So sánh các thuyết nhu cầu nội giới

1.1. Tiểu sử tác giả Abraham Maslow sinh ngày 1-4-1908, mất năm 8-5-1970. Ông là một nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Ông là người đáng chú ý nhất với sự đề xuất về Tháp nhu cầu và ông được xem là cha đẻ của chủ nghĩa nhân văn trong Tâm lý học. Maslow sinh ra ở Brookly – New York, là con cả trong một gia đình người Do Thái có 7 anh em, nhập cư từ Nga. Bố mẹ ông không được ăn học đến nơi đến chốn nhưng họ quyết tâm đầu tư cho Maslow được học hành và khuyến khích ông nên học ngành Luật. Đầu tiên ông thực hiện lời hứa của bố mẹ mình bằng cách ghi tên vào trường City College of New York. Tuy nhiên, sau 3 học kỳ ông chuyển sang học tại Cornell, sau đó ông quay trở lại CCNY. Sau đó ông cưới một người bà con là Bertha Maslow, ông chuyển đến Wisconsin và theo học tại University of Wisconsin. Tại đây ông đã nhận được B.A [1930], M.A [2011], PHD [1934] về tâm lý học. Trong khi học tại Wisconsin ông đã học với Harry Maslow, người được biết đến với những thí nghiệm gây tranh cãi về hành vi và tập tính xã hội của khỉ. Một năm sau khi tốt nghiệp, Maslow trở lại NewYork và làm việc với E. L. Thorndike tại Đại học Columbia. Maslow bắt đầu sự nghiệp giảng dạy tại Brooklyn College. Trong suốt thời gian này ông đã gặp gỡ nhiều nhà tâm lý học hàng đầu Châu Âu như Alfred Adler và Erich Fromm. Năm 1951, Maslow trở thànhTtrưởng khoa Tâm lý học tại Brandeis University, nơi mà ông bắt đầu với công tác nghiên cứu học thuyết của mình. Ông đã gặp Kurt Goldstein, người đã giới thiệu ông ta về ý tưởng của sự tự nhận thức về nhu cầu. Ông về hưu tại California. Chết vì đau tim năm 1979, thọ 62, sau nhiều năm sức khoẻ kém.

1.2. Nội dung cơ bản của thuyết nhu cầu


– Maslow nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu cầu của con người vào những năm 1950. Lý thuyết của ông nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần.

– Lý thuyết của ông giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về những nhu cầu của con người bằng cách nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu. Ông đã đem các loại nhu cầu khác nhau của con người, căn cứ theo tính đòi hỏi của nó và thứ tự phát sinh trước sau của chúng để quy về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu cầu của con người tư thấp đến cao.

Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người như nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục.

Là nhu cầu cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Đặc biệt là với trẻ em vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản này. Ông quan niệm rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa.

Nhu cầu về an toàn hoặc an ninh:

An ninh và an toàn có nghĩa là một môi trường không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người. – Nội dung của nhu cầu an ninh: An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất, là tiền đề cho các nội dung khác như an toàn lao động, an toàn môi trường, an toàn nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn tâm lý, an toàn nhân sự,… Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con người. Để sinh tồn con người tất yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu về sự an toàn. Nhu cầu an toàn nếu không được đảm bảo thì công việc của mọi người sẽ không tiến hành bình thường được và các nhu cầu khác sẽ không thực hiện được. Do đó chúng ta có thể hiểu vì sao những người phạm pháp và vi phạm các quy tắc bị mọi người căm ghét vì đã xâm phạm vào nhu cầu an toàn của người khác. Vd, nếu nhà tham vấn làm việc với trẻ em lang thang thì phải xác định được rằng đa số trẻ em lang thang đã bị “tắc” ở bậc nhu cầu này bởi những rủi ro mà các em đang phải đối diện ở cuộc sống ngoài đường phố [cướp giật, lạm dụng,…]. Bởi vì các em phải luôn cảnh giác với các rủi ro này nên không thể tập trung vào việc thỏa mãn các nhu cầu ở bậc cao hơn.

Những nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận [tình yêu và sự chấp nhận].

– Do con người là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được người khác thừa nhận. – Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ bị cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng tin, lòng trung thành giữa con người với nhau. – Nội dung của nhu cầu này phong phú, tế nhị, phức tạp hơn. Bao gồm các vấn đề tâm lý như: Được dư luận xã hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận, tán thưởng, ủng hộ, mong muốn được hòa nhập, lòng thương, tình yêu, tình bạn, tình thân ái là nội dung cao nhất của nhu cầu này. Lòng thương, tình bạn, tình yêu, tình thân ái là nội dung lý lưởng mà nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận luôn theo đuổi. Nó thể hiện tầm quan trọng của tình cảm con người trong quá trình phát triển của nhân loại. Hãy thử tưởng tượng một ngày kia anh/chị thức dậy và phát hiện ra rằng anh/chị là người cuối cùng trên quả đất này. Trong nhà, cộng đồng và cả thế giới này không còn ai ngoài anh/chị. Điều gì sẽ xảy ra ? Anh/chị sẽ cảm thấy như thế nào ? Hầu hết mọi người nói rằng nếu không còn ai khác – bạn bè, gia đình, tình hữu nghị – cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa và giá trị nữa. Anh/chị không thể phát triển được nếu thiếu mối quan hệ giao tiếp với người khác [giao tiếp được coi như là nhu cầu bẩm sinh của con người]. Qua đó chúng ta thấy được sức mạnh to lớn của nhu cầu được quan hệ và được thừa nhận trong sự phát triển của mỗi cá nhân. Nó cũng cho thấy con người cần được yêu thương và thừa nhận hơn là cần thức ăn, quần áo và chỗ ở cho sự tồn tại của mình.

Nhu cầu được tôn trọng

– Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lòng tự trọng và được người khác tôn trọng. + Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muồn giành được lòng tin, có năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu hiện và tự hoàn thiện. + Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được uy tín, được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,… Tôn trọng là được người khác coi trọng, ngưỡng mộ. Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách để làm tốt công việc được giao. Do đó nhu cầu được tôn trọng là điều không thể thiếu đối với mỗi con người.

Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành được mục tiêu nào đó.


– Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức [học hỏi, hiểu biết, nghiên cứu,…] nhu cầu thẩm mỹ [cái đẹp, cái bi, cái hài,…], nhu cầu thực hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân.

Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành được mục tiêu nào đó.

– Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức [học hỏi, hiểu biết, nghiên cứu,…] nhu cầu thẩm mỹ [cái đẹp, cái bi, cái hài,…], nhu cầu thực hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân.

1.3. Vận dụng thuyết “nhu cầu” trong tham vấn – Sự hiểu biết về thứ bậc nhu cầu của Maslow giúp nhà tham vấn xác định được những nhu cầu nào trong hệ thống thứ bậc nhu cầu còn chưa được thỏa mãn tại thời điểm hiện tại, đặc biệt là các nhu cầu tâm lý của thân chủ, nhận ra khi nào thì những nhu cầu cụ thể của thân chủ chưa được thỏa mãn và cần đáp ứng. – Qua lý thuyết nhu cầu của Maslow, nhà tham vấn đã hiểu được con người có nhiều nhu cầu khác nhau bao gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Ai cũng cần được yêu thương, được thừa nhận, được tôn trọng, cảm giác an toàn, được phát huy bản ngã,… – Nhà tham vấn sử dụng thuyết nhu cầu để hiểu và giúp đỡ thân chủ thỏa mãn các nhu cầu của họ ở các cấp bậc khác nhau. Điều này có nghĩa là nhà tham vấn làm việc với thân chủ để giúp họ xác định các hành động có thể thực hiện được để thay đổi tình huống và tập trung vào các vấn đề tình cảm có thể đang cản trở thân chủ trong việc thỏa mãn nhu cầu của chính họ.

– Trong một số trường hợp, thân chủ không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, việc kết nối họ với các nguồn lực là hoàn toàn hợp lý nhưng đây là công việc của nghề công tác xã hội. Còn nhà tham vấn tăng cường năng lực cho thân chủ bằng cách lắng nghe thân chủ, chú ý đến các nhu cầu tinh thần của thân chủ và giúp thân chủ hiểu được các tiềm năng của mình, sử dụng các tiềm năng đó để vượt lên nấc thang nhu cầu cao hơn.

Động lực ngụ ý quá trình khuyến khích mọi người hành động để đạt được các mục tiêu mong muốn. Đó là một cái gì đó kích thích một cá nhân tiếp tục thực hiện hành động đã bắt đầu. Trong bối cảnh này, Abraham Maslow, một nhà tâm lý học nổi tiếng, đã nhấn mạnh các yếu tố của lý thuyết động lực, trong một bài báo kinh điển được phát hành năm 1943. Lý thuyết của ông dựa trên nhu cầu của con người và sự thỏa mãn của nó.

Mặt khác, Frederick Herzberg là một nhà tâm lý học người Mỹ, người đã đưa ra khái niệm làm giàu công việc và lý thuyết hai yếu tố về động lực dựa trên phần thưởng và khuyến khích. Ông đã cố gắng làm sáng tỏ hơn về khái niệm động lực làm việc.

Kiểm tra bài viết này để biết sự khác biệt giữa lý thuyết về động lực của Maslow và Herzberg.

Biểu đồ so sánh

Cơ sở để so sánhLý thuyết phân cấp cần của MaslowLý thuyết hai yếu tố của Herzberg
Ý nghĩaLý thuyết của Maslow là một lý thuyết chung về động lực trong đó nói rằng sự thôi thúc thỏa mãn nhu cầu là yếu tố quan trọng nhất trong động lực.Lý thuyết về động lực của Herzberg nói rằng có nhiều yếu tố khác nhau tồn tại tại nơi làm việc gây ra sự hài lòng hoặc không hài lòng trong công việc.
Thiên nhiênMô tảĐơn thuốc
Dựa vaoNhu cầu và sự hài lòng của họPhần thưởng và sự công nhận
Thứ tự nhu cầuThứ bậcKhông có trình tự
Khái niệm cốt lõiNhu cầu không được thỏa mãn kích thích cá nhân.Nhu cầu hài lòng điều chỉnh hành vi và hiệu suất.
Bộ phậnTăng trưởng và thiếu hụt nhu cầu.Yếu tố vệ sinh và động lực.
Động cơNhu cầu không được thỏa mãnChỉ có nhu cầu cao hơn

Định nghĩa lý thuyết của Maslow

Abraham Maslow là một nhà tâm lý học Americal, người đã giới thiệu 'Lý thuyết phân cấp cần' phổ biến về động lực. Lý thuyết nhấn mạnh sự thôi thúc thỏa mãn nhu cầu của những người làm việc trong tổ chức.

Lý thuyết này được chia thành hai loại, tức là nhu cầu tăng trưởng và nhu cầu thiếu, được phân loại thành năm nhu cầu, trong mỗi cá nhân, được thể hiện dưới hình dạng của một kim tự tháp. Lý thuyết này dựa trên tiền đề rằng nhu cầu của con người theo trình tự phù hợp, trong đó nhu cầu tâm lý ở mức thấp nhất, và nhu cầu tự thực hiện ở mức cao nhất. Các nhu cầu khác, tức là nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội và nhu cầu quý trọng nằm ở giữa.

Nó cho rằng nhu cầu cấp cao hơn không thể phát triển cho đến khi nhu cầu cấp thấp hơn không được thỏa mãn. Vì nhu cầu của con người là không giới hạn, nên bất cứ khi nào một nhu cầu được thỏa mãn, một nhu cầu khác lại diễn ra. Hơn nữa, một nhu cầu không được thỏa mãn là động lực chi phối hành vi của cá nhân.

Định nghĩa của lý thuyết của Herzberg

Frederick Herzberg là một nhà khoa học hành vi, người đã phát triển một lý thuyết vào năm 1959 được gọi là lý thuyết hai yếu tố về động lực hoặc lý thuyết vệ sinh động lực.

Herzberg và các cộng sự đã thực hiện các cuộc phỏng vấn của 200 người bao gồm các kỹ sư và kế toán viên. Trong cuộc khảo sát đó, họ đã được hỏi về các thành phần của công việc khiến họ hạnh phúc hoặc không hạnh phúc, và câu trả lời của họ cho thấy rõ rằng chính môi trường làm việc gây ra sự bất hạnh hoặc không hài lòng.

Lý thuyết của Herzberg

Theo lý thuyết, các yếu tố vệ sinh, là điều cần thiết để giữ mức độ hài lòng hợp lý giữa các nhân viên. Các yếu tố như vậy không thực sự dẫn đến sự hài lòng, nhưng sự vắng mặt của chúng gây ra sự không hài lòng, đó là lý do tại sao, chúng được gọi là sự không hài lòng. Thứ hai, các yếu tố động lực vốn có của công việc, và do đó, việc tăng các yếu tố này sẽ dẫn đến sự gia tăng mức độ hài lòng, trong khi việc giảm không gây ra sự không hài lòng ở nhân viên.

Sự khác biệt chính giữa Lý thuyết Động lực của Maslow và Herzberg

Những điểm cơ bản của sự khác biệt giữa lý thuyết về động lực của Maslow và Herzberg có thể được tóm tắt như sau:

  1. Lý thuyết của Maslow là một lý thuyết chung về động lực thể hiện rằng sự thôi thúc thỏa mãn nhu cầu là biến số nguyên tắc trong động lực. Ngược lại, Lý thuyết về động lực của Herzberg cho thấy rằng có một số biến số tại nơi làm việc dẫn đến sự hài lòng hoặc không hài lòng trong công việc.
  2. Lý thuyết của Maslow là mô tả, trong khi lý thuyết được đưa ra bởi Herzberg là đơn giản và có tính nguyên tắc.
  3. Cơ sở của lý thuyết của Maslow là nhu cầu của con người và sự hài lòng của họ. Mặt khác, lý thuyết của Herzberg dựa vào phần thưởng và sự công nhận.
  4. Trong lý thuyết của Maslow, có một chuỗi các nhu cầu thích hợp từ thấp hơn đến cao hơn. Ngược lại, không có trình tự như vậy tồn tại trong trường hợp lý thuyết của Herzberg.
  5. Lý thuyết của Maslow nói rằng nhu cầu không được thỏa mãn của một cá nhân đóng vai trò là tác nhân kích thích. Ngược lại, lý thuyết của Herberg cho thấy nhu cầu hài lòng chi phối hành vi và hiệu suất của một cá nhân.
  6. Nhu cầu của một cá nhân được chia thành hai loại, đó là nhu cầu sinh tồn / thiếu hụt và nhu cầu tăng trưởng theo Maslow. Ngược lại, trong mô hình của Herzberg, nhu cầu của một cá nhân được phân loại thành các yếu tố Vệ sinh và Động lực.
  7. Theo lý thuyết của Maslow, bất kỳ nhu cầu không thỏa mãn nào của một cá nhân đều đóng vai trò là động lực. Không giống như trong trường hợp của Herzberg, chỉ những nhu cầu cấp cao hơn mới được tính là động lực.

Phần kết luận

Hai mô hình được phát triển bởi hai chuyên gia nhằm mục đích đơn giản hóa quá trình tạo động lực đã chứng minh rằng động lực là một yếu tố quan trọng để cải thiện mức độ hiệu suất của nhân viên. Lý thuyết của Herzberg là một bổ sung cho lý thuyết của Maslow. Đây không phải là mâu thuẫn nhưng bổ sung cho nhau.

Video liên quan

Chủ Đề