng lên đời sống của
những cặp vợ chồng trong gia đình, trong thành viên
của mỗi dòng họ. Dưới đây, chúng tôi chỉ xin nói về
những hủ tục, lạc hậu và những việc chưa được trong
đời sống gia đình, gia tộc ở Thừa Thiên Huế hiện nay
nhằm góp phần hạn chế những việc không đáng có
trong đời sống vật chất lẫn tinh thần, tâm linh để
cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh.
1. Quan niệm về trai, gái
Thừa Thiên Huế là vùng đất có bề dày văn hóa
truyền thống trong gia đình, dòng họ. Trước đây, ở
Huế tính gia trưởng không hoàn toàn cứng nhắc mà
ngược lại “định chế dòng đích ở vùng Huế không cứng Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế. Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
Ñaø Naüng 17 Miền Trung - Tây Nguyên nhắc trong việc thờ cúng tổ tiên. Con cả có vai trò quan
trọng: nổi bật trong tang lễ trong y phục, cây gậy cầm
tay, bước đi thụt lùi trước linh cữu; nhưng nếu vắng mặt
thì người em kế lên thay thế [không có con trai thì lấy
con trai thứ của người em trai - bởi con cả thừa tự cho
cha]. Gia đình con trai thứ vẫn thiết trí thờ vọng tổ tiên,
thờ thần, Phật và bản thân họ có thể phụng sự tổ tông
khi dòng đích không thừa tự hay trưởng tử ở xa quê.
Gia tộc kỳ vọng con trai, nhất là con đầu lòng nhưng
vẫn vui mừng khi đón nhận bé gái chào đời, không
khinh miệt. Lúc còn sống, phận gái lo lắng việc hiếu nhà
chồng lẫn cha, mẹ đẻ; lúc chết, mới chỉ được riêng nhà
chồng thờ cúng. Trường hợp tình duyên trắc trở hồi tôn
hoặc ở rể [không có con trai, con trai sống ở xa] thì con
gái vẫn đảm nhận nghĩa vụ cao cả này, trật tự gia phong
buộc con trai nếu lo lắng mộ phần, phải chu toàn từ bậc
cao, cố, ông bà đến cha mẹ, riêng người con gái, được
theo chữ hiếu tâm thành [có thể xây lăng cho cha mẹ…
mà không nhất thiết tuân thủ trật tự trên]”.1
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề trọng nam khinh nữ tại
các làng quê ở Thừa Thiên Huế đang có chiều hướng Cảnh đội họ ba trong đám cưới. 18 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
Ñaø Naüng quay trở lại, người ta vẫn thường hỏi thăm nhau siêu
âm hoặc sinh con trai hay con gái. Ở những gia đình
bình dân còn có tục lệ nhốt trâu để chờ sinh con trai
mà ăn mừng. Còn nghe tin sinh con gái thì lập tức thả
trâu ra, coi như không mừng gì nữa cả. Hoặc khi nghe
tin vợ chuẩn bị sinh con trai thì người chồng xuống
sông lặn ngụp để cho vợ sinh nhanh và dễ dàng.
Khi sinh con, nhất là con trai, người nhà, dòng họ
coi như đó là một tin mừng lớn vì có con trai để nối
dõi tông đường. Nếu cặp vợ chồng nào chẳng may
sinh con một bề toàn gái thì họ phải sinh thật nhiều,
sinh đến khi nào có con trai thì thôi. Sinh nhiều con
trai cũng thể hiện vai vế của gia đình, dòng họ trong
các sinh hoạt cộng đồng. Chính vì sự mặc cảm, tự ti
của việc trọng nam khinh nữ mà đã có nhiều vụ ẩu đả,
chửi bới thậm chí tuyệt đường lui tới nhà người thân
hoặc nhà thờ họ.
Chính vì trọng con trai hơn con gái khiến việc kết
hôn mà không sinh được con trai trở thành áp lực
nặng nề cho người phụ nữ. Có những trường hợp
khi siêu âm biết con gái thì quyết định phá thai để Miền Trung - Tây Nguyên đợi sinh đợt khác mong có con trai. Cũng có những
trường hợp rơi vào mê tín dị đoan mà đi cầu đảo,
cúng bái tại các am thờ, điện hoặc lên chùa gửi cửa
Phật để mong có được con trai nhưng cuối cùng vẫn
không được như ý mà còn tiền mất, tật mang, hạnh
phúc gia đình tan vỡ.
Ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Thừa Thiên
Huế cũng rơi vào trường hợp tương tự, người Tà Ôi
trong quan niệm của mình xưa và nay vẫn thích cho
con trai đi học vì họ cho rằng trong xã hội người con
trai là chuẩn mực, trong gia đình người con trai là trụ
cột chính. Sau này bố mẹ già sẽ ở với con trai, con trai
nuôi, nếu con trai có học thì bố mẹ sẽ sung sướng.
Còn con gái thì lớn sẽ lấy chồng về phục vụ cho nhà
chồng thì không nên học. Chính vì lẽ đó mà ngày nay
tỷ lệ học sinh nữ đến trường rất ít và nạn lấy chồng
sớm là một trong những nguyên nhân thất học ở các
em.2
2. Những hủ tục trong hôn nhân
Trước đây, việc cưới xin trở thành nỗi ám ảnh đối
với nhà nghèo, bởi sự tồn tại của tục thách cưới và lệ
tiền cheo. Với các nghi lễ và lệ tục đó, việc cưới xin
thường rất tốn kém “…chú rể phải đem trầu cau, rượu
làm lễ cáo yết thần Thành hoàng của làng nhà gái và
nộp tiền lễ cho làng. Nó như một thứ thuế theo lệ làng
mà người nào muốn cưới con gái trong làng đều phải
đóng góp cho làng thì làng mới công nhận cuộc hôn
nhân giữa chàng rể với cô gái đương sự. Nhưng có nơi,
nếu không nộp cheo thì việc rước dâu có thể bị ngăn
trở”.3 Và “Cũng có những trường hợp các cuộc hôn nhân
đã phải tan vỡ vì cha mẹ cô dâu thách cưới quá nhiều
khiến nhà trai không thể nào lo đủ. Hoặc nhà trai bất
đắc dĩ phải đi vay mượn, cũng do đó mà về sau dâu gia
thành ra oán ghét nhau”.4
Để ngăn chặn các tệ nạn bóc lột, mua bán trá hình
trong hôn nhân, dưới thời Nguyễn đã có những quy
định rất cụ thể, rõ ràng, thừa nhận và tôn trọng tục
lệ, nhưng lại có điều chỉnh sao cho phù hợp với gia
cảnh của từng hạng người, nhằm đảm bảo trật tự ổn
định và sự tiến bộ xã hội. Năm 1804, vua Gia Long đã
ra một đạo dụ nói rằng: “Các lễ vật về giá thú phải hợp
với gia cảnh, không được bắt người rể phải vay nợ hay
cầm ruộng đất để cưới vợ”.5 Điều 164, Khoản 2 của Luật
Gia Long quy định: “Việc lấy vợ lấy chồng không được
bắt người ta viết văn tự cầm thế ruộng đất. Tiền cheo,
người cùng làng, giàu thì 1 quan 2 tiền, nghèo thì 3 tiền,
người làng khác, giàu thì 2 quan 4 tiền, vừa thì 1 quan 6 tiền, nghèo thì 6 tiền; trái luật thì lý trưởng phải bị phạt
50 roi”.6 Vua Tự Đức thứ 8 [1855] đã ấn định các lễ vật
cho mỗi đẳng cấp giàu nghèo như sau: “Nếu người
nào không đủ tư lực, không bắt buộc phải theo. Sự bắt
buộc các gia đình phải vay nợ hay bán ruộng để cưới vợ
đều cấm triệt để… Kẻ nào, hôm dẫn sính lễ hay đón dâu
lạm dùng nghi lễ, không đúng với giai cấp mình sẽ phải
bị trừng phạt theo luật”.7
Thế nhưng hiện nay, ở Thừa Thiên Huế vẫn có
những gia đình, dòng họ vẫn còn khắt khe trong
chuyện cưới xin như coi trọng tuổi, đặt nặng vấn đề
bói toán, đoán định tướng mạo, tên người, xem ngày
giờ. Hoặc khi nạp lễ thì nhà gái yêu cầu nhà trai phải
chọn người bưng bê lễ vật phải là phụ nữ tuổi từ 18 22, trẻ, đẹp, lanh lợi, chưa chồng, còn trinh tiết, chọn
người bưng lễ vật thường là 5 người hoặc chín người
để trùng khớp với quy luật sinh - lão - bệnh - tử - sinh
đối với số 5, hoặc sinh - lão - bệnh - tử - sinh - lão bệnh - tử - sinh đối với số 9. Người thân tham gia các
lễ quan trọng trong hôn nhân như lễ tơ hồng, lễ trình
giờ, lễ rước dâu, đón dâu, thì không chấp nhận những
người có tình duyên chắp nối [2 đời vợ, 2 đời chồng],
người neo đơn [mất vợ hoặc mất chồng sớm], vợ
chồng không có con… vì sợ xui xẻo cho đôi vợ chồng
trẻ. Hoặc nhà gái phải đòi hỏi nhà trai tiến hành có
lễ họ ba, gồm 1 đội chuyên nghiệp có 20 người, 2
người xách lọng đèn, 2 người ôm 2 con ngỗng to, 4
người gánh kiệu trên có con heo quay, 1 người gánh
2 chum rượu, 4 người gánh kiệu bên trên đặt mâm xôi
ngũ sắc, 7 người còn lại bưng bê mâm ngũ quả, rượu,
trầu cau. Lễ phải tiến hành đúng lúc cúng lễ tơ hồng,
khi vào đến cổng nhà gái 2 người ôm 2 con ngỗng to
phải làm thế nào để 2 con ngỗng đó kêu lên những
tiếng thật to là tốt, gia chủ nhà gái mừng vì niềm hên
đã đến. Việc làm này rất tốn tiền, tốn của và công sức
của nhà trai, vì giá của một lần tổ chức lên đến 10
triệu đồng.
Có những gia đình dòng họ vì mến mộ đạo Phật
nên họ có quan niệm tổ chức đám cưới ở chùa để cho
đôi uyên ương được viên mãn, hạnh phúc suốt đời,
tại nơi đó, cả gia đình nhà gái nhà trai cùng lạy Phật,
cô dâu chú rể nghe thầy đọc 1 bài kinh cầu an hạnh
phúc, đôi nhẫn cưới được thầy niệm chú và trao nhẫn
cưới cho đôi uyên ương, và căn dặn những lời lẽ để
giữ tình viên mãn trọn đời. Thế nhưng trên thực tế,
việc làm này cũng tốn không ít tiền bạc của nhà trai
thường từ 10 - 12 triệu đồng. Sau một thời gian về
ăn ở với nhau, vì nợ nần khó khăn chồng chất nên vợ Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
Ñaø Naüng 19 Miền Trung - Tây Nguyên chồng đâm ra cãi vã, ly hôn thì những việc làm trên
chẳng có ý nghĩa thiết thực gì cả.
Tiệc cưới hiện nay thông thường là từ 200 khách
đến 600 khách, hát hò ca nhạc đàn trống inh ỏi,
không còn thanh tĩnh. Thực đúng như Phan Bội Châu
đã từng phê phán cách nay hơn thế kỷ: “Thế mà cũng
mời khách khứa, phô trương xa phí hàng trăm, hàng
nghìn, thậm chí đến hàng vạn; nhà giàu thì hao phí tiền
của, nhà nghèo thì phải cầm bán ruộng đất sản nghiệp.
Ôi! Ky cóp quanh năm, vất vả suốt đời, chỉ lo mỗi một
việc hôn nhân mà trở lại trắng tay”.8
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Thừa
Thiên Huế thì vấn đề hủ tục trong hôn nhân cũng bị
nhiều ràng buộc khắt khe. Đồng bào có tục tổ chức
đám cưới hai lần. Ở lễ cưới lần đầu, khi đã thỏa thuận
về thời gian, nhà trai sẽ gửi đến nhà gái những lễ vật
quý giá đã được hai bên gia đình chấp thuận trong
lễ hỏi như chiêng, ché, nồi đồng, bạc trắng, lợn, trâu,
nếp, rượu. Quà dẫn cưới ít hay nhiều, to hay nhỏ là
tùy thuộc vào sự thách cưới của nhà gái. Đó chính là
nguyên nhân khiến không ít chàng trai nghèo hèn,
mồ côi sẽ khó vượt qua lễ cưới lần đầu và suốt đời lâm
vào cảnh lẻ loi, đơn chiếc. Trong thực tế, có những lứa
đôi vì quá thương nhau, vì nặng gánh chung tình đã
không chịu buông xuôi theo lẽ thuận dòng đời mà tập
tục sắp đặt, họ cố công chạy vạy, xoay sở để trang trải
khoản tiền cưới mặc dù cả chàng trai lẫn cô gái đều
hiểu, phía trước, tương lai không mỉm cười cùng họ.
Lễ cưới lần hai với cái tên lễ kết thúc trọn vẹn, đây
là một lễ thức mang tính chất bắt buộc, vừa nhằm tạ
ơn thần linh đã phù hộ cho lứa đôi có được những
tháng ngày bên nhau vẹn tròn, hạnh phúc, vừa còn tỏ
ý rằng, đến đây, họ hàng nhà trai đã thanh toán xong
khoản mua nàng dâu nhằm đáp ứng nhu cầu bổ sung
sức lao động cho gia đình. Lễ cưới lần thứ hai thực sự
là nỗi ám ảnh của biết bao cặp vợ chồng nghèo khó.
Rất nhiều trường hợp, vợ chồng suốt một đời tích
góp, cóp nhặt, tần tảo vẫn không lo xong, để đến nổi
đời con, thậm chí đời cháu của họ phải cáng đáng, lo
tổ chức lễ cưới lần thứ hai cho ông bà, cha mẹ mình.9
Trong 5 năm trở lại đây [2008 - 2012] tỷ lệ tảo hôn
trên địa bàn vùng núi Thừa Thiên Huế dao động từ
7,2 đến 12,8%. Tổng số các cặp tảo hôn trong vòng
5 năm qua là 211. Những năm gần đây, vấn đề tảo
hôn vẫn còn xảy ra nhiều và ở mức cao so với mặt
bằng chung của toàn tỉnh. Tỷ lệ hôn nhân cận huyết
thống dao động từ 0,22 đến 1,0% [hôn nhân trực hệ 20 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
Ñaø Naüng trong phạm vi 3 đời theo Điều 10 Luật Hôn nhân và
Gia đình], đặc biệt là năm 2011 có 4 trường hợp kết
hôn cận huyết thống chiếm 1% [trên tổng số cặp kết
hôn trong năm].
Bảng 1. Tỷ lệ tảo hôn, kết hôn cận huyết thống
trên địa bàn vùng núi Thừa Thiên Huế Năm Tổng
số
cặp
kết
hôn Tỷ
lệ
% Kết
hôn
cận
huyết
thống Tảo hôn Tỷ lệ
% 2008 360 26 7,2 1 0,28 2009 458 39 8,5 1 0,22 2010 405 52 12,8 2 0,49 2011 404 43 10,6 4 1,0 2012 503 51 10,1 2 0,4 Tổng
cộng 2.130 211 9,9 10 0,46 Nguyên nhân của tình trạng trên là do trình độ
dân trí còn thấp, nhận thức của người dân còn hạn
chế, chưa áp dụng khoa học kỹ thuật để giải phóng
sức lao động, nên kết hôn sớm để có thêm nhân lực
lao động trong gia đình. Và những người có quan hệ
cận huyết kết hôn với nhau họ quan niệm sẽ gần gũi
hơn, thân thiết hơn và đặc biệt là không phải phân
chia tài sản cho người ngoài, không sợ mất con, mất
của.10
3. Vấn đề tang ma và tế lễ
Nhằm dẹp bỏ những cái không đáng có, những
cái thường gây khó khăn cho gia đình nghèo, cho
những dòng họ trong việc tang ma, tế lễ thì Điều
lệ hương đảng thời Gia Long đã quy định việc dân
làng có tang như sau: “kẻ giàu thì giúp của, kẻ túng thì
giúp sức, kẻ biết lẽ thì trông đỡ việc tang… còn cỗ bàn
ăn uống nhiều ít thì tùy ở nhà tang, không được vin lê
đòi hỏi”, mồ mả thì “chẳng qua chọn lấy nơi cao ráo,
lánh năm mối lo là những nơi đầu non, đuôi nước, chùa
miếu, binh lửa, thị thành, để được yên tĩnh cho yên lòng
người làm con thôi, chứ cấm tính việc kết phát, nhẹ dạ
nghe lời thầy địa lý, sáng chôn chiều bới, di cải không
thường, tấm lòng thương xót không còn gì nữa".11 Thế
nhưng không chỉ trước đây mà hiện nay mỗi khi có
việc tang tế, chúng ta thường gặp cảnh “ăn uống kể
đến mấy lần, cỗ bàn phải có nhiều món, danh là báo
hiếu, thực là nợ miệng".12 Miền Trung - Tây Nguyên Việc này, cụ Phan Bội Châu cũng đã lên án “nhân
cha mẹ chết, muốn lấy tiếng là có hiếu mà giết bò, giết
dê, mời khách khứa, xóm làng hàng họ, thổi kèn, đánh
trống ầm ĩ suốt ngày, mượn cái chết để mua vui cho
người sống, lấy việc buồn làm việc vui”.13 Và thực tế, ở
Thừa Thiên Huế hiện nay, những gia đình, dòng họ
mỗi khi có đám to, kỵ chạp, thì con cháu hưởng cỗ
đám trắng cả rạp, ăn uống mời mọc hỉ hả. Và xe đám
đi dọc đường thì rải giấy vàng bạc như bươm bướm,
làm khổ người phu vệ sinh. Sau đó thì lo xây mồ cao
to bề thế, tốn kém hàng trăm triệu, hay hàng chục
triệu. Với quan niệm, sống gửi thác về, con người đã
có sinh là có tử, cho nên làng xã, dòng họ nào cũng có
khu nghĩa trang. Có những ngôi mộ của những người
còn sống như các trường hợp ở thôn An Bằng, xã Vinh
An, huyện Phú Vang, người ta đua nhau xây lăng mộ,
có những ngôi mộ phá dỡ xây lại đến hai hoặc ba lần
mới ưng ý. Có những khu lăng mộ hoành tráng tốn
cả tiền tỷ, đó chính là những hủ tục lạc hậu mà người
dân không nên làm.
Đã có nhận xét cho rằng: “Tôn vinh thần linh là nét
văn hóa nổi bật của người Việt Nam nói chung, của cư
dân Huế nói riêng. Nó thể hiện lòng mong mỏi về một
cuộc sống hài hòa, cân bằng với tự nhiên, khao khát đạt
được thành quả xứng đáng trong lao động sản xuất để
vươn tới một xã hội phồn vinh, hạnh phúc. Nó bao gồm
cả mặt tích cực làm thăng hoa cuộc sống, nhưng cũng
không thiếu mặt tiêu cực gây nên sự trì trệ, khép kín. Vì
vậy, trong thời đại ngày nay, chúng ta cần nghiên cứu
bảo lưu giá trị đích thực của tín ngưỡng này, đồng thời
phát huy khoa học kỹ thuật để hạn chế những hủ tục do
đó mà ra”.14 Vậy những hủ tục đó là gì?
Một thực tế hiện nay ở các làng xã Thừa Thiên Huế
“Hầu hết các họ dù lớn hay nhỏ đều đặc biệt chú ý đến Các thầy cúng người Tà Ôi đang chữa bệnh bằng mê tín. việc xây dựng nhà thờ họ và nhìn chung quy mô rất lớn.
Thậm chí các họ lớn chia thành nhiều chi phái, ngoài
nhà thờ chung, mỗi chi phái còn xây dựng nhà thờ
riêng… Các làng nhỏ ở ven biển, ven đầm phá cũng chú
ý đầu tư xây dựng nhà thờ họ. Nhà thờ đối với con cháu
trong họ cũng gần giống như ngôi đình đối với cư dân
trong làng”.15 Còn đối với mỗi gia đình, dòng họ nhỏ
“…trong thực tế hiện nay, nhiều trường hợp các nghi lễ
thờ cúng tổ tiên đang được phát triển theo hướng phô
trương hình thức. Ngày giỗ bày biện mâm cao cỗ đầy,
ăn uống linh đình đến mức việc cúng lễ chỉ là cái cớ”.16
Việc mê tín dị đoan trước đây cũng có lúc phát
triển ở trong dân, điều này đã khiến cho vua Gia Long
cũng phải quy định “từ nay dân gian như có đau ốm,
chỉ nên cầu thuốc để trị, cẩn thận sự đi đứng, nhất thiết
chớ nên tin nghe bọn yêu tà mà cầu cúng xằng xiên”.17
Việc người xưa nhắc nhở là vậy, thế mà hiện nay, chưa
có số liệu thống kê hoặc điều tra xã hội học cho biết
ở Thừa Thiên Huế có bao nhiêu cơ sở am điện, đền
miếu, chùa chiền phục vụ cho việc bói toán. Nhưng
qua thực tế thì thấy rằng người dân đua nhau đi xem
bói rất nhiều, diễn ra hầu như quanh năm mà cao
điểm nhất là 3 tháng đầu năm, sau khi ăn tết âm lịch
xong.
Những người đi xem bói với mục đích, coi vận
mạng trong năm mới có hanh thông hay không?
Coi về đường tình duyên, coi về đường con cái, coi
về đường công danh sự nghiệp, coi ngày khởi công,
động thổ, khánh thành, mở quán, đặt đá, xây lăng mộ,
đi làm ăn xa, mở ngành nghề, cửa hàng kinh doanh,
coi mồ mả kết để cúng tạ… Bên cạnh việc đi xem bói
là việc đi xin xăm đầu năm tại các đền, chùa. Ở Huế
cứ sau tết vài ngày thì tại các cơ sở thờ tự như chùa
Ba Đồn, chùa Thuyền Tôn thường hay có tục xin xăm,
mọi người hồ hởi, đủ mọi lứa tuổi, thành phần, giới
tính đến lạy Phật xin xăm, gieo quẻ, nhờ thầy giải xăm
để biết trong năm việc gì cần làm, nên tránh. Hoặc
tại điện Hòn Chén, đền Thiên Sanh, các điện thờ tự
phát tại các gia đình cũng có tục xin xăm, cầu đảo
thần linh. Và cũng có không ít trường hợp sau khi bốc
được quẻ xăm xấu thì đâm ra bi quan, chán nản, bỏ
dở nhiều cơ hội làm ăn, gia đình tan nát. Còn những
người được quẻ xăm tốt thì hồ hởi, cúng tạ… nhưng
xăm tốt hay xấu, thầy bói hay hoặc dở đều do “phước
chủ” của mình, do bàn tay mình làm nên.
Trong đời sống làng quê và cả ở thành thị Thừa
Thiên Huế hiện nay vẫn đang nở rộ tình trạng đồng
bóng. Mà thường thể hiện rõ nét nhất trong các đợt Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
Ñaø Naüng 21 Miền Trung - Tây Nguyên Các thầy cúng người Tà Ôi đang chữa bệnh bằng mê tín. làm đám chay của các gia đình, dòng họ “Trong lễ trai
đàn [hay trai đàn bạt độ] là đại lễ của một dòng họ hay
chi phái từ một tín ngưỡng pha trộn của Đạo giáo và
Phật giáo Bắc tông, nhằm giải oan cho các vong hồn
được siêu thoát. Trong lễ này sẽ có tổ chức ngồi đồng
để người sống có cơ hội tiếp xúc với linh hồn người thân
và hò hát khi đưa đò để vong linh đoạn tuyệt với quá
khứ đau thương, trở về nơi an nhiên cực lạc. Trên thực
tế, việc ngồi đồng do tín chủ yêu cầu, không thuộc vào
nghi lễ chính, việc hò hát khi đưa đò cũng linh hoạt về
hình thức, thời gian do sự thỏa thuận và khả năng của
chủ, của thầy. chết ứng đồng, thân nhân có thể chuyện trò, xưng hô
như khi còn sống. Ngoài chuyện tâm sự, thân nhân
người chết thường đặt ra những vấn đề về sức khỏe.
Điều được trả lời thường giống nhau là: vì nghèo khổ,
đói khát đã bắt bán hay cho đi ở một số con cháu ở nơi
bà Thủy, bà Hỏa hay một cô, một cậu, một ông hoàng,
bà chúa nào đó. Nếu chủ mua đã bắt về [tức người sống
phải chết để hồn về phục vụ chủ] đủ số, thì không việc
gì, còn nếu chưa đủ [điều này thường xảy ra], thân nhân
phải nhờ pháp sư cầu đảo, van nài phía chủ mua, xin
được nộp hình nhân [nộm nan, con ảnh…] kèm theo
núi bạc non vàng [bằng hàng mã], để thế mạng”.18 Có hai hình thức đồng bóng thường gặp, tạm theo
quan hệ với tín chủ mà phân thành “đồng đuổi” và
“đồng thương”. Gần 30 năm vắng bóng kể từ năm 1975, lễ trai đàn
có rộ lên trong những năm trở lại đây, cũng chỉ thuần
túy về nghi lễ, nhưng lại tốn kém không ít tiền của
của con cháu trong gia đình, dòng họ, lãng phí về thời
gian, công sức lao động và đặc biệt là lãng phí về các
vật tế lễ, đốt vàng mã, gây mất lòng con cháu, mâu
thuẫn nội bộ từ các gia đình đến dòng họ. Đồng đuổi diễn ra khi cúng thí thực, trước lễ khai
ngục trị đàn, ít ra, cũng trước khi hầu “đồng thương”.
Đây là cuộc gọi các cô hồn ngoại tộc, ma tà quỷ dữ, cho
chúng được ăn uống, sau đó nhập xác đồng rồi tống
tiễn đi nơi khác, để các vong hồn của dòng tộc đang
được cứu vớt khỏi bị quấy rầy. Người ngồi đồng do vậy
mà phải chạy thật xa và không được quay trở lại chỗ
trai đàn.
Đồng thương được cầu bằng lối hát dỗ vong [tương
tự như hát ru, nhưng nhịp điệu chậm, trầm buồn], tên
tuổi người chết và người cầu được nêu trước. Khi người 22 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
Ñaø Naüng Một số điện, am thờ tư nhân vẫn thường tổ chức
hầu đồng quy mô cũng không kém như ở các điện
am thờ lớn. Mỗi giá hầu đồng tiêu tốn từ 10 - 30 triệu
đồng, phục vụ cho nhạc công, đồ vàng mã, cơm cộ, lễ
vật cúng tế, thuyền rồng đi vớt linh hồn các cô trầm
thủy. Tình trạng đồng bóng thường diễn ra nhiều
ngày đêm, hò hát nhảy múa inh ỏi đã gây nên không Miền Trung - Tây Nguyên ít hệ lụy cho xóm giềng, khu phố và gây ô nhiễm môi
trường khi đốt vàng mã, gây lãng phí tiền của và thời
gian công sức.
Theo quan niệm của người Việt, thờ cúng tổ tiên
xuất phát từ tình yêu tự nhiên của con người, kính
trọng tiền nhân, một phương diện thuộc phạm trù
đạo đức, không chỉ là sự nhắc nhở, là bổn phận của
con cháu đối với ông bà tổ tiên. Cho nên, việc cúng
đồ mã cho người quá cố trong sở nguyện của một
bộ phận chỉ là món quà để tỏ lòng thành kính của
người sống đối với người đã khuất, thực hiện trọn
vẹn nghĩa vụ, bổn phận của con cháu đối với việc thờ
cúng tổ tiên “Việc cúng đồ mã cũng không nằm ngoài
mục đích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của người chết
và đó cũng chỉ là món quà thể hiện lòng tôn kính của
người sống đối với người đã khuất”.19 Hoặc “Việc hiếu
[tang ma, giỗ chạp, lăng mộ…] là đại sự trong gia đình,
trở thành chuẩn đạo đức - văn hóa cao cả của cư dân
Huế. Người ta tin có cuộc sống ngoài cõi trần: Kiếp sau
và hương trầm, khói nhang sẽ phần nào nâng đỡ, tiễn
đưa linh hồn người chết ra đi được thanh thản; người
sống đốt vàng mã như biến thể của nhu cầu vật chất
thường nhật từ cõi trần sang thế giới bên kia”.20
Thế nhưng “…ở một phương diện nào đó, tục đốt
đồ mã cũng không hoàn toàn là việc làm đáng bị lên án
và cần phải chặn đứng ngay, nhưng do những tác động
từ nhiều nguyên nhân, phần đông dân chúng đã bị
cuốn theo trào lưu và đã biểu hiện những sự lạm dụng
thái quá trong việc cúng tế phẩm vật. Từ bộ đồ mã giản
đơn cổ truyền, có khi chỉ là những hình tranh, ảnh giấy,
qua thời gian đã biến đổi thành những loại đồ mã hiện
đại, cầu kỳ với giá rất cao, nên chi phí cho việc cúng đồ
mã ngày càng lớn, vượt khỏi khả năng kinh tế của đại
đa số các gia đình. Khi đó, cuộc sống cũng như tâm lý
con người bị lệ thuộc một cách quá đáng, trở thành một
vấn nạn của xã hội.
Vì vậy, từ một cổ tục, ít nhiều mang nét đẹp văn hóa
- đạo lý của người Việt, một số ít cá nhân vụ lợi đã biến
thành phong trào và làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng
vốn dĩ của nó”.21 Việc đốt vàng mã, áo binh, những
thứ không thật đã bị lên án và bãi bỏ từ đầu thế kỷ
XX. Như trong Điều khoản xã Lễ Khê cũng đã nhấn
mạnh sự kiện này “Nước ta từ nội thuộc trở về sau, tập
quán theo phương Bắc [Trung Quốc], phần nhiều dùng
các thứ không thật [như minh khí, tranh vẽ, hình tượng],
mang công mắc nợ, đến nỗi khánh kiệt cửa nhà. Nghĩ
rằng các lễ kỵ, lễ giỗ ở nhà riêng, trừ thân quyến và thông
gia tụ tập làm lễ bái ra, đến như đối với bạn bè và hàng xóm, không được dùng đủ trầu rượu, phẩm vật mời mọc
lại qua. Sau khi lễ xong, tùy nhà có hay không mà đón
tiếp, đãi đằng [khách khứa chỉ nên đi không là đủ]”.22
Sách Đại Nam thực lục từng chép, năm Mậu Ngọ Khải
Định thứ 3 [1918 - Tây lịch], nhân bàn chuyện tế lễ
vua có nói “...vả lại trước nay dân gian tế lễ nhiều người
dùng các loại giấy tiền vàng bạc, thật rất vô ích, phải
theo việc cải lương dần dần thay đổi để không ném tiền
suông vào việc vô dụng”.23 Thế mà hiện nay, nhiều địa
phương, dòng họ, gia tộc mỗi lần cúng tế, chi phí rất
tốn kém cho việc đốt vàng mã, có cả xe ô tô, xe máy,
nhà lầu, vàng thoi, bạc nén, đó là mê tín dị đoan.
Do nhu cầu tiêu thụ quá lớn và rất đa dạng nên
các cơ sở sản xuất đã nắm bắt được thị hiếu, tâm lý
của người tiêu dùng nên đồ vàng mã đã có những
cải tiến về mẫu mã, chủng loại. Bởi vậy, tuy giá cả đắt
nhưng người mua vẫn không ngần ngại bỏ ra một số
tiền lớn sắm đủ mọi vật dụng cần thiết bằng giấy cho
ông bà tổ tiên ở thế giới bên kia dùng trong năm mới,
và như vậy, với họ, là một hình thức báo hiếu “Bởi con
người có chung một nỗi sợ hãi từ phía thần linh luôn
cảm thấy bất an, cho nên, cúng bái là một phương thức
tâm linh, nhằm tránh bị thần linh quở phạt, để báo hiếu
và cũng cho người đời khỏi chê cười là bất hiếu. Với lối
tư duy đó, tục đốt đồ mã từ một hoạt động văn hóa tín
ngưỡng dần đổi sang hoạt động mê tín”.24
Để chấn chỉnh tình trạng đó, ngày 21.8.2014, UBND
tỉnh Thừa Thiên Huế đã ra Quyết định số 56/2014/
QĐ-UBND, về việc ban hành Quy định một số vấn
đề trong việc thực hiện nếp sống văn minh đô thị và
nông thôn trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn
2014 - 2015, định hướng đến năm 2020, trong đó có
quy định về hiện tượng vàng mã như sau: Vận động
cán bộ và người dân thực hiện tang lễ không quá 03
ngày; hạn chế rải vàng mã trên đường đưa tang. Quy
định thí điểm những tuyến đường không rải vàng mã
khi đưa tang, trên địa bàn thị xã Hương Thủy gồm
các đường Nguyễn Tất Thành, Sóng Hồng, Tân Trào,
Nguyễn Khoa Văn. Trên địa bàn thị xã Hương Trà gồm
các đường Thống Nhất, Lý Bôn, Lê Hoàn, Trần Quốc
Tuấn. Trên địa bàn thành phố Huế gồm các đường Lý
Thường Kiệt, Lê Lợi, Hùng Vương [từ cầu Trường Tiền
đến Ngã 4 Bà Triệu - Nguyễn Huệ - Hùng Vương], Võ
Thị Sáu, Phạm Ngũ Lão, Đống Đa, Chu Văn An.
Quy định thì như vậy, nhưng có chấp hành tốt
quy định đó hay không thì phụ thuộc vào ý thức của
người dân, cán bộ địa phương, chứ hiện tại vẫn chưa
thấy ai đứng ra kiểm tra, theo dõi ở những con đường Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
Ñaø Naüng 23 Miền Trung - Tây Nguyên nói trên và tình trạng rải và đốt vàng mã vẫn còn bay
tung tóe sau những chiếc xe đưa tang, sau những
đêm rằm, và các dịp lễ cúng bái khác.
III. Kết luận Tóm lại, bên cạnh những tục lệ tốt đẹp trong các
nghi lễ truyền thống của cư dân Thừa Thiên Huế - trừ
lễ gia quan đã không còn - thì việc hôn, tang, tế ở
trong các gia đình, dòng họ tại Thừa Thiên Huế vẫn
còn một số hạn chế như đã trình bày ở trên. Hi vọng
rằng, với đời sống ngày càng văn minh, tiến bộ thì
những hủ tục hà khắc, những tập quán lạc hậu đã
khiến không biết bao nhiêu người rơi nước mắt, gây
xa hoa, lãng phí, ô nhiễm môi trường… sẽ được xóa
bỏ trong nay mai. Nhưng để làm được điều này cần có
sự đồng bộ từ trong gia đình, dòng họ đến bên ngoài
là xã hội và cộng đồng thì sẽ loại trừ được những mặt
hạn chế không đáng có đã từng diễn ra.
T.N.K.P. Phaùt trieån Đỗ Bang, Trần Đình Hằng, “Đặc điểm đạo thờ cúng
tổ tiên ở vùng Huế”, Huế Xưa và Nay, Số 47 [9 - 10]/2001,
44, 40.
1, 20 Trần Nguyễn Khánh Phong, “Nghiên cứu phong tục
tập quán có liên quan đến phụ nữ, trẻ em và gia đình của
người Tà Ôi”, trích in trong sách: Lê Thị Nhâm Tuyết: Những
hủ tục bất công đối với người phụ nữ Việt Nam, [Hà Nội:
Thanh Niên, 2010], 71.
2 Cùng với nghi lễ thờ cúng, thì nghi lễ tang ma,
cưới hỏi nên tổ chức đơn giản hơn, văn minh hơn
vì mỗi lần nhà có việc hiếu hỉ, người ta xem như có
dịp dự một lễ hội lớn, tổ chức nhiêu khê, cùng nhau
ăn uống linh đình, say xỉn, xích mích dẫn đến xô xát
thậm chí ẩu đả. Lại có những trường hợp nhìn kẻ sau
cố làm to hơn kẻ trước vì sự sĩ diện hão huyền, đến
nỗi khuynh gia bại sản phải suốt đời cong lưng trả
nợ cũng vì việc đó. Vậy thì xin mượn những lời của
cụ Phan Bội Châu, khi cụ phê phán những hủ tục lạc
hậu trong đời sống của chúng ta cách đây hơn thế
kỷ mà vẫn còn nguyên giá trị “Thờ cúng tổ tiên cha
mẹ để tỏ ra không dám quên ơn người xưa. Nhưng chỉ
nên trai giới để tỏ lòng kính, ngồi yên tưởng nhớ để tỏ
lòng thương. Như vậy đã là đủ rồi. Chưa một ai chết rồi
mà còn có thể ăn thịt, uống rượu được. Nếu như tổ tiên
có thể ăn uống được, mà suốt trong một năm chỉ được
cúng trong một ngày giỗ thì chắc là chết đói mất, kẻ làm
con đời nào lại nhẫn tâm làm như vậy?”. Còn về khoản
tế thần với cỗ bàn ê hề thì ông nói: “Nếu cho là không
có thần thì nỡ nào vứt một số tiền hữu dụng để cúng tế
những cái mô đất, tượng gỗ vô ích như thế? Nếu cho là
có thần thì thần cũng chỉ là một hơi hương phảng phất,
đời nào lại đi ăn nhờ các thức ăn, hơi khói lửa của nhân
gian để sống? Nếu không có thần thì ta không cúng tế
cũng được. Nếu có thần thì chỉ nên cúng tế với hình thức
ăn chay mà thôi. Còn ăn uống no say, giết hại sinh vật,
mà bảo thế là kính thần thì thật vô lý. Lấy việc đó để mà
kính thần, thần nhất định không ban phúc”.25 24 CHÚ THÍCH Kinh teá - Xaõ hoäi
Ñaø Naüng Huỳnh Công Bá, Hôn nhân và gia đình trong pháp
luật triều Nguyễn, [Huế: Thuận Hóa, 2005], 243, 236, 50, 51
3,4,5,6,7 Trần Đại Vinh, “Sự phê phán lễ tục của Phan Bội Châu
cách đây hơn trăm năm”, Nghiên cứu Văn hóa dân gian Thừa
Thiên Huế, tháng 12.2015, 13.
8 Xin xem: Trần Nguyễn Khánh Phong, “Tục Tăp aboh
của người Tà Ôi”, Dân tộc và Thời đại, Số 84. 2005.
9 Phan Thị Đào, “Tục cưới của người Pa Cô, nỗi ám ảnh
của người nghèo”, Nghiên cứu Văn hóa dân gian Thừa Thiên
Huế, tháng 12.1995.
10 Trần Nguyễn Khánh Phong, “Tình trạng tảo hôn và
hôn nhân cận huyết thống qua trường hợp huyện A Lưới,
tỉnh Thừa Thiên Huế”. Hội nghị Thông báo Dân tộc học 2014,
Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
Hà Nội, ngày 12.12.2014.
11 Lê Nguyễn Lưu, “Hương ước - Khoán định của làng
xã xứ Huế ngày xưa”, Huế Xưa và Nay, Số 67 [1 - 2]/2005, 94,
95,92.
12,17,22 Trần Đại Vinh, “Sự phê phán lễ tục của Phan Bội Châu
cách đây hơn trăm năm”, Nghiên cứu Văn hóa dân gian Thừa
Thiên Huế, tháng 12.2015, 14.
13 Ngọc Trang, “Đặc điểm truyền thống của gia đình xứ
Huế”. Huế Xưa và Nay, Số 46 [6 - 7]/2001, 48.
14 Bùi Thị Tân, “Mấy vấn đề về làng xã truyền thống ở
Thừa Thiên Huế”, Huế Xưa và Nay, Số 5 [41]/2000, 86, 87.
15 Nguyễn Văn Mạnh, “Tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên của
người Việt - một nét đẹp của văn hóa dân tộc”, Huế Xưa và
Nay, số 55[1 - 2]/2003, 83.
16 Triều Nguyên, “Một số hình thức diễn xướng dân gian
trong lễ trai đàn ở Thừa Thiên Huế”, Huế Xưa và Nay, số 64
[7 - 8]/2004, 64, 65, 66.
17 19,21,24
Tôn Nữ Khánh Trang, “Tục đốt vàng mã”, Huế Xưa
và Nay, Số 43[1 - 2]/2001, 63, 65, 64. Cao Tự Thanh dịch: Đại Nam thực lục chính biên, đệ
thất kỷ. [Thành phố Hồ Chí Minh: Văn hóa - Văn nghệ, Thành
phố Hồ Chí Minh, 2012], 212.
23 Trần Đại Vinh, “Sự phê phán lễ tục của Phan Bội Châu
cách đây hơn trăm năm”, Nghiên cứu Văn hóa dân gian Thừa
Thiên Huế, tháng 12.2015, 14, 15.
25 This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan