Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4

SKKN: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 4

Giáo dục Việt Nam đã chứng kiến sự bứt phá ngoạn. Lộ trình đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp, thay sách giáo khoa như là một bước đột phá sống. Mời các bạn cùng tham khảo bài SKKN Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4 này nhé. » Xem thêm

» Thu gọn
Chủ đề:
  • Sáng kiến kinh nghiệm môn Toán
  • Học tốt môn toán lớp 4
  • Sáng kiến kinh nghiệm lớp 4
  • Sáng kiến giảng dạy
  • Kinh nghiệm giảng dạy
  • Phương pháp giảng dạy
Download
Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4
  2. 1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến a. Sự cần thiết [Lí do nghiên cứu] Giáo dục Việt Nam trong thập niên đầu tiên của thế kỉ 21 chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục từ nội tại và cả sự tác động từ phía xã hội. Lộ trình đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp, thay sách giáo khoa như là một bước đột phá sống còn của giáo dục nhằm nâng cấp sản phẩm bắt kịp xu thế toàn cầu hóa của thời đại và bước đầu đã cho thấy những kết quả rất đáng ghi nhận. Trong đó, vai trò của thầy, cô giáo được xác định như là yếu tố mấu chốt để giải quyết kịp thời những bức bách, mâu thuẫn đang hiện hữu trong nền giáo dục chúng ta. Vì vậy, sự trăn trở cho mỗi giờ dạy, mỗi môn học là điều mà mỗi giáo viên như chúng tôi không thể không quan tâm. Qua nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu từ các phương tiện truyền thông và thông tin đại chúng và đặc biệt từ thực tế việc dạy, việc học tại Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc, bản thân tôi nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề không thể không trăn trở. Cho dù lộ trình đổi mới phương pháp đã có một thời gian dài thực hiện và những ưu thế của nó là điều không thể phủ nhận, song chưa có ai dám khẳng đinh rằng ở mọi nhà trường đã thực hiện một cách hoàn hảo nhất các tiêu chí của dạy học hiện đại. Một bộ phận không ít giáo viên vẫn tỏ ra chần chừ, không thật mặn mà với phương pháp mới và thiếu sự quyết liệt trong quá trình thực hiện đổi mới. Một bộ phận học sinh tiếp cận với phương pháp mới một cách hờ hửng, thiếu sẳn sàng và thiếu tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong xử lí thông tin còn hạn chế.Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nơi tôi đang công tác cũng
  3. không thể tránh khỏi những khiếm khuyết chung của nền giáo dục nước nhà. Trước thực tế đó, bản thân đã dành một thời gian đáng kể đầu tư cho việc đổi mới phương pháp, đặc biệt là đối với môn toán, sau nhiều lần thử nghiệm, bước đầu chúng tôi đã tìm được một số biện pháp hữu hiệu giúp học sinh tiếp cận nhanh với phương pháp dạy học hiện đại.Chính vì vậy tôi đã đi sâu vào tìm hiểu “Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4 ”, để giúp các em nắm vững các kiến thức trong môn học này. 2. Mục đích của việc thực hiện sáng kiến Từ thực tiễn dạy học tiểu học nói chung và thực tiễn dạy học ở Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nói riêng. Thu thập, tập hợp xử lí thông tin, tìm ra những giải pháp cần thiết để hoàn thiện dần phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học. 3. Phạm vi triển khai thực hiện : Với sáng kiến “ Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4”. Tôi đã triển khai và thực hiện trong toàn khối 4. Ngoài ra, sáng kiến còn có thể áp dụng tại trường tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc. 4.Mô tả sáng kiến: 4.1 Cơ sở lý luận
  4. Môn toán ở tiểu học rất quan trọng với các em học sinh không chỉ biết cách tự học mà còn phát triển ngôn ngữ[ nói, viết] để diển đạt chính xác, ngắn gọn và đầy đủ các thông tin, để giao tiếp khi cần thiết…mà còn giúp các em hoạt động thực hành vận dụng tăng chất liệu thực tế trong nội dung, tiếp tục phát huy để phát triển năng lực của học sinh. 4.2 THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP a. Thuận lợi: - Bản thân nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở bậc tiểu học nên kinh nghiệm thực tế tích lũy được tương đối nhiều. - Hội đồng sư phạm trường nhiều đồng chí có kinh nghiệm, nhiều năm giảng dạy lại luôn có quyết tâm nhất quán trong đổi mới phương pháp nên bản thân học hỏi và rút kinh nghiệm được nhiều vấn đề hữu ích. - Học sinh phần lớn chăm ngoan và rất chịu khó, lại tiếp cận khá nhanh với phương pháp mới nên việc thử nghiệm đề tài luôn nhận được sự ủng hộ từ phía các em. b.. Khó khăn: - Năng lực và thói quen nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên cho dù đã rất cố gắng, kết quả thu được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
  5. - Tài liệu tham khảo thiếu, thời gian và điều kiện nghiên cứu hạn hẹp ảnh hưởng khá nhiều đến việc sử dụng các giải pháp mới. - Một bộ phận học sinh chây lười trong học tập, gia đình lại không quan tâm nên việc tự học của các em cho dù đã được giáo viên hướng dẫn rất kĩ nhưng chưa thể đáp ứng được yêu cầu đề ra. - Đối tượng học sinh trong mỗi lớp không đồng đều, nhiều em quá yếu. Việc chú ý đối tượng đã ảnh hưởng nhiều đến quá trình nghiên cứu. - Phương tiện dạy học vẫn chưa thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thực tiễn dạy học hiện đại. c.Số liệu thống kê Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán lớp 4A2 đầu năm học 2012 – 2013 như sau: Tổng số Điểm giỏi Điểm khá Điểm Trung Điểm yếu học sinh [ 9 - 10 ] [7-8] bình [ 5 - 6 ] [ Dưới 5 ] TS % TS % TS % TS % 35 3 8.5 7 20. 20 57. 5 14. Từ kết quả khảo sát cho thấy , việc nắm bắt kiến thức môn toán của các em còn chậm. vì vậy, tôi nghiên cứu “ Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4”.
  6. 4.3 Các biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4 * Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới. Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò. Ví dụ trong bài: “Phép nhân phân số”. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và cho học sinh là một vấn đề mới. nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo. Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống câu hỏi sau: Dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật bằng đồ dùng trực quan hãy cho biết x = ? [HS nêu: x = ] - Quan sát hình và cho biết 8 là gì của hình chữ nhật mà ta phải tính diện tích? [8 là tổng số ô của hình chữ nhật.] * HS giải thích: Chiều dài HCN bằng 4 ô và được xếp thành 2 hàng nên tính được tổng số ô bằng cách lấy 4 x 2 = 8. - 4 và 2 là gì của các phân số trong phép nhân x ? [ 4 và 2 là tử số của các phân số trong phép nhân x ]. - Để tính số ô vuông có trong hình vuông diện tích 1 m2 ta làm thế nào? [ lấy 5 x 3 = 15
  7. [ô]]. - Vậy 5 và 3 là gì của các phân số trong phép nhân x ? [ 5 và 3 là mẫu số của các phân số trong phép nhân x ]. - Như vậy, khi muốn nhân hai phân số với nhau ta làm thế nào? [ ... ta lấy tử số nhân tử số, mẫu số nhân mẫu số]. - Giáo viên nêu công thức tổng quát: = và yêu cầu học sinh nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố. *.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học. Ví dụ trong bài: “ Phép cộng phân số ” [ tiếp theo ]. * Bài toán: Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy băng giấy, Bạn An lấy băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? [ Toán 4 trang 127 ]. Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh Hướng dẫn giải như sau: Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện phép tính gì? [ phép cộng: + ]. Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình [học sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số].
  8. Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số [Quy đồng mẫu số] thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số. *. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh. Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh. Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập các số liệu điều tra thống kê. Ví dụ bài: Diện tích hình thoi. - Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m, BD = n [hình a] - Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo, học sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau: * Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC [hình b]. Ta có: Diện tích[ hình thoi ABCD] = diện tích [ hình chữ nhật AMNC ] = m * Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD [hình c].
  9. Ta có: Diện tích [ hình thoi ABCD ] = diện tích [hình chữ nhật MNBD] [ Hình a ] [ Hình b ] [ Hình c ] Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo và tinh thần hợp tác của học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo nhóm nhỏ để tổ chức hoạt động dạy học. *. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán là cơ sở giải loại toán sắp học. Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán: Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “ Cô có 30 bút chì, chia thành 3 phần bắng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn nam được mấy bút chì?”. Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và Hùng có tất cà 15.000 đồng, Nam có nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu tiền?”. - Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập: +Mỗi học sinh lấy 15 que tính [tượng trưng cho 15.000 đồng ]. Chia bảng con làm 2 phần, phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của Hùng. +Nam nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam trước rồi chia đôi
  10. phần còn lại:! Học sinh lấy 5.000đồng cho nam trước [đặt 5 que tính vào phần lớn]. - Còn mấy nghìn đồng ? [15.000 – 5.000 = 10.000 đồng ]. - Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? [ 10.000 : 2 = 5.000 đồng ]. - Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng [ 5 que tính ] - Vậy Hùng được mấy nghìn ? [ 5.000 đồng ]. - Còn Nam được mấy nghìn ? [ 5.000 +5.000 = 10.000 đồng ]. - Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải. *.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh. Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học. Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”. Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và học sinh cùng thực hành trên băng giấy – Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều ngang: + Tô màu vào băng giấy + Tô màu vào băng giấy Nhìn vào băng giấy HS dễ nêu được hai lần đã tô màu được băng giấy. Học sinh nêu: + = .
  11. Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số. *. Khi dạy thực hành luyện tập GV cần lưu ý giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình, bằng cách: – Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài nào, kể cả bài dễ, bài khó. - Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang bài tiếp theo. - Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác: - Ví dụ: Khi dạy bài : “ Tính bằng cách thuận tiện nhất ” - + + = +[ + ]= + = Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện. Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là: Tính chất giao hoán của phép nhân. Tính chất kết hợp của phép nhân. Tính chất nhân một số với một tổng [ Hoặc một tổng nhân với một số ]. Tính chất nhân một hiệu với một số [ Hoặc một số nhân với một hiệu ]. Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận dụng tính chất
  12. này, khi nào vận dụng tính chất kia: Ví dụ: 2 10 + 10 5 = 10 [ 2 + 5 ] = 10 10 = 20 [ Áp dụng tính chất nhân một số với một tổng ]. 5. Kết quả và hiệu quả mang lại: Từ việc đổi mới các phương pháp dạy học như trên tôi thấy chất lượng học sinh dần dần được nâng cao. Học sinh đã tự giác, hứng thú, chủ động và tích cực tham gia các hoạt động dạy học, không rụt rè, tự ti như trước nữa. Chất lượng học sinh ngày một tiến bộ do trình độ nhận thức của các em ngày càng được nâng cao, tích cực phát biểu xây dựng bài hứng thú và ham thích học toán, làm bài, học bài đầy đủ . học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau: Khảo sát chất lượng đầu năm 2012-2013: Điểm Tổng số Điểm giỏi Điểm khá Điểm yếu Trung bình học sinh [ 9 - 10 ] [7-8] [ Dưới 5 ] [5-6] TS % TS % TS % TS % 30 3 10 7 23.3 15 50 5 16.6 Kết quả kiểm tra cuối năm học 2012 - 2013:
  13. Điểm Tổng số Điểm giỏi Điểm khá Điểm yếu Trung bình học sinh [ 9 - 10 ] [7-8] [ Dưới 5 ] [5-6] TS % TS % TS % TS % 30 10 33.3 13 43.3 7 23.3 Qua bảng thống kê chất lượng trên phần nào cho thấy số lượng học sinh khá giỏi tăng lên giảm được học sinh yếu, số học sinh ham thích học môn toán cũng tăng lên so với đầu năm học. Nếu chúng ta vận dụng linh hoạt việc đổi mới phương pháp dạy học thì chắc chắn chất lượng cuối năm sẽ tăng cao. 6. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến: -Trước hết phải nói đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy tích cực và nhiệt tình trong đổi mới PPDH, góp phần chứng minh ưu thế và hiệu quả việc giảng dạy môn toán. - Muốn nâng cao chất lượng dạy học toán ở tiểu học chúng ta cần lưu ý: + Linh hoạt trong đổi mới PPDH. + Tạo cho học sinh hứng thú và ham thích học môn toán. + Nắm được từng đối tượng học sinh, tạo được nhu cầu học tập trong các em. + Tổ chức hướng dẫn các phương pháp học tập chu đáo[ học nhóm, học tổ,…] + Công tác chuẩn bị từng bài dạy thật kĩ phù hợp từng nội dung, soạn giảng chu đáo gọn nhẹ. + Dụng cụ, phương tiện dạy- học phải đầy đủ.
  14. + Tổ chức nhiều hình thức học tập cho có tính hấp dẫn. + Thường xuyên kiểm tra, củng cố hệ thống kiến thức. + Phát huy tính tích cực, tính tự học, tìm tòi, tự phát hiện cái mới, cái hay,… để tự chiếm lĩnh tri thức. 7. Kiến nghị, đề xuất: *Đối với giáo viên: - Tất cả các giáo viên giảng dạy ở tiểu học phải sử dụng các PPDH linh hoạt, phù hợp với lớp, với từng học sinh. - Nhiệt tình trong giảng dạy, đảm bảo đầy đủ ĐDDH, thiết bị dạy học. - Tổ chuyên môn cần thường xuyên tổ chức hội thảo các chuyên đề về đổi mới phương pháp, đố vui để học, thi học tốt môn toán. - Có kế hoạch bồi dưỡng và phụ đạo học sinh về môn toán. *Đối với nhà trường và các cấp: - Tăng cường tài liệu nghiên cứu, sách tham khảo cho giáo viên. - Bổ sung đồ dùng dạy học đủ cho các lớp sử dụng. *. PHẦN KẾT LUẬN
  15. Dạy toán, học toán ở trường Tiểu học là một phạm trù rộng lớn. Nó chứa đựng một chuỗi hệ thống các quan điểm, phương pháp và kĩ thuật dạy học. Vì thế, bản thân luôn xác định đổi mới phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học không hề đơn giản và cũng không thể thực hiện nhanh chóng trong ngày một ngày hai. Vì thế, khi nghiên cứu đề tai này, thực sự chúng tôi không có tham vọng tạo chuyển biến có tính chất đột phá trong việc dạy, việc học môn toán ở trường tiểu học mà chỉ hi vọng góp một phần nhỏ tháo gỡ một vài khía cạnh để góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán tại trường tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nói riêng và bậc tiểu học nói chung. Tuy nhiên, do ràng buộc hạn chế về kinh nghiệm, sự thiếu hụt về mặt thời gian và tầm nhìn. Chúng tôi biết chắc đề tài vẫn còn chứa đựng quá nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, rất mong được quan tâm tham gia bàn bạc của quý cấp quản lí và các đồng nghiệp. Trên đây là một số kinh nghiệm tôi nhận thấy, mong quí đồng nghiệp góp ý, bổ sung thêm cho tốt hơn, tôi chân thành cảm ơn. Trần Kim Cương Giáo viên Trường TH 1 Khánh Bình Tây Bắc, TVT, CM.

Sáng kiến kinh nghiệm
Phương pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán lớp 4

A. PHẦN MỞ ĐẦU

I/ Bối cảnh

Để nâng cao chất lượng giáo dục, ngành giáo dục không ngừng đổi mới: đổi mới quản lí, đổi mới phương pháp, giảm tải …v v. Từ đó chất lượng giáo dục ngày càng cao. Tuy nhiên vẫn chưa được như ý muốn, hiện nay vẫn còn một số vùng còn học sinh yếu khá cao. Trong đó HS yếu toán chiếm khá cao đặc biệt là khối 4.

Trướng A Tân Phú:

Năm 2008-2009Năm 2009-2010
11,43 %6,12 %

II/ Lí do chọn đề tài.

Toán học ở tiểu học bước đầu hình thành khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa,kích thích trí tưởng tượng của học sinh. Môn toán là chìa khóa mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết cho người lao động thời hiện đại, nó góp phần giáo dục con người phát triển toàn diện hơn.

Môn toán có vai trò rất quan trọng. Toán học góp phần hình thành phát triển nhân cách của học sinh. Cung cấp tri thức ban đầu về số học, các số tự nhiên các phân số, các đại lượng cơ bản, một số yếu tố hình học đơn giản, ứng dụng vào đời sống hằng ngày.

Nếu học sinh yếu toán cũng là đồng nghĩa với việc các em phát triển chưa trọn vẹn nó ảnh hưởng đến tương lai của chính bản thân các em và cả xã hội. Ngay từ cấp tiểu học chúng ta cần tạo nền tảng vững chắc cho các em, bằng cách là không để cho học sinh yếu toán, đây là vấn đề mà mỗi Giáo viên chúng ta cần phải quan tâm.

III/ Phạm vi nghiên cứu

Chương trình toán khối 4.

Số tự nhiên, các phép tính với số tự nhiên: cộng, trừ, nhân, chia. Các đại lượng: Bảng đơn vị đo khối lượng, đo diện tích, đo độ dài. Các dạng toán có lời văn: Tìm trung bình cộng, tìm hai số khi biết tổng hiệu, tìm hai số khi biết tổng tỉ của hai số đó, tìm hai số khi biết hiệu tỉ của hai số đó. Phân số các phép tính với phân số.

Bài nghiên cứu hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm của các tiết dạy trên lớp qua các năm dạy khối 4.

B. PHẦN NỘI DUNG

I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ

Nếu ví chương trình toán tiểu học như một bực thang thì chương trình toán khối 4 là một bậc thang hơi cao so với các bậc thang khác như từ 1 lên 2 từ 2 lên 3. Tuy nhiên Khối 5 học sinh được ôn lại kiến thức của khối 4 nhiều hơn học kiến thức mới, và học sinh nắm vững kiến thức hơn ở lớp 5 để chuẩn bị hành trang cho cấp học tiếp theo .

Ở lớp 4 các em được học thêm các môn học mới như lịch sử địa lí, số lượng tiết học tăng lên khá nhiều tăng thêm áp lực cho các em .

Còn một số giáo viên chưa tích cực trong giảng dạy ,chưa thật sự quan tâm nhiều đến học sinh yếu? Hs chưa nắm vững kiến thức toán ở khối 3 : chưa thuộc bản nhân chia , thuộc nhưng thuộc theo kiểu học vẹt ,thuộc nhưng chậm .

Ví dụ ; 6 x 8 = ? Hs phải đọc cả bảng nhân 6 rồi mới trả lời được , chia cũng vậy 24 : 3 hs phải đọc cả bảng chia 3 rồi mới tìm ra kết quả . Điều này làm mất thời gian rất nhiều trong tiết dạy dẫn đến chất lượng không cao .

Đa phần học sinh yếu nhiều ở phép tính chia đây là phép tính khó nhất trong các phép tính, hs không biết cách ước lượng

Ví dụ 4532 : 26 = ?

Qua học kì II hs làm quen với phân số , qui đồng phân số , các phép tính về phân số: cộng, trừ, nhân, chia chắc chắn không ít hs vướng vào chỗ này .

Những chỗ mà học sinh thường sai là lẫn lộn giữa cộng và nhân

..................

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

skkn một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 hứng thú học toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [621.07 KB, 17 trang ]


Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
PHỊNG GD&ĐT HUYỆN ĐAM RƠNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐẠ M’RƠNG

GIẢI PHÁP HỮU ÍCH
Tên giải pháp: Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4
hứng thú học toán
Người thực hiện : Trần Thị Ngân
GVCN lớp : 4B
Năm học : 2012 - 2013
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rơng
1
Tỉnh: Lâm Đồng




Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
LỜI CẢM ƠN
- Để hoàn thành giải pháp này, tôi xin chân thành cảm ơn:
- Phòng Giáo dục và Đào tạo Đam Rông – Lâm Đồng. Trường
Tiểu học Đạ M’Rông đã phát động Hội thi Giáo viên giỏi nhằm
khuyến khích chúng tôi những thầy, cô giáo nghiên cứu chuyên
môn, tích lũy kinh nghiệm ngày càng làm giàu vốn sống, kinh
nghiệm nghề nghiệp để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu
quả trong giảng dạy và giáo dục.
- Ban giám hiệu, chuyên môn Trường Tiểu học Đạ M’Rông đã
nhiệt tình hướng dẫn, góp ý giúp tôi hòan thiện giải pháp hữu ích
này.
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông


2
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
I. Lời cảm ơn 1
II. Cầu trúc đề tài 2
A. Lời nói đầu 3
1. Lí do chọn đề tài 4
2. Phạm vi đề tài 4
B. Thực trạng của nội dung đề tài cần nghiên cứu 5
1. Cơ sở lí luận 5
2. Thực trạng 6
C. Một số giải pháp 7
1. Đối với những học sinh học yếu toán 5
2. Đối với những học sinh hổng kiến thức 6
3. Đối với những học sinh chưa chú ý học 10
4. Đối với những học sinh khá, giỏi 12
5. Sử dụng đồ dùng dạy học để kích thích hứng thú cho học sinh 14
D. Kết quả 14
E. Kết luận 15
III.Tài liệu tham khảo 16
A] LỜI NÓI ĐẦU
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
3
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
- Hứng thú có vai trò đặc biệt đối với hoạt động cá nhân. Hứng thú có ý
nghĩa rất quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người. Con người cảm
thấy sống đầy đủ và hạnh phúc khi họ có những hứng thú. Cùng với nhu cầu,
hứng thú kích thích hoạt động, làm cho con người trở nên tích cực.
- Đặc biệt đối với hoạt động của học sinh nói riêng thì hứng thú làm tăng

hiệu quả của quá trình nhận thức.
- Đối với học sinh tiểu học giai đoạn đầu của tuổi học sinh thì sự hình
thành hứng thú học tập với các môn học nói chung và đối với môn toán nói
riêng là một vấn đề rất quan trọng trong giảng dạy. Do vậy sự nghiên cứu hứng
thú học toán của học sinh tiểu học có ý nghĩa cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn.
- Đầu năm học 2012 - 2013, tôi được phân công dạy lớp 4B trường Tiểu
học Đạ M’Rông. Bên cạnh những học sinh học giỏi môn toán còn không ít học
sinh học yếu môn toán. Đó là vấn đề nhức nhối cho chất lượng của nhà trường
và những giáo viên đứng lớp giai đoạn nay. Vì vậy để nâng cao chất lượng môn
toán đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học để gây sự hứng
thú học tập của học sinh. Đó là lí do tơi chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp
học sinh lớp 4 hứng thú học môn toán”.
II. PHẠM VI ĐỀ TÀI:
- Trong chương trình bậc tiểu học, tất cả các môn học đều quan trọng.
Nhưng riêng đối với môn toán tầm quan trọng lại đặc biệt hơn. Trong cuộc
sống, các em không thể sống tốt nếu không biết tính toán. Hiện nay sự hứng thú
học môn toán của học sinh lớp tôi phụ trách còn ở mức độ thấp và có sự chênh
lệch về hứng thú học tập giữa môn toán và môn học khác. Xuất phát từ động cơ
trên, tôi tập trung tìm những biện pháp tốt nhất để giúp học sinh có hứng thú tự
học, tự tìm hiểu, tự giải quyết những vấn đề toán học được đặt ra trong chương
trình toán lớp 4, để tự lĩnh hội những kiến thức, biết cách học và giải quyết
những vấn đề toán học trong phạm vi chương trình toán 4. Trên cơ sở đó sẽ nhớ
lâu và sử dụng thành thạo những kiến thức ấy vào quá trình học tập và vận dụng
vào thực tế của các em sau này.
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
4
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
B]THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:

- Quá trình dạy học toán trong chương trình tiểu học được chia thành hai giai
đoạn : Giai đoạn các lớp 1, 2, 3 và giai đoạn các lớp 4, 5.
+ Giai đoạn ở các lớp 1, 2, 3 có thể coi là giai đoạn học tập cơ bản, đặc
biệt ở giai đoạn này học sinh được chuẩn bị về phương pháp tự học toán dựa vào
các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
+ Giai đoạn các lớp 4, 5 có thể coi là giai đoạn học tập các kiến thức, kĩ
năng cơ bản của môn toán ở mức sâu hơn, tổng kết, hệ thống hóa , khái quát hóa
về số tự nhiên và dãy số tự nhiên, hệ đếm thập phân, bốn phép tính và một số
tính chất của nó, trên cơ sở cấu trúc lại việc dạy nội dung số học để điều chỉnh
dạy các mạch kiến thức về đại lượng, đo đại lượng, các yếu tố hình học, giải
toán, tạo sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các mạch kiến thức.
- Trong sự nghiệp giáo dục nói chung và việc dạy học toán 4 nói riêng.
Trong thời gian qua mặc dù có nhiều khó khăn nhưng đã tiến bộ và phát triển
nhiều. Tuy vậy, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới và phát triển trên toàn
quốc và thế giới. Chính vì các bậc học, lớp học, ngành học phải áp dụng
những biện pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh có năng lực tư duy
sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Đó cũng chính là hướng tìm hiểu thực
trạng hứng thú học toán của học sinh lớp 4B.
- Trong lớp tôi chủ nhiệm phần lớn học sinh yếu môn toán vì vậy trong
trường tiểu học ngoài việc cung cấp những kiến thức của toán học, giáo viên cần
chú trọng về các phương pháp để làm cho học sinh hứng thú khi học toán.
- Để học sinh hứng thú học môn toán, người giáo viên phải xác định
nguyên nhân dẫn đến các em học yếu và không thích học để có biện pháp thích
hợp.
+ Học sinh không thích học dạng toán nào ?
+ Vì sao học sinh lại không thích học học toán ? Thực hiện các phép tính
cộng, trừ, nhân, chia, hay giải toán có lời văn ?
+ Do hổng kiến thức từ lớp dưới ?
+ Do thầy, cơ giáo giảng bài cứng nhắc, khô khan ?
- Từ đó xác định được nội dung, phương pháp để tổ chức lớp học cho phù

hợp.
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
5
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
II. THỰC TRẠNG LỚP TÔI PHỤ TRÁCH:
- Năm học 2012 – 2013 này, lớp tôi chủ nhiệm gồm 25 em, trong đó nam
chiếm 17 em, nữ 10 em. Với số lượng học sinh như vậy thì nề nếp lớp học tương
đối tốt.
Tuy nhiên chất lượng kiểm tra đầu năm môn toán cho thấy:
Xếp loại Tổng số Tỷ lệ %
Giỏi 0 em 0 %
Khá 0 em 0 %
Trung bình 2 em 8 %
Yếu 23 em 92 %
- Đối với những yêu cầu toán lớp 4 và các thực trạng mà tôi đã trình bày ở
trên. Tôi nhận thấy các em trong lớp còn hạn chế nhiều về mặt kiến thức do
nhiều nguyên nhân dẫn đến các em học yếu và không thích học.
- Mong muốn của tôi là làm thế nào để đổi mới phương pháp dạy học
nhằm giúp học sinh húng thú học để tự chiếm lĩnh kiến thức và đạt chất lượng
cao hơn so với chất lượng đầu năm về môn toán.
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
6
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
C] MỘT SỐ GIẢI PHÁP
1/ Đối với những học sinh yếu toán:
Tôi sử dụng biện pháp linh hoạt, vui nhộn để động viên tinh thần học toán
của học sinh, học sinh yếu toán thường mặc cảm, rụt rè, sợ sệt mỗi khi tôi hỏi
bài: “Ví dụ: Trong lớp tôi chủ nhiệm có em: Ha Rong, Ha Trương, Linh học
yếu toán nên khi tôi gọi đứng lên mất bình tĩnh nên trả lới ấp a ấp úng, có khi
em chỉ biết đứng im. Tôi đã nhẹ nhàng động viên, chỉ bảo để các em lấy lại được

bình tĩnh, tự tin và kiên nhẫn thực hiện nhựng yêu cầu mà tôi đề ra”.
Ví dụ: Khi dạy bài “Các số có sáu chữ số ”
Bài 3/10: Đọc các số sau:
96 315 ; 796 315 ; 106 315 ; 106 827.
+ Tôi hướng dẫn các em tách các số trên thành từng hàng, hàng đơn vị,
hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn, hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn Sau đó
dựa vào cách đọc số có 6 chữ số thuộc từng hàng để đọc và đọc từ trái sang phải.
+ Tôi gọi học sinh yếu đọc trước, nếu lúng túng chỗ nào thì gọi học sinh
khá giúp đỡ, cuối cùng tôi mời học sinh khá hoàn thành bài đọc, thế là tôi thu
hoạch được điều mà tôi yêu cầu.
+ Trong các tiết dạy đặc biệt là môn toán.Tôi luôn động viên để các em
không mặc cảm với bạn bè, lấy lại tinh thần, an tâm học tập. Mặc dù có sự tiến
bộ rất nhỏ ở từng học sinh yếu toán.
Để học sinh có hứng thú học môn toán trên lớp tôi quan tâm nhiều đến
những em học yếu, ham chơi, lơ đãng và sắp xếp chỗ ngồi hợp lý. Trong tiết
dạy, tôi sử dụng đồ dùng dạy học để gây sự hấp dẫn và hứng thú cho học sinh.
Tôi thường xuyên chấm, chữa bài ở lớp, ở nhà. Từ đó nắm được lực học thực
chất của từng em, có biện pháp bồi dưỡng cho những em học sinh khá, giỏi và
phụ đạo cho những em học sinh yếu.
2/ Đối với những học sinh hổng kiến thức:
- Đối với những em hổng kiến thức về cộng, trừ, nhân, chia; thường
những em này khi đặt tính và thực hiện phép tính hay sai, dễ chán học, không
thích làm bài tập. Vì vậy tôi dành nhiều thời gian để hướng dẫn.
Ví dụ: Trong phép tính cộng có nhớ.
367859 + 541728 = ?
- Tôi viết lên bảng phép tính 367859 + 541728. Yêu cầu học sinh đặt tính
và thực hiện phép tính.
- Sau đó yêu cầu học sinh nêu cách đặt tính và thực hiện phép tính của
mình.
- Gọi học sinh yếu nêu trước, chỗ nào lúng túng cho học sinh khá, giỏi hỗ

trợ.
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
7
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
367859
+
541728
909587
* Đặt tính: Viết 367859 rồi viết 541728 xuống dưới sao cho
hàng đơn vị thẳng hàng đơn vị, hàng chục thẳng hàng chục,
hàng trăm thẳng hàng trăm, hàng nghìn thẳng hàng nghìn,
hàng chục nghìn thẳng hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn
thẳng hàng trăm nghìn.
* Thực hiện tính cộng theo thứ tự từ phải sang trái
9 cộng 8 bằng 17 viết 7 nhớ 1
5 cộng 2 bằng 7 thêm 1 bằng 8, viết 8
8 cộng 7 bằng 15 viết 5 nhớ 1
7 cộng 1 bằng 8 thêm 1 bằng 9, viết 9
6 cộng 4 bằng 10 viết 0 nhớ 1
3 cộng 5 bằng 8 thêm 1 bằng 9, viết 9
* Vậy 367859 + 541728 = 909587
Ví dụ: Trong phép trừ có nhớ: 647253 -285749 = ?
Tôi viết lên bảng phép tính 647253 – 285749. Tổ chức học nhóm, nêu kĩ
thuật đặt tính và thực hiện phép tính đó
Sau đó tôi gọi từ 2 - 3 học sinh yếu nhắc lại, nếu sai đã có các bạn hỗ trợ.
_
647253
285749
361504
* Đặt tính: Viết 647253 rồi viết 285749 xuống dước sao cho

hàng đơn vị thẳng hàng đơn vị, hàng chục thẳng hàng chục, hàng
trăm thẳng hàng trăm, hàng nghìn thẳng hàng nghìn, hàng chục
nghìn thẳng hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn thẳng hàng trăm
nghìn.
* Thực hiện tính trừ theo thứ tự thừ phải sang trái
13 trừ 9 bằng 4 viết 4 nhớ 1.
4 thêm 1 bằng 5, 5 trừ 5 bằng 0 viết 0.
12 trừ 7 bằng 5 viết 5 nhớ 1
5 thêm 1 bằng 6, 7 trừ 6 bằng 1 viết 1
14 trừ 8 bằng 6, viết 6 nhớ 1
2 thêm 1 bằng 3, 6 trừ 3 bằng 3 viết 3
* Vậy 647253 – 285749 = 361504
- Khi học về phép nhân, chia. Tôi yêu cầu học sinh học thuộc lòng bảng
nhân, chia trong bảng. Vì ở lớp tôi đa số em lên lớp 4 rồi mà bảng nhân chia còn
lơ mơ. Tôi đã tổ chức vào 15 phút truy bài đầu giờ, thường xuyên cho lớp tự hỏi
bài nhau [ngoài việc rèn chữ viết trong 15 phút đó] học sinh phải học thuộc bảng
nhân, chia ; đọc xuôi, đọc ngược và trả lời nhanh khi tôi hỏi bất chợt, rồi mới
tiến hành học kĩ thuật tính toán. Cách làm này tôi nhận thấy học sinh lớp tôi rất
thích 15 phút truy bài đầu giờ, hầu hết các em đi học sớm để được truy bài về
bảng nhân chia. Về kĩ thuật tính toán tôi tiến hành như sau:
Ví dụ: Trong phép nhân với số có một chữ số
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
8
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
Tôi viết lên bảng 136204  4 = ?. Yêu cầu học sinh đặt tính và thực hiện
phép tính.
Sau đó gọi học sinh nêu cách thực hiện phép tính của mình.
136204
X 4
544816

4 nhân 4 bằng 16 viết 6 nhớ 1
4 nhân 0 bằng 0, thêm 1 bằng 1 viết 1
4 nhân 2 bằng 8, viết 8
4 nhân 6 bằng 24, viết 4 nhớ 2.
4 nhân 3 bằng 12, thêm 2 bằng 14 viết 4 nhớ 1
4 nhân 1 bằng 4, thêm 1 bằng 5, viết 5
* Vậy 136204  4 = 544816
* Hay trong phép chia cho số có hai chữ số: 672 : 21 = ?
672 21
63 32
42
42
0
- Chia theo thứ tự từ trái sang phải.
* 67 chia cho 21 được 3, viết 3 ;
3 nhân 1 bằng 3, viết 3 ;
3 nhân 2 bằng 6, viết 6 ;
67 trừ 63 bằng 4, viết 4.
* Hạ 2, được 42 ; 42 chia 21 được 2, viết 2
2 nhân 1 bằng 2, viết 2 ;
2 nhân 2 bằng 4, viết 4 ;
42 trừ 42 bằng 0, viết 0.
Thử lại : 32 x 21 = 672
Đối với học sinh làm sai, khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia, tôi
giảng từ từ cặn kẽ để các em hiểu bài chứ không quát nạt hoặc nói những lời để
các em mặc cảm, đồng thời giúp các em thực hiện và nêu cách làm.
* Đối với dạng toán tính biểu thức:
Ví dụ:
Hãy tính giá trị biểu thức bằng hai cách
[33164 + 28528] : 4

Cách 1
[33164 + 28528] : 4 =
= 61692 : 4
= 15423
Cách 2
[33164 + 28528] : 4 =
= 33164 : 4 + 28528 : 4
= 8291 + 7132
= 15423
Trong quá trình đặt tính và thực hiện phép tính bằng các câu hỏi dẫn dắt.
Tôi hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Vì quá trình tự
tìm tòi, khám phá sẽ rèn luyện cho các em tính chủ động, sáng tạo trong học
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
9
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
toán và các em sẽ hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức, trở thành kĩ năng tính toán, chính
xác, từ đó các em trở nên hứng thú khi học môn toán.
* Ví dụ về giải toán có lời văn:
Bài tập 2 trang 47 [sách toán 4]
“Một lớp có 28 học sinh. Số học sinh trai hơn số học sinh gái là 4 em. Hỏi
lớp đó có bao nhiêu học sinh trai, bao nhiêu học sinh gái?”
Tôi yêu cầu 1 học sinh đọc đề bài, cả lớp đọc thầm, tự tìm hiểu bài toán,
dùng bút chì gạch chân những từ trọng tâm. Sau đó tôi hỏi bài toán thuộc dạng
gì? [Bài toán thuộc bạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó]
Tôi yêu cầu 2 học sinh lên bảng tóm tắt và giải bài toán. Mỗi học sinh giải
một cách khác nhau. Cả lớp hoạt động theo nhóm 4 học sinh [nhóm theo trình
độ]. Tôi sẽ quan tâm giúp đỡ cho nhóm có trình độ yếu, phân tích và giải bài
toán.
Tóm tắt
?em

Trai:
4 em
? em
Gái:
Bài giải
Cách2
Số học sinh gái là
[28 – 4] : 2 = 12 [học sinh]
Số học sinh trai là
12 + 4 = 16 [ học sinh ]
Đáp số : 16 học sinh trai
12 học sinh gái
Cách 2
Số học sinh trai là
[28 + 4] : 2 = 16 [học sinh]
Số học sinh gái là
16 – 4 = 12 [học sinh]
Đáp số : 16 học sinh trai
12 học sinh gái.
- Sau đó yêu cầu học sinh từng nhóm trình bày bài giải và giải thích cách
làm của nhóm mình. Cuối cùng tôi chốt bài giải trình bày gọn và rõ ràng nhất.
* Đối với dạng toán về hình học.
Ví dụ: bài tập 1 – [ Sgk / 55] Lớp 4
Nêu các góc vuông, góc nhọn, góc tù, góc bẹt có trong hình sau.
A B
- Yêu cầu một học sinh lên bảng làm bài và cả lớp hoạt động theo nhóm
trình độ. Để tránh mặc cảm tôi đặt tên mỗi nhóm một loài chim như nhóm sơn
ca, nhóm họa mi…
Sau đó trình bày bài làm của mình. Gọi nhóm yếu trình bày trước, nếu
chưa nêu đủ gọi nhóm giỏi hoàn thành bài làm đúng:

Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
10
28 em
CD
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
Bài làm :
- Có 3 góc vuông là :
+ Góc đỉnh A cạnh AB, AD
+ Góc đỉnh B cạnh BC, BD
+ Góc đỉnh D cạnh DC, DA
- Có 4 góc nhọn là :
+ Góc đỉnhB cạnh BA, BD
+ Góc đỉnh C cạnh CB, CD
+Góc đỉnh D cạnh DB, DC
+ Góc đỉnh D cạnh DA, DB
- Có 1 góc tù là :
+ Góc đỉnh B cạnh BA, BC
* Ví dụ: Bài tập 3 [ sgk / 65 ]Lớp 4
Để lát nền một căn phòng, người ta đã sử dụng hết 200 viên gạch hình
vuông có cạnh 30 cm. Hỏi căn phòng đó có diện tích bao nhiêu mét vuông, biết
diện tích phần mạch vữa không đáng kể?
- Tôi yêu cầu học sinh đọc kỹ bài toán để tìm lời giải.
- Gọi một học sinh lên bảng làm bài và yêu cầu hai học sinh ngồi cùng
bàn trao đổi và làm bài.
- Đối với học sinh yếu, tôi giúp các em nhớ lại kiến thức tính diện tích
hình vuông, từ đó các em tính diện tích một viên gạch, 200 viên gạch vuông, đổi
từ cm
2
ra m
2

theo yêu cầu đề bài.
- Sau đó yêu cầu học sinh lên bảng giải thích cách làm của mình
- Cả lớp theo dõi nhận xét
- Tôi chốt lại bài giải đúng.
Bài giải
Diện tích của một viên gạch lát nền là:
30 x 30 = 900 [cm
2
]
Diện tích căn phòng bằng diện tích số viên gạch lát nền, vậy diện tích căn
phòng là:
900 x 200 = 180000 [cm
2
]
Đáp số: 18 cm
2
- Qua phương pháp này tôi tạo ra sự giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau giữa
các đối tượng học sinh. Sự hỗ trợ giữa các học sinh trong nhóm
đã tạo cho từng học sinh sự tự tin vào khả năng của mình, tự rút
kinh nghiệm về cách học, cách làm bài của mình và tự điều chỉnh,
sửa chữa những thiếu sót của bản thân. Thông qua việc tổ chức
học nhóm, học sinh nắm chắc, hiểu sâu kiến thức của bài học. Khi
nắm được kiến thức bài học, chắc chắn các em sẽ hứng thú thực
hiện những bài toán khác tương tự.
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
11
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
3/ Đối với những học sinh chưa chú ý học
- Đối với những em ham chơi, lơ đãng trong giờ học. Tôi áp dụng nhiều
phương pháp dạy trong một tiết học và liên tục nêu ra những tình huống mới để

lôi cuốn các em.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Nhân với 10, 100, 1000, chia cho 10, 100,
1000, ” cuối tiết học tôi áp dụng phương pháp tổ chức trò chơi
Tên trò chơi “Tiếp sức”
Tính nhẩm:
18 x 10
75 x 100
86 x 1000
270 : 10
6800 : 100
9000 : 1000
25 x 10
423 x 100
256 x 1000
420 : 10
200200 : 100
2002000 : 1000
- Hai đội, mỗi đội 6 em xếp thành hàng dọc
- Khi có hiệu lệnh hô bắt đầu cuộc chơi. Lần lượt mỗi đội 1 em lên tính
nhẩm và ghi kết quả cho đội mình, quay về trao phấn cho người tiếp theo. Đội
nào tính xong trước, đội đó thắng cuộc.
- Cả lớp tuyên dương và tặng danh hiệu “Thắng cuộc”
+ Hay khi dạy bài: Nhân nhẩm số có hai chữ số với 11, cuối tiết học, tôi
cũng tổ chức trò chơi sau:
Tính nhẩm:
15 x 11
26 x 11
13 x 11
25 x 11
43 x 11

12 x 11
24 x 11
34 x 11
54 x 11
81 x 11
- Yêu cầu hai dãy, mỗi dãy cử 5 em lên thực hiện phép tính. Nếu đội nào
làm xong trước thì đội đó thắng.
- Cả lớp nhận xét, tuyên dương và tặng danh hiệu thắng cuộc.
* Phương pháp tổ chức trò chơi không những giúp các em hứng thú học
tập mà còn giúp các em nhớ sâu, nhớ lâu kiến thức mới. Qua tổ chức trò chơi tôi
thấy những em ham chơi, lơ đãng đó cũng vì danh dự và chiến thắng cho nhóm
mình mà các em đã tập trung suy nghĩ để tìm ra kết quả nhanh nhất, đúng nhất
để điền vào cho bài của đội mình. Do đó mà các em nắm được kiến thức mới.
Từng bước, tứng bước một như thế để đạt được kết quả như mong muốn.
4/ Đối với những học sinh khá, giỏi:
- Đối với những em khá, giỏi. Trong tiết dạy, tôi luôn đưa ra nhiều tình
huống, bài tập nâng cao để các em suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo tìm ra cái mới,
đồng thời thường xuyên khích lệ tinh thần học tập của các em.
Ví dụ: Sau khi học xong bài “Tìm số trung bình cộng”
Tôi hướng dẫn luyện tập thêm.
Bài toán: Trung bình cộng của ba số là 145, biết một trong ba số là 96,
trong hai số còn lại, số lớn hơn số bé 17 đơn vị, tìm hai số chưa biết.
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
12
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
- Yêu cầu học sinh tự làm bài, sau đó gọi học sinh giỏi, khá giải thích
cách làm của mình.
Bài giải:
Tổng của ba số là:
145 x 3 = 435

Một trong 3 số là 96, vậy tổng của hai số còn lại là:
435 – 96 = 339
Số bé là:
[339 – 17] : 2 = 161
Số lớn là:
161 + 17 = 178
Đáp số: - Số thứ nhất: 96
- Số thứ hai: 161
- Số thứ ba: 178
* Ví dụ: Tìm x: x : 2 = 460
Tôi nâng cao lên [x + 220] : 2 = 460
Bài giải:
[x + 220] : 2 = 460
x + 220 = 460 x 2
x + 220 = 920
x = 920 - 220
x = 700
* Ví dụ: Tính nhanh
a/ 5 + 8 + 11 + 14 17 + 20 + 25 + 28 + 31 + 34 37 + 40 =
= [5 + 40] + [8 + 37] + [11 + 34] + [14 + 31] + [17 + 28] + [20 + 25]
= 45 + 45 + 45 + 45 + 45 + 45
= 45 x 6
= 270
b/ 2 + 4 + 6 + + 96 + 98
= [2 + 98] + [4 + 96] + + [48 + 52] + 50
= 100 x 24 + 50
= 2400 + 50
= 2450
Các dạng toán trên tôi yêu cầu học sinh tự thực hiện theo từng tiết học. Để
từ đó nâng cao dần đối tượng khá, giỏi bằng nhiều hình thức như hướng dẫn các

em độc lập suy nghĩ, thảo luận nhóm trình độ khá giỏi v.v
Với phương pháp trên tôi thấy các em luôn suy nghĩ , tìm tòi, sáng tạo để
phát hiện ra cách giải, cách làm mới. Qua đó phát huy được tính tích cực, chủ
động học tập của học sinh để có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi.
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
13
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
5/ Sử dụng đồ dùng dạy học để kích thích hứng thú cho học sinh:
Để giúp học sinh tự tìm hiểu, tự chiếm lĩnh kiến thức mới, ngoài các giải
pháp đã nêu trên tôi còn sử dụng Đồ dùng dạy học để kích thích hứng thú học
tập cho học sinh:
Đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu trong dạy học nói chung và
dạy học toán nói riêng. Trong quá trình dạy học sinh nhận thức nội dung bài học
dưới sự tổ chức dẫn dắt của giáo viên, có sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học. Đồ
dùng dạy học đảm cho học sinh lĩnh hội tốt nhất các biểu tượng, các khái niệm,
quy tắc, hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Đồ dùng dạy học giúp cho học sinh quan sát
một cách trực quan, giúp học sinh nhận thức sâu hơn nội dung bài. Đồ dùng dạy
học làm tăng hứng thú, nhận thức của học sinh.
Ví dụ: Bài “ Yến, tạ, tấn” [Sách Toán 4 trang 23]
Để kích thích hứng thú học sinh tự tìm hiểu về các đơn vị đo khối lượng
và để đo các vật nặng hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn kg tôi đưa ra cho học
sinh xem một số cái cân đồng hồ [học sinh đã biết các loại cân này] và cân bàn
[học sinh chưa biết].
Sau đó tôi hỏi: “Các em đã biết những loại cân nào rồi?”, để từ đó giới
thiệu, đưa học sinh tới một loại cân mới “Cái cân còn lại có những đặc điểm gì?
Và tên gọi là gì?”.
Cho học sinh tự thực hành để cân nặng các bạn trong lớp và học sinh tự
so sánh. Sau khi cân, học sinh tự phát hiện được ngoài các vật nặng hàng chục,
hàng trăm, hàng nghìn kg thì người ta còn dùng những đơn vị : Yến, tạ, tấn.
Tôi hướng dẫn học sinh cách đổi các đơn vị đo Yến, tạ, tấn.

Từ hai ý trên, tôi giới thiệu với học sinh: Khi đo các vật nặng ta còn có
thể dùng những đơn vị : Yến, tạ, tấn.
Ví dụ 2 : Bài “Giây, thế kỉ” [Sách toán 4 trang 25]
Tôi đưa ra cho học sinh quan sát một chiếc đồng hồ.
Sau đó tôi hỏi: “Các em đã biết những loại đồng hồ nào rồi”. Từ đó tôi
yêu cầu học sinh nhắc lại cách đổi giờ sang phút mà các em đã được học.
Cho học sinh tự thực hành để đổi. Sau khi học sinh đổi xong, tôi chốt lại
và từ đó hướng dẫn học sinh cách đổi từ thế kỉ sang năm như thế nào?
Từ hai ý trên, tôi hướng dẫn với học sinh: Từ 1 năm đến 100 là một thế
kỉ [ Thế kỉ I]…
Ví dụ 3: Bài “Góc nhọn, góc tù, góc bẹt” [Sách toán 4 trang 49]
- Cho học sinh lấy thước ê ke ở bộ đồ dùng học toán của các em.
- Giáo viên giới thiệu về thước ê ke và nó dùng để làm gì?
- Giáo viên vẽ các góc: Nhọn, tù, bẹt. và hướng dẫn cho học sinh cách xác
định các góc. Từ đó đưa ra cho học sinh tự thực hành nhận biết các góc.
* Như vậy đồ dùng dạy học là yếu tố quan trọng góp phần phát huy tính
tích cực hứng thú trong học tập của học sinh.
Ngoài ra, sau mỗi buổi dạy, trở về nhà, tôi thường có thói quen nhớ lại
hình ảnh các em học sinh lớp mình trong các tiết học của buổi hôm đó, để qua
đó tự điều chỉnh các giải pháp, cách tổ chức cho hợp lý đối với các tiết học sau.
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
14
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
D] KẾT QUẢ
Nhờ kiên trì tìm tòi các phương pháp, biện pháp khắc phục những hạn chế
của học sinh. Tôi nhận thấy lớp tiến bộ rõ rệt. Trong các tiết học toán, học sinh
sôi nổi xây dựng bài. Các em biết cách tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức, tự tin
trong học tập. Các kiến thức và kĩ năng cơ bản của môn toán các em hiểu sâu
hơn, khái quát hơn. Hơn nữa chất lượng ngày càng đi lên.
Tóm lại trong quá trình dạy học ở trên lớp, tôi luôn thay đổi các phương

pháp dạy, các hình thức tổ chức cho phù hợp từng loại bài, từng đối tượng học
sinh. “ Không có phương pháp nào là vạn năng ”. Cái quan trọng và tâm đắc
nhất là tạo không khí học tập sôi nổi, tự nhiên, gần gũi giữa cô và trò. Sao cho
tất cả học sinh trong lớp đều được hoạt động, nhằm học sinh chiếm lĩnh kiến
thức tốt nhất theo nhu cầu học tập của từng em. Với tình hình học tập của lớp
4B, điều mà tôi luôn tránh là: Không chê trách, không áp đặt học sinh khi các
em chưa nắm và chưa hiểu. Tôi luôn tạo cho học sinh tinh thần tự giác, sáng
tạo.
Qua gần một học kì vận dụng những kinh nghiệm của bản thân, tôi đã đạt
được sự cải thiện trong những học sinh yếu, không thích học môn toán cụ thể:
Kết quả học tập giữa kì I : môn Toán cho thấy :
Xếp loại
Giữa học kì I
Tỷ lệ tăng, giảm
so với đầu năm
Tổng số Tỷ lệ % Tổng số
Giỏi 0 em 0 % Tăng 0 em
Khá 3 em 12 % Tăng 3 em
Trung bình 9 em 36 % Tăng 7 em
Yếu 13 em 52 % Giảm 10 em
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
15
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
E] KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu về “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 hứng thú
học toán”. Tôi nhận thấy rằng để đạt kết quả chưa như mong muốn nhưng đã có
sự chuyển biến khá rõ về chất lượng môn toán. Tôi đạt được kết quả trên từ thực
tế cho thấy. Người giáo viên cần nhẹ nhàng, điềm tĩnh, kiên trì, tỉ mỉ, dìu dắt,
không nóng vội. Yêu thương học sinh như người con của mình thì việc giáo dục
mới đạt kết quả cao. Mỗi bài học đều có những phương pháp khác nhau, không

có phương pháp nào là vạn năng, do đó người giáo viên phải biết chọn lọc
phương pháp phù hợp với từng loại bài với từng đối tượng học sinh.
Khi đứng lớp, người giáo viên phải toàn tâm, toàn ý với công việc được
giao. Luôn nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Vận dụng mọi
năng lực sư phạm của mình để dạy học thì nhất định sẽ đạt kết quả tốt. Thường
xuyên nghiên cứu tài liệu như: sách giáo viên, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên,
tài liệu Thế giới trong ta
Trên đây là những giải pháp giúp học sinh hứng thú học toán mà tôi đã áp
dụng cho lớp tôi phụ trách, mang lại hiệu quả nhất định. Chắc chắn những biện
pháp áp dụng còn khiêm tốn. Tôi xin cảm ơn ban giám hiệu nhà trường và bạn
bè đồng nghiệp giúp tôi hoàn thành giải pháp hữu ích để góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục trong nhà trường.
* Nhận xét đánh giá:
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………….
Đạ M’Rông, ngày 10 tháng 11 năm 2012

Người viết
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
16
Diễn đàn dạy và học: //buiphan.net
Trần Thị Ngân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho Giáo viên Tiểu học chu kì III [2003- 2007].
NXB GD 2005.
2. Sách giáo khoa Toán lớp 4 .
3.Thế giới trong ta.
4. Hướng dẫn giảng dạy cho các vùng miền [Bộ giáo dục và đào tạo].
Giáo viên: Trần Thị Ngân Trường Tiểu học Đạ M’Rông
17

Video liên quan

Chủ Đề