Sự khác nhau giữa lạm phát và giảm phát
Sự khác biệt giữa lạm phát và giảm phát
Show
Mặt khác, giảm phát ngược lại với lạm phát, theo đó giá hàng hóa và dịch vụ giảm và mọi người có thể mua nhiều hàng hóa hơn với số tiền hạn chế. Đó là sự giảm mức giá chung, trong nền kinh tế của đất nước. Một tỷ lệ lạm phát nhất định là tốt, nhưng ngoài ra, còn tệ hơn cho mọi nền kinh tế. Hơn nữa, giảm phát là điều kiện tồi tệ nhất đối với một nền kinh tế. Trong bài viết này, chúng tôi đã đơn giản hóa sự khác biệt giữa lạm phát và giảm phát ở dạng bảng. Biểu đồ so sánh
Định nghĩa về lạm phátMột tình huống phát sinh do sự thay đổi trong cung và cầu tiền, gây ra sự gia tăng giá hàng hóa và dịch vụ theo thời gian, được gọi là Lạm phát. Khi giá trị của tiền giảm trong nền kinh tế thế giới, dẫn đến giá vàng tăng, nó được gọi là Lạm phát. Do sự hiện diện của lạm phát trong nền kinh tế của một quốc gia, sức mua của các hợp đồng tiền vì sự thay đổi của mức giá chung. Do đó, người bình thường sẽ phải chi nhiều tiền hơn để có được một vài món đồ. Nhiều chuyên gia có quan điểm rằng, lạm phát sẽ không phát sinh cho đến khi mức tăng giá <5% trong một thời gian dài. Sau đây là các loại lạm phát:
Ở Ấn Độ, việc đo lường lạm phát được thực hiện với sự trợ giúp của Chỉ số giá bán buôn (WPI) và Chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Lạm phát có thể được gây ra do tăng chi tiêu công, trốn thuế trên quy mô lớn, thâm hụt tài chính, tăng trưởng nông nghiệp không đồng đều, tiếp thị đen, tích trữ, v.v. Định nghĩa về giảm phátGiảm phát là một tình huống, xảy ra do sự sụt giảm trong cung tiền và tín dụng, trong nền kinh tế. Điều này còn được gọi là lạm phát tiêu cực vì khi tỷ lệ lạm phát <0%, giảm phát sinh. Với sự giảm phát xuất hiện trong nền kinh tế của đất nước, có một sự đi xuống trong mức giá chung, tức là giá hàng hóa và dịch vụ giảm và do đó, làm tăng sức mua của tiền. Do đó, bây giờ mọi người sẽ có thể mua nhiều mặt hàng hơn với đầu tư rất ít. Sau đây là các loại giảm phát:
Lý do cho sự xuất hiện của giảm phát là sự sụt giảm sức mạnh chi tiêu ở cấp độ vi mô và vĩ mô do giá của hàng hóa và dịch vụ giảm trong nền kinh tế, vì vậy khách hàng chờ đợi giá giảm hơn nữa. Bằng cách này, khách hàng hoãn hoạt động mua và tiêu dùng của họ, điều này cản trở toàn bộ chu kỳ kinh tế, do đó đầu tư vẫn không hoạt động. Kết quả của giảm phát là suy thoái, lợi nhuận giảm, trầm cảm và như vậy. NộI Dung:
Mặt khác giảm phát, nó ngược lại với lạm phát, theo đó giá cả hàng hóa và dịch vụ giảm xuống và mọi người có thể mua nhiều hàng hóa hơn với số tiền hạn chế. Đó là sự giảm mức giá chung trong nền kinh tế của đất nước. Một tỷ lệ lạm phát nhất định là tốt, nhưng ngoài ra, còn tệ hơn đối với mọi nền kinh tế. Hơn nữa, giảm phát là điều kiện tồi tệ nhất đối với một nền kinh tế. Trong phần trích dẫn của bài viết này, chúng tôi đã đơn giản hóa sự khác biệt giữa lạm phát và giảm phát ở dạng bảng. Sự khác biệt giữa lạm phát và giảm phátSự khác biệt giữa lạm phát và giảm phát - ĐờI SốNg Sự Khác biệt Khác biệt giữa Quỹ Chỉ sốCác quỹ này không phù hợp với tất cả các chỉ số. Tìm hiểu làm thế nào để tránh những bất ngờ tốn kém. Sự khác biệt giữa siêu lạm phát và lạm phát là gì?Tìm hiểu sự khác biệt giữa lạm phát, có thể là một phần bình thường của sự biến động kinh tế, và có khả năng gây ra lạm phát siêu lạm phát. Sự khác biệt chính giữa sự khác biệt trung bình di chuyển (MACD) và Relative Strength Index là gì?Tìm hiểu sự khác biệt giữa MACD và chỉ số sức mạnh tương đối (RSI), và tìm hiểu cách thức các nhà giao dịch sử dụng các chỉ số này. Giảm phát là gì?Khái niệm giảm phát là gì?Giảm phát (Tiếng Anh: Deflation) chỉ sự suy giảm chung của mức giá cả hàng hóa và dịch vụ, thường liên quan đến sự giảm cung tiền và tín dụng. Nó cũng có thể được gọi là lạm phát âm vì tỷ lệ dưới 0%. Nói một cách đơn giản hơn, giảm phát dẫn đến việc người tiêu dùng có thể mua nhiều hơn những gì họ có thể trước đây với cùng một số tiền. Sự giảm giá chung này có thể được coi là một điều tốt vì nó mang lại cho người tiêu dùng sức mua lớn hơn trong ngắn hạn. Tuy nhiên, giảm phát kéo dài hoàn toàn gây ra bất lợi cho nền kinh tế. Nó có thể dẫn đến suy thoái, bất ổn hoặc thậm chí là tàn phá nền kinh tế. Những thay đổi về giá tiêu dùng có thể đo lường thông qua số liệu thống kê kinh tế được tổng hợp ở hầu hết các quốc gia bằng các so sánh những thay đổi của một số hàng hóa và sản phẩm đa dạng với một chỉ số đó là Chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Đây là chỉ số được tham chiếu phổ biến nhất để đánh giá tỷ lệ lạm phát, một khi chỉ số này trong một thời kỳ thấp hơn so với thời kỳ trước, tức là mức giá chung đã giảm cho thấy nền kinh tế đang trải qua lạm phát.
Ví dụ về giảm phátĐể bạn đọc có thể hình dung rõ hơn về lạm phát là gì cũng như những ảnh hưởng mà nó gây ra đối với một nền kinh tế, hãy cùng theo dõi ví dụ dưới đây: Có lẽ ví dụ “khét tiếng” nhất về giảm phát phải kể đến đó chính là cuộc Đại suy thoái ở Hoa Kỳ, bắt đầu với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào ngày 4 tháng 9 năm 1929. Tỷ lệ thất nghiệp trong thời kỳ Đại suy thoái lên tới gần 25%. Tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tức là giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất, giảm xuống dưới 0% trong những năm 1930-1933. Điều này có nghĩa là giá trị sản xuất của Hoa Kỳ ngày càng giảm. Cuộc Đại suy thoái là một ví dụ rõ ràng về cách thức hoạt động của vòng xoáy giảm phát đi xuống. Và phải đến khi các chính sách tài khóa của Tổng thống Franklin D. Roosevelt khởi động thì lạm phát mới bắt đầu tăng trở lại, đi kèm với việc giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng GDP.
1. Khái niệm thiểu phát là gì? Thiếu phát là gì? Xoay quanh việc đi tìm khái niệm thiểu phát là gì, có rất nhiều quan điểm được đưa ra không đồng nhất với nhau. Có nhà phân tích kinh tế thì cho rằng khi không có tiêu chí chính xác nào có thể xác định được tỷ lệ lạm phát bao nhiều phần trăm (%) từ một năm trở lại thì sẽ được gọi là thiểu phát. Trong khi đó, ở một số tài liệu kinh tế lại đưa ra lý luận cho vấn đề thiểu phát như sau: tỷ lệ lạm phát rơi ở mức 3 đến 4 % trong một năm trở lại thì sẽ được gọi là thiểu phát. Ở các quốc gia có ngân hàng trung ương không hề ưa sự lạm phát giống như nước Đức hay Nhật Bản thì con số lạm phát 3 hoặc 4% trong vòng một năm được cho là mức độ quá đỗi trung bình, chưa thấp đến độ được coi là thiểu phát. Còn tại thị trường kinh tế Việt Nam, ngay từ những năm đầu thập kỉ XXI, chỉ cần con số lạm phát ở mức 3-4% thì đã được cho là thiểu phát rồi. Trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, ngân hàng nhà nước là cơ quan có trách nhiệm cao nhất trong việc đảm bảo lưu thông tiền tệ (cash flow) và duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ (money market). Tiền do ngân hàng trung ương phát hành, thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, đến tay người cần vốn (doanh nghiệp, hộ gia đình, tổ chức tín dụng, công ty FDI...). Thực hiện các chính sách tiền tệ phù hợp, hiệu quả là cách để kiểm soát tỉ lệ lạm phát của cả nền kinh tế. 1. Thiểu phát là gì?Nhiều người biết rằng “lạm phát” là sự gia tăng mặt bằng giá chung. Nhiều người cũng biết rằng “Giảm phát” là mức giá chung giảm xuống – nghĩa là, tỷ lệ lạm phát là âm. Nhưng ít người hơn quen thuộc với con đường từ lạm phát đến giảm phát: thiểu phát, một tình huống trong đó tỷ lệ lạm phát đang giảm xuống. Giống một người chạy chậm lại nhưng vẫn tiến về phía trước, khi ở đó là thiểu phát, giá có thể vẫn tăng, chỉ với tốc độ chậm hơn so với trước đây. Thiểu phát là sự giảm tỷ lệ lạm phát trong một khoảng thời gian nhất định. Không nên nhầm lẫn với thiểu phát là một sự giảm giá chung. Trong thời kỳ thiểu phát, giá cả tiếp tục tăng, nhưng với tốc độ chậm hơn so với thời kỳ trước đó. Tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức dương. Các hộ dân tiếp tục mất sức mua. Thiểu phát có thể là tin tốt hoặc tin xấu. Nó là một tốt nếu nó đến từ sự gia tăng năng suất và công nghệ, giống như những thứ đã giúp giữ lạm phát ở mức thấp vào cuối những năm 1990. Thông thường hơn, giảm phát được mang lại bởi chính sách của Fed. Trong những đợt như vậy, giảm phát là có chủ đích và được hoan nghênh. Đây là trường hợp đặc biệt trong giai đoạn giảm phát thuận lợi nhất trong Fed’s lịch sử: đầu những năm 1980, khi lạm phát (được đo bằng sự thay đổi qua từng năm trong chi tiêu tiêu dùng cá nhân chỉ số giá) giảm từ hơn 11% vào đầu năm 1980 đến mức trung bình khoảng 3,5% vào năm 1985. Mặc dù lạm phát cao không phải là một vấn đề vì mục tiêu thắt chặt tiền tệ hơn chính sách nói chung là sản xuất khiêm tốn khử lạm phát để đưa lạm phát đến gần hơn mục tiêu của ngân hàng trung ương. Sự khác biệt giữa thiểu phát và giảm phát Thiểu phát và giảm phát là khác nhau. Giảm phát là sự suy giảm của mặt bằng giá cả. Mặt khác, thiểu phát là giảm lạm phát. Thực tế mức giá tăng trong điều kiện thiểu phát, nhưng tốc độ tăng đó lại giảm đi. Trong điều kiện giảm phát, giá cả đang giảm xuống nhưng trong điều kiện thiểu phát, lạm phát sẽ giảm xuống. |