Quê hương của cuộc khởi nghĩa lam sơn ở đâu
ĐINH VĂN VIỄN Ninh Bình là vùng đất cổ, có vị trí trọng yếu, là “cổ họng Bắc - Nam”, một địa bàn có thế hiểm yếu về quân sự, một vùng đất mang đầy dấu tích lịch sử chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước từ thời Hai Bà Trưng đến ngày nay. Dưới thời thuộc Minh, nước ta bị chia thành 15 phủ, gồm 36 châu, 181 huyện, ngoài ra còn 5 châu trực thuộc quận. Vùng đất Ninh Bình thời thuộc Minh có 2 châu là Trường An và Ninh Hóa. Theo Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng thì châu Trường An gồm 3 huyện là An Ninh (sau là Yên Khánh), Yên Mô, Lê Bình (sau là Gia Viễn); châu Ninh Hóa có 3 huyện là Xích Thổ, Xa Lai, Côi (nay đa phần thuộc Hòa Bình)(1). Còn Đại Nam nhất thống chí chép: “Phủ Kiến Bình lãnh một châu là Trường Yên và 6 huyện là Ý Yên, Đại Loan, Yên Bản, Vọng Doanh, Yên Ninh và Lê Bình” (tức là bao gồm cả một số huyện của Nam Định ngày nay)” (2). Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư chép: “Năm Vĩnh Lạc thứ 5 đời Minh (1407), châu Trường Yên nhập vào phủ Kiến Bình gồm 4 huyện Yên Mô, Uy Viễn, Yên Ninh và Lê Bình. Năm Vĩnh Lạc thứ 6 (1408), nhập Uy Viễn vào châu Trường Yên. Năm 1415, nhập huyện Yên Mô vào huyện Yên Ninh. Năm 1419, nhập huyện Lê Bình vào châu Trường Yên” (3).
Nhiều người Ninh Bình khi biết Lê Lợi dấy quân đã đi theo khởi nghĩa. Tiêu biểu là Trịnh Lỗi, Mai Tuyên, Trần Dinh, Trần Kỳ. Ngay từ đầu năm 1418, khi khởi nghĩa Lam Sơn mới bùng nổ, Trịnh Lỗi đã dẫn người vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa. Suốt tiến trình khởi nghĩa Trịnh Lỗi là vị tướng có nhiều công lao, được Lê Lợi tin tưởng, giao cho cầm quân đánh nhiều trận lớn, góp phần vào chiến thắng chung của nghĩa quân Lam Sơn. Trịnh Lỗi quê ở thôn Cự Lại, xã Sơn Dược, huyện Gia Viễn (nay là thôn Đồng Dược, xã Sơn Thành, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) là một trong 51 tướng đầu tiên của cả nước đứng dưới cờ nghĩa quân Lam Sơn. Lê Quý Đôn chép về sự kiện này: “Ngày mồng 2 là ngày Canh Thân, tháng giêng năm Mậu Tuất, niên hiệu Vĩnh Lạc triều Minh thứ 16, Hoàng đế (Lê Lợi) dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định vương, phong chức Đại tướng và Thừa tướng cho Lê Khang, Lê Lễ,… Trịnh Lỗi, Trịnh Hối… chia nhau đốc suất quân Thiết Đột ra đối địch với quân Minh” (5). Trịnh Lỗi đã chiêu mộ binh sĩ, dẫn quân vào đất Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa. Từ khi về dưới trướng của Lê Lợi, Trịnh Lỗi tham gia nhiều trận đánh, trước sau chống giữ, trải qua nhiều gian lao nguy hiểm, mấy lần phong lên chức Thiếu úy(6).
Hơn nữa đây là vùng rừng núi hiểm trở. Thần tích xã Quỳnh Lưu (Nho Quan) nói biết khi Lê Lợi rút quân về huyện Khôi thì nhân dân ở vùng này đã giúp đỡ nghĩa quân đánh giặc phá vây bảo toàn lực lượng(9). Huyện Khôi cách Quan Da (nay là huyện Quan Hoá tỉnh Thanh Hoá) – nơi xuất phát của nghĩa quân lui khoảng 60 km. Tại huyện Khôi, với sự giúp sức của nhân dân địa phương, nghĩa quân đã anh dũng chiến đấu, “chém được tướng Minh là Phùng Quý và hơn nghìn thủ cấp giặc, bắt được trăm con ngựa. Mã Kỳ, Trần Chính chỉ thoát được thân mình chạy về Đông Quan” (10).
Trong quá trình 10 năm đánh giặc Minh, Mai Tuyên, Trần Dinh, Trần Kỳ có đóng góp to lớn, cầm quân, giết giặc. Trong một lần Lê Lợi bị quân Minh bao vây, Trần Kỳ đã anh dũng phá vòng vây, cứu Lê Lợi vượt sông chạy thoát về Lam Sơn. Năm 1428, đất nước thanh bình, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, ban thưởng cho ba quân. Mai Tuyên được phong là Huyện Doãn huyện Quảng Đức (phủ Hoài Đức, thành Thăng Long). Trần Kỳ được phong là Tiến quốc đại phu. Trần Dĩnh được phong là Hùng Dũng đại tướng quân kiêm Trưởng thị vệ coi giữ kinh thành. Khi xảy ra loạn Lê Nghi Dân, ba ông có công cùng Nguyễn Xí dẹp loạn, đưa Lê Tư Thành lên ngôi(20). Về già cả ba ông về quê tại xã Quỳnh Lưu sinh sống. Khi các ông mất, triều đình ban cho đất thờ tự, lệnh cho dân lập đền thờ cúng. Dân Quỳnh Lưu tôn thờ các ông là những thành hoàng làng che chở cho dân. Trần Kỳ được tôn làm thành hoàng, được thờ tại đình làng Đồi(21). Trần Dĩnh được tôn làm thành hoàng, được thờ tại đình làng Sải(22). Mai Tuyên được tôn làm thành hoàng, được thờ tại đình làng Quỳnh(23). Cả ba làng này hiện nay đều thuộc xã Quỳnh Lưu, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Hiện nay đình làng Sải còn lưu giữ được 3 đạo sắc(24) của các triều vua ghi nhận công lao của tướng quân Trần Dĩnh.
Sắc phong ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924) ghi: Sắc cho thôn Ngọc Lễ xã Quỳnh Lưu, phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, từ trước đến nay phụng thờ nguyên tặng Linh phù Đoan túc Dực bảo Trung hưng Đương cảnh Cương nghị Uy dũng Hùng tráng. Vị thần bảo vệ nước, che chở cho dân đã từng linh ứng đã được ban sắc phong chuẩn cho phụng thờ. Bèn nay gặp đúng dịp đại khánh trẫm tròn 40 tuổi ban cho chiếu đàm ân, nghi lễ tốt đẹp, gia tặng thêm là Quang Ý trung đẳng thần. Đặc biệt chuẩn cho phụng thờ như cũ để tỏ rõ ân điển và nghi lễ tế tự của nước nhà. Ngoài những tướng lĩnh nổi bật, còn lưu danh thì nhân dân Ninh Bình đã ủng hộ nghĩa quân Lam Sơn dưới nhiều hình thức khác nhau. “Cuối năm 1423 được nhân dân Yên Lạc, Thiên Quan (tức Nho Quan ngày nay) giúp đỡ, chi viện, nghĩa quân Lam Sơn trong một trận đánh đã giết được 1100 tên địch và 100 ngựa, nhiều tướng nhà Minh bị bắt” (25).
Thấy Lê Lợi ngẩng đầu lên, người nông dân quát: Nhổ mạ đi, nghe ngóng gì? Nhổ thế thì cả ngày không kịp cho người ta cấy! Tướng giặc Minh thấy thế, không nghi ngờ, đốc quân nhằm phía núi Sậu đuổi gấp. Thế là Lê Lợi thoát nạn. Quân Minh đi rồi, Lê Lợi xưng danh. Người nông dân sụp lạy thưa: Thần là Nguyễn Chánh Dư, quê làng Tây Yên thôn, Đồng Phú thất xã (nay thuộc xã Khánh Thượng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) đã nghe tiếng nghĩa quân nhưng cha mẹ còn yếu nên chưa vào theo được. Nay được gặp Chúa thượng thì quả là điềm trời, xin cho được tòng chinh phò tá. Lê Lợi cả mừng, phong cho ông làm tướng rồi cho đi theo đánh giặc. Trong suốt quá trình đánh giặc Minh, Nguyễn Chánh Dư luôn là đi đầu giết giặc, được phong là Thượng tướng quân. Khi Nguyễn Chánh Dư mất, Lê Thái Tổ ban sắc phong là Dực vận Lê triều, Phụ quốc Đại tán tôn thần Thượng tướng quân, Phù Đông hầu” (26).
|