Tại sao cho rằng con đường cách mạng việt nam là quá độ lên cnxh bỏ qua chế độ tbcn là một tất yếu?
TÍNH TẤT YẾU BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAMĐăng ngày 9:33 sáng 29/10/2020 Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đã được Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(1). Xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn phù hợp với quy luật chung đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay, phù hợp với điều kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đó là một tất yếu khách quan, được thể hiện ở cả phương diện lý luận và phương diện thực tiễn. Show Về mặt lý luận: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một kiểu quá độ gián tiếp (loại hình quá độ đặc biệt của đặc biệt). Khi nghiên cứu về sự phát triển của lịch sử, C. Mác và Ph.Ăng ghen đã khẳng định, lịch sử xã hội vừa phát triển theo con đường tuần tự, vừa phát triển theo con đường nhảy vọt. Năm 1881, khi theo dõi tình hình nước Nga, C.Mác cho rằng sự tồn tại đồng thời của nền kinh tế phương Tây đang thống trị trên thị trường thế giới, cho phép nước Nga có thể áp dụng những thành tựu mà chế độ tư bản đã đạt được mà không phải trải qua chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, Ph.Ăng ghen đã đề cập đến một điều kiện tiên quyết cho khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội của các nước lạc hậu như nước Nga lúc bấy giờ. Điều kiện đó chính là sự thắng lợi của giai cấp vô sản ở các nước phương Tây. Là một thuận lợi có thể tránh được những đau khổ mà các nước phương Tây đã trải qua. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt là từ sau cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại (1917), kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định tính tất yếu quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước tiền tư bản chủ nghĩa hoặc thuộc địa và phụ thuộc. Ông viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(2). Với quan điểm đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn trong việc xác định và lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, tính tất yếu của thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm. Trong Chính cương vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Ngay từ khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn loại hình quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa nửa phong kiến trên cơ sở thấm nhuần tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Về mặt thực tiễn: Trước khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước đã có nhiều sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã tìm đường cứu nước. Tuy nhiên, chưa có ai tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, do con đường mà họ lựa chọn không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử Việt Nam. Chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đọc được “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin thì con đường giải phóng dân tộc mới đem lại kết quả – giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bất công. Vì vậy, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu và phù hợp. Chủ nghĩa tư bản tuy đã có nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích, giải quyết có hiệu quả về phát triển kinh tế cũng như một số vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bản chất của chế độ áp bức, bóc lột thì không thay đổi, khoảng cách giàu nghèo, phân biệt màu da, chủng tộc chưa được khắc phục; nhiều tệ nạn xã hội chưa được giải quyết; khủng bố, gây chiến tranh vẫn là vấn đề nóng bỏng. Do vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là một xã hội mà tương lai của loài người muốn đạt tới. Ngoài ra, điều kiện cần thiết cho phép chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đó là: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thử thách, được khẳng định và trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu cho quá trình tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta; Nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đã được thiết lập và củng cố qua công cuộc cứu quốc và kiến quốc. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã được thiết lập, phát huy ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và sẽ tiếp tục được phát huy vai trò nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân tộc để đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; sự giúp đỡ của phong trào cách mạng thế giới và nhân loại tiến bộ mà trước hết là sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nhìn lại 30 năm đổi mới từ năm 1986 – 2016, Đảng ta đánh giá: “Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội từng bước hình thành, phát triển. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao”(3). Từ đó, khẳng định rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam đã góp phần minh chứng một chân lý của thời đại: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” và sự lựa chọn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng của nhân dân ta là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn. CN. Nông Thị Thanh Hường Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở Chú thích: (1): Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 84. (2): V.I.Lênin toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mácxcơva, 1980, tập 41, tr.295. (3): Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.65-66. Chia sẻ FacebookGoogle+EmailPrint Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đã được Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(1). Xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn phù hợp với quy luật chung đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay, phù hợp với điều kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đó là một tất yếu khách quan, được thể hiện ở cả phương diện lý luận và phương diện thực tiễn. Về mặt lý luận: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một kiểu quá độ gián tiếp (loại hình quá độ đặc biệt của đặc biệt). Khi nghiên cứu về sự phát triển của lịch sử, C. Mác và Ph.Ăng ghen đã khẳng định, lịch sử xã hội vừa phát triển theo con đường tuần tự, vừa phát triển theo con đường nhảy vọt. Năm 1881, khi theo dõi tình hình nước Nga, C.Mác cho rằng sự tồn tại đồng thời của nền kinh tế phương Tây đang thống trị trên thị trường thế giới, cho phép nước Nga có thể áp dụng những thành tựu mà chế độ tư bản đã đạt được mà không phải trải qua chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, Ph.Ăng ghen đã đề cập đến một điều kiện tiên quyết cho khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội của các nước lạc hậu như nước Nga lúc bấy giờ. Điều kiện đó chính là sự thắng lợi của giai cấp vô sản ở các nước phương Tây. Là một thuận lợi có thể tránh được những đau khổ mà các nước phương Tây đã trải qua. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt là từ sau cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại (1917), kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định tính tất yếu quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước tiền tư bản chủ nghĩa hoặc thuộc địa và phụ thuộc. Ông viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(2). Với quan điểm đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn trong việc xác định và lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, tính tất yếu của thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm. Trong Chính cương vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Ngay từ khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn loại hình quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa nửa phong kiến trên cơ sở thấm nhuần tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Về mặt thực tiễn: Trước khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước đã có nhiều sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã tìm đường cứu nước. Tuy nhiên, chưa có ai tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, do con đường mà họ lựa chọn không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử Việt Nam. Chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đọc được “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin thì con đường giải phóng dân tộc mới đem lại kết quả – giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bất công. Vì vậy, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu và phù hợp. Chủ nghĩa tư bản tuy đã có nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích, giải quyết có hiệu quả về phát triển kinh tế cũng như một số vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bản chất của chế độ áp bức, bóc lột thì không thay đổi, khoảng cách giàu nghèo, phân biệt màu da, chủng tộc chưa được khắc phục; nhiều tệ nạn xã hội chưa được giải quyết; khủng bố, gây chiến tranh vẫn là vấn đề nóng bỏng. Do vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là một xã hội mà tương lai của loài người muốn đạt tới. Ngoài ra, điều kiện cần thiết cho phép chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đó là: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thử thách, được khẳng định và trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu cho quá trình tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta; Nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đã được thiết lập và củng cố qua công cuộc cứu quốc và kiến quốc. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã được thiết lập, phát huy ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và sẽ tiếp tục được phát huy vai trò nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân tộc để đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; sự giúp đỡ của phong trào cách mạng thế giới và nhân loại tiến bộ mà trước hết là sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nhìn lại 30 năm đổi mới từ năm 1986 – 2016, Đảng ta đánh giá: “Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội từng bước hình thành, phát triển. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao”(3). Từ đó, khẳng định rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam đã góp phần minh chứng một chân lý của thời đại: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” và sự lựa chọn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng của nhân dân ta là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn. CN. Nông Thị Thanh Hường Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở Chú thích: (1): Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 84. (2): V.I.Lênin toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mácxcơva, 1980, tập 41, tr.295. (3): Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.65-66. Tài liệu Tính tất yếu của con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam docBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.9 KB, 14 trang ) TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ sản. Mác đã phân biệt sự khác nhau giữa những cải tạo của thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản lên chủ nghĩa xã hội với những cải tạo của thời kì sau. Tóm lại, từ những diễn giải trên ta có thể rút ra những kết luận sau: - sự cần thiết phải có thời kỳ quá độ để chuyển từ xã hội cũ-xã hội tư bản sang xã hội mới-xã hội chủ nghĩa, bởi vì các quan hệ xã hội chủ nghĩa không thể hình thành được trong lòng xã hội tư bản. - Nhà nước trong thời kỳ quá độ không phải cái gì khác hơn là sự chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản trong suốt thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS. - Thời kỳ quá độ vừa mang tính chất cách mạng của một sự chuyển biến sâu sắc vừa mang tính chất quá độ. Mác đã nhấn mạnh đến sự chuyển biến cách mạng từ xã hội cũ sang xã hội mới trong thời kỳ quá độ. Vì vậy, mọi hình thức đấu tranh giai cấp, mọi biện pháp, thủ đoạn hoạt động của 1 TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM giai cấp vô sản trong thời kỳ này nhằm tạo dựng được sự chuyển biến về chất của xã hội. Đồng thời chính Mác đã nhấn mạnh đến tính chất quá độ của thời kỳ này, trong đó cái gọi của xã hội cộng sản chưa phát triển trên cơ sở riêng của mình. Đây là sự chuyển từ xã hội cũ dựa trên chế độ công hữu, nó không thể diễn ra nhanh chóng, mà phải rất lâu. Nhưng cụ thể là bao lâu? Thì Mác chưa nêu ra được. Như vậy, Mác đã nêu lên một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận và thực tiễn rất lớn, muốn tiến lên chủ nghĩa cộng sản cần phải phân ra nhiều giai đoạn, tùy thuộc trình độ phát triển của trình độ sản xuất chứ không thể phát triển chủ nghĩa cộng sản dưới dạng hoàn chỉnh lý tưởng là xóa ngay lập tức mọi tư hữu, giai cấp và bóc lột. 2.Quan điểm của Lê nin về thời kỳ quá độ Những tư tưởng của Mác-Ănghen về thời kỳ quá độ đã được Lê nin tiếp tục phát triển sáng tạo trong thời kỳ mới. Lê nin là người đầu tiên kế tục sự nghiệp của Mác và Ănghen trong điều kiện lịch sử mới, khi cuộc đấu tranh nhằm lật đổ CNTB và xây dựng CNXH đã trở thành sự nghiệp thực tiễn, Lê nin đã cụ thể hóa và làm phong phú thêm quan điểm Macxit về thời kỳ quá độ. Lê nin đã bổ sung luận điểm của Mác-Ănghen về thời kỳ quá độ thể hiện ở hai nội dung sau: - Lê nin cho rằng cách mạng nổ ra và thắng lợi ở nước Nga (1917), sau đó nước Nga đã đánh thắng cuộc bao vây của 14 nước đế quốc và các thế lực phản động trong nước (1919-1922). Sau đó Lê nin đã đưa nước Nga vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Ông viết nhiều tác phẩm về thời kỳ quá độ ở nước Nga, trong đó ông viết “thời kỳ quá độ ở nước Nga là thời kỳ quá độ trực tiếp, và phải trải qua hai giai đoạn và rất lâu dài (thời kỳ quá độ của quá độ). Lê nin nói “bác những cây cầu nhỏ đi lên CNXH”. - Lê nin cho rằng các nước kém phát triển nông nghiệp, lạc hậu, tiểu nông cũng có thể tiến lên CNXH không qua giai đoạn TBCN với điều kiện là những nước đó phải do Đảng cộng sản lãnh đạo và có một nước XHCN tiên tiến giúp đỡ. Thời kỳ quá độ đó gọi là thời kỳ quá độ gián tiếp và rất lâu dài. Lê nin gọi đó là thời kỳ quá độ đặc biệt của đặc biệt. Hiện nay, CNXH đang gặp khó khăn lớn, nhưng đó chỉ là tạm thời của một thoái trào do những nguyên nhân đã rõ ràng về cơ bản. Kẻ thù tấn công về nhiều phía, tìm cách phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH ở các nước, xuyên tạc và phủ nhận những nguyên tắc cơ bản của CN Mác-Lê nin. Song, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định ngày nay vấn là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. “CNXH hiện nay đang đứng trước những khó khăn, thử thách, lich sử thế giới đang trải qua những bước quanh co song loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH, vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”. Như vậy, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam cũng là sự phù hợp với tính quy luật về lịch sử của thời đại, sự phát triển của thế giới ngày nay ngày càng nhanh, quy mô ngày càng lớn, điều đó đòi 2 TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM hỏi mỗi quốc gia dân tộc nếu không muốn phải tụt hậu thì phải chủ động, tích cực thực hiện những bước bỏ qua bằng phương thức rút gọn lịch sử. Với sự tác động to lớn do những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại làm cho quá trình phát triển ngày càng rút ngắn về mặt thời gian. 3. Quan niệm của Đảng ta về sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhận thức là một quá trình. Thông qua hoạt động thực tiễn, những yêu cầu và hoạt động thực tiễn nảy sinh và cùng với nó, những phương thức để giải quyết nhu cầu cũng xuất hiện. Điều đó đòi hỏi người cách mạng phải nhận thức và triệt để lợi dụng. Cách mạng nước ta không nằm ngoài quy luật ấy, với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng cùng một lúc, đó là cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, trên thực tế đây là nét độc đáo của cách mạng chưa từng có từ trước tới nay, nhưng đồng thời cũng nói lên sự phức tạp của cách mạng Việt Nam. Chưa từng có tiền lệ trong lịch sử mà chúng ta vẫn làm không có nghĩa là chúng ta sai, chúng ta mạo hiểm. Thực tiến lịch sử đã chứng minh điều đó hoàn toàn đúng đắn trong hoàn cảnh lịch sử trong nước và quốc tế lúc bấy giờ. Sau năm 1975 cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta đã mắc phải một số sai lầm trong nhận thức và chỉ đạo ví như: chúng ta đề ra chủ trương tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội trong khi đất nước còn thiếu những tiền đề cần thiết, thực hiện tập thể hóa nông nghiệp một cách gượng ép, không tự nguyện đối với nông dân,…kết quả là đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng. Trong hoàn cảnh đó yêu cầu đặt ra là phải có nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ. Vì thế đại hội IX của Đảng đã nhận định về thời kì quá độ ở Việt Nam như sau: • Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa • Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. • Bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải tiếp thu, kế thừa thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Thực ra, nhân loại đã sáng tại ra cả một nền văn hóa, văn minh nhân loại, nhưng qua mỗi thời kỳ, mỗi quá trình, giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của sự phát triển lại đặt dấu ấn của mình, đã “trạm khắc” vào những thành tựu chung ấy. Giai cấp tư sản cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Xét về một phương diện nào đó, giai cấp tư sản cũng có công nhất 3 TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM định trong lịch sử tiến hóa của nhân loại. Song, tất cả những thành tựu có trong chủ nghĩa tư bản, đương nhiên không phải riêng của giai cấp tư sản mà là của cả nhân loại, trong đó có giai cấp tư sản. Bởi vậy, đã là di sản văn hóa của nhân loại, chúng ta tuyệt đối không được quay lưng lại, thậm chí những gì cho dù là của riêng văn minh tư sản, thì cũng không được phép quay lưng lại mà phải biết tiếp thu, kế thừa. Không bao giờ chúng ta được quên lời dặn của C.Mác và Ănghen: “đừng vì căm ghét chủ nghĩa tư bản mà khi hắt chậu nước dơ, lại hắt luôn cả đứa trẻ vừa được tắm gội sạch sẽ”. Những kinh nghiệm quản lý vốn, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là khoa học-công nghệ mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản nhất thiết phải được tiếp thu và kế thừa để tăng thêm sức mạnh nội lực cho đổi mới và phát triển. B.CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỂ VIỆT NAM LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCN 1. Xét trên phương diện lịch sử Sự phát triển tuần tự theo từng nấc thang một là tính trên phạm vi toàn thế giới, nhưng đối với từng quốc gia không nhất thiết phải như vậy. Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội cũng đã có những quốc gia quá độ bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế xã hội mà không đi tuần tự, ví như nước Mỹ sau cuộc nội chiến Nam-Bắc (1861-1865), nước Mỹ đã bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ phong kiến mà tiến thẳng lên chủ nghĩa tư bản. Ở Việt Nam không tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ với tư cách là một chế độ đặc trưng, mà Việt Nam chỉ tồn tại chế độ nô tỳ. Như vậy, sự phát triển bỏ qua một giai đoạn đã có tiền lệ trong lịch sử. Thế giới sau cách mạng tháng Mười cũng đã có nhiều nước đi theo chế độ TBCN, nhưng những nước thành công không phải là nhiều ở những nước đó vẫn nghèo nàn và lạc hậu, bất bình đẳng. Điều đó chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản không phải là một chế độ có thể giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. 2.Xét trên góc độ thời đại Với thắng lợi của cách mạng tháng Mười (1917), cuộc cách mạng do công nông liên minh thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêcvích, cuộc cách mạng thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn, lần đầu tiên trong lịch sử trong một đất nước rộng lớn chiếm 1/6 diện tích thế giới quần chúng công nông đã giành được chính quyền và bắt tay vào xây dựng một chế độ mới-chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ đó con người được giải phóng hoàn toàn khỏi mọi áp bức bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc thực sự chứ không phải là cái khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bắc ái” mà bọn tư sản rêu rao. Như vậy, là với thắng lợi của cách mạng tháng Mười thì nhân loại đã có thêm một con đường mới để lựa chọn đó là con 4 TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chế độ tư bản chủ nghĩa không còn là con đường lựa chọn duy nhất của các nước sau khi giành được độc lập dân tộc. Và chế độ nào ưu việt hơn chế độ nào thì thực tế lịch sử đã chứng minh điều đó. Sau chiến tranh thế giới thứ hai thì một loạt các nước giành được độc lập dân tộc đã đi lên chủ nghĩa xã hội hay định hướng phát triển theo chế độ XHCN. Đây là một sự khích lệ rất lớn các nước đang đấu tranh để giành độc lập dân tộc. Do quá trình quốc tế hóa nền kinh tế, do sự phát triển của nền khoa học-kỹ thuật, hợp tác quốc tế,…tạo nên sự hợp tác giữa các quốc gia, sự hợp tác tùy thuộc vào nhau và tạo lên sự hợp tác giúp đỡ giữa các nước đi trước với các nước đi sau. 3. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là phù hợp với điều kiện lịch sử của đất nước ta, là sự lựa chọn tất yếu của chính lịch sử về con đường giải phóng dân tộc và phát triển đất nước của những phong trào yêu nước Việt Nam. Ngay sau khi thực dân Pháp đặt ách thống trị trên lãnh thổ Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên chống Pháp. Những cuộc đấu tranh khắp 3 miền Bắc-Trung-Nam, những ông vua đã đứng lên chống Pháp, rồi các phong trào theo xu hướng tư sản đầu thế kỷ XX do ảnh hưởng cách mạng dân chủ tư sản phương Tây và cách mạng Tân Hợi (Trung Quốc) nhưng cuối cùng đều thất bại. Cụ Phan Bội Châu về cuối đời đã nhận thức được con đường cách mạng Việt Nam, Cụ viết: “May thay, đang giữa lúc khói bụi, mây mù, thình lình có một trận gió xuân thổi tới. Chính giữa lúc trời khuya đất ngủ, thình lình có một tia thái dương mọc ra. Trận gió xuân ấy, tia thái dương ấy là chủ nghĩa xã hội vậy. Chủ nghĩa xã hội là xe tăng của nhà triết học để xông vào thành lũy của chủ nghĩa đế quốc, mà cũng là toán quân vô địch của nhà nhân từ để phá tan đồ đảng của chủ nghĩa tư bản”. Trong hoản cảnh đất nước bị quân xâm lược dầy xéo, nước mất nhà tan, nhân dân khổ cực lầm than. Bác Hồ của chúng ta đã ra đi tìm đường cứu nước, Người đã đi qua nhiều nước đế quốc, thuộc địa cũng như nửa thuộc địa. Quá trình trình khảo sát cách mạng đầy gian khổ đó người đã rút ra nhận định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”, bởi vì “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người có cuộc sống tự do, bình đẳng, bắc ái thực sự”. Nhân dân Việt Nam đã từng sống dưới chế độ phong kiến, chế độ thực dân Pháp đã hiểu được bản chất của chế độ phong kiến, của chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy, đã chấp nhận hy sinh, mất mát để giành cho được độc lập dân tộc và tiếp đó tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ để bảo bảo vệ chính quyền nhân dân. Ngày nay, chúng ta phải giữ cho được chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao 5 |