Tại sao chủ nghĩa đế quốc Nhật có đặc điểm là chủ nghĩa đế quốc quân phiệt hiếu chiến

Quân phiệt là gì? Quân phiệt tiếng Anh là gì? Chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt? Đặc điểm của chủ nghĩa quân phiệt? Quá trình quân phiệt hóa ở Nhật Bản diễn ra như thế nào?

Quân phiệt được hiểu là trào lưu dựa vào lực lượng quân đội để thực hiện các hành động chiếm quyền binh trong nước và đàn áp dân thường kiểm soát chính trị và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với cuộc sống của nhân dân trong nước và lâm vào tình trạng rất khổ cực. Vậy bạn đã hiểu như thế nào về quân phiệt và chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt? Hãy theo dõi ngay dưới đây để biết thêm chi tiết về nội dung này nhé.

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568

1. Quân phiệt là gì?

Chắc hẳn chúng ta đã nghe rất nhiều về thuật ngữ quân phiệt chính đây là việc những tướng lĩnh có thể khống chế được quân đội, kinh tế và quyền kiểm soát chính trị ở một vùng địa phương trong một quốc gia có chủ quyền nhờ vào khả năng huy động những đội quân trung thành, định nghĩa quân phiệt này được nêu rất rõ ràng trong từ điển.

Những đội quân này thường được coi là lực lượng dân quân, vốn rất trung thành với thủ lĩnh quân phiệt hơn là với Chính phủ ở Trung ương và chính thể nhà nước.

Có thể thấy đa số các quân phiệt tồn tại xuyên suốt phần lớn lịch sử, và thể thức này tồn tại ở nhiều các hình thức khác nhau bên trong cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ vô chính phủ.

Thuật ngữ quân phiệt được nhắc lần đầu tiên và xuất hiện lần đầu vào năm 1856, được triết gia và nhà thơ người Mỹ có tên là Ralph Waldo Emerson sử dụng trong một bài xã luận chỉ trích thậm tệ chế độ quý tộc ở nước Anh: “Hải tặc và chiến tranh đem đến nơi để phục vụ thương mại, chính trị và thư từ, từ quân phiệt (war-lord) cho đến luật phiệt, các đặc quyền đặc lợi được duy trì, trong khi các phương pháp để có được nó bị thay đổi.

Tóm lại, Quân phiệt là tình trạng quân nhân dựa vào lực lượng quân đội cậy thế lực chiếm quyền binh trong nước đàn áp dân thường.

Bên cạnh đó thì thuật ngữ cchir quân phiệt hay còn tên gọi khác là chủ nghĩa quân phiệt, là trào lưu tư tưởng chính trị phản động, chủ trương tăng cường sức mạnh quân sự và đẩy mạnh việc chuẩn bị về quân sự, do giới cầm quyền các nước đế quốc chủ nghĩa thi hành nhằm mục đích gây chiến tranh xâm lược, đàn áp các phong trào giải phóng dân tộc hay đàn áp các cuộc đấu tranh giai cấp của người lao động trong nước.

Với chủ nghĩa quân phiệt này thì nó có rất nhiều đặc điểm trong đó nổi bật vốn có của chủ nghĩa quân phiệt thường là chạy đua vũ trang, tăng nhanh ngân sách quân sự hay thành lập các khối quân sự – chính trị xâm lược, tăng cường ảnh hưởng của tổ hợp quân sự – công nghiệp đối với nền kinh tế và đường lối chính trị của Nhà nước, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền có tính chất sô-vanh.

Như chúng ta đã biết thì chủ nghĩa này tồn tại được xác định dựa trên cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa quân phiệt hiện đại chính là các chính sách chống cộng. Việc quân phiệt hoá nền kinh tế ở các nước TBCN dẫn đến làm giảm sút mạnh những khoản chỉ cho các nhu cầu xã hội, làm tăng thuế, nạn lạm phát, làm cho đời sống vật chất của người lao động xấu đi.

Do đó, khi chủ nghĩa quân phiệt hoành hành ở một nước, các mâu thuẫn kinh tế, xã hội và chính trị trở lên gay gắt.

2. Quân phiệt tiếng Anh là gì?

Quân phiệt trong tiếng Anh là “warlord”.

3. Chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt:

Trước đây khi nhắc về quân phiệt người ta thường nói đối với chủ nghĩa quân phiệt được hiểu là trào lưu tư tưởng chính trị phản động, chủ trương tăng cường sức mạnh quân sự và đẩy mạnh việc chuẩn bị về quân sự, do giới cầm quyền các nước đế quốc chủ nghĩa thi hành nhằm gây chiến tranh xâm lược, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, đàn áp các cuộc đấu tranh giai cấp của người lao động trong nước.

Với một đế quốc phong kiến họ sử dụng chủ nghĩa quân phiệt để làm tư tưởng của một chính phủ cho rằng nhà nước nên duy trì khả năng quân sự một cách mạnh mẽ và sử dụng để mở rộng lợi ích hoặc giá trị quốc gia.

Chủ nghĩa quân phiệt cũng nói lên rằng tư tưởng của nhà nước về sự tôn vinh của quân đội và lý tưởng của một lớp quân sự chuyên nghiệp và “ưu thế của các lực lượng vũ trang trong chính quyền hoặc chính sách của nhà nước.

Khi nhắc về quân phiệt có thể hiểu đó là chế độ tiêu biểu được xuất hiện tại các nước như thành phố Hy Lạp Sparta, Đế quốc La Mã, Đế quốc Phổ, Đế quốc Anh, Đế quốc Nhật Bản, Đế quốc Mông Cổ, Đức Quốc xã và chủ nghĩa đế quốc Mỹ.

Theo đó với chế độ quân phiệt này sau chiến tranh thế  giới thứ hai, chủ nghĩa quân phiệt xuất hiện qua nhiều nước sau thời kỳ thực dân tại châu Á (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Myanmar và Campuchia của Pol Pot) và ở châu Phi (như Liberia, Nigeria và Uganda).

Một số nước phong kiến họ có tư tưởng quân phiệt họ thực hiện chế độ trang bị vũ khí quá mức, vai trò của quân đội gia tăng trong chính trị đối nội và đối ngoại hoặc là sử dụng bạo động như vũ khí cho chính trị. Họ thường tạo ra một lãnh tụ độc đoán, có nhiều quyền lực, và hung tợn.

Thường giữa các nước có chế độ quân phiệt này thì họ sẽ thường chú trọng đến những tập quán quân sự và địa vị như phân chia cấp bậc, huy chương, danh dự và anh hùng.

4. Đặc điểm của chủ nghĩa quân phiệt:

Sau đây là một số đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa quân phiệt:

– Mặc đồng phục, tuân lời và phân biệt cấp bậc rõ ràng

– Huy chương, huyền thoại, sùng bái anh hùng

– Say mê quyền lực và tính ưu việt

+ Ca tụng bạo lực, chiến tranh và vũ khí

+ Khoe khoang sức mạnh và sự bất khuất

Một đặc điểm nữa của chủ nghĩa quân phiệt đó là trong những xã hội mà bị quân sự hóa nặng nề, và tất nhiên đối với xã hội đósẽ có một thể chế độc tài, các thành viên thường bị đòi hỏi, từ bỏ giá trị cá nhân và đạo đức cho chính phủ quân đội.

Không những vậy khi ở trong xã hội quân phiệt và tu tưởng này đè nén thì con người được mài dũa phải từ bỏ cá tính riêng của mình để có được đặc tính chung thích hợp với xã hội đó. Lãnh tụ được hình tượng hóa. Người ta chấp nhận cái chế độ đó không xét lại.

Cuối cùng đólà sự ảnh hưởng từ sự trao dồi về quân sự với mục đích là để luyện cho binh lính tuân lệnh, không đắn đo khi phải giết người khác tạo ra một chế độ quân phiệt tàn độc. Con người bị ảnh hưởng của tập thể phải từ bỏ cá tính riêng của mình. Những hệ thống như vậy được duy trì nhờ sự kiểm soát, tội lỗi, sợ bị phạt. Một mặt khác những phần thưởng như tăng lương, tăng chức và các gương mẫu chiêu dụ người ta làm theo.

5.  Quá trình quân phiệt hóa ở Nhật Bản diễn ra như thế nào?

Như vậy từ các nội dung đã nêu ra như trên ta thấy rằng nhằm khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế, giới cầm quyền Nhật Bản đã chủ trương quân phiệt hóa bộ máy nhà nước, gây chiến tranh xâm lược, bành trướng ra bên ngoài.

– Đặc điểm:

+ Quá trình quân phiệt hóa diễn ra thông qua việc quân phiệt hóa bộ máy nhà nước và tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa.

+ Do có sẵn chế độ chuyên chế Thiên hoàng nên quá trình quân phiệt hoá bộ máy nhà nước diễn ra thông qua sự chuyển đổi từ nền dân chủ tư sản đại nghị sang chế độ chuyên chế độc tài phát xít. Quá trình này kéo dài trong suốt thập kỉ 30.

– Cùng với việc quân phiệt hóa nhà nước là việc đẩy mạnh chiến tranh xâm lược.

+ Năm 1931, Nhật đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, biến đây thành bàn đạp để tấn công châu Á.

+ Nhật Bản thực sự trở thành lò lửa chiến tranh ở châu Á và trên thế giới.

Có thể nói khi nhắc tới chế độ quân phiệt người ta thường nhắc nhiều tới Nhật bản, tại sao lại vậy, vì dưới triều đại của mình, Thiên hoàng Minh Trị luôn kiên trì chính sách kiêm lục hợp (gồm thu bốn bể) và yểm bác hoành (gồm thu toàn cầu), tức chính sách bành trướng xâm lược, mở rộng lãnh thổ ra bên ngoài. Có lần ông đích thân tham gia diễn tập quân sự và thường cho gọi các binh sĩ đến để tuyên dương, khuyến khích “oai nước”, đề cao “vận nước” của Nhật Bản.

Không những vậy để xây dựng xã hội và chế độ quân phiệt Đại Nhật Bản Đế quốc Hiến pháp năm 1889, Nhật Bản là quốc gia theo chính thể quân chủ lập hiến, Thiên hoàng và tập đoàn quân phiệt nắm giữ mọi quyền hành. Theo Hiến pháp, Thiên hoàng có quyền hành “thiêng liêng bất khả xâm phạm”, là Nguyên thủ quốc gia, nắm trọn quyền thống trị. Tuy nhiên, Thiên hoàng buộc phải dựa vào các điều luật ghi trong Hiến pháp để thực thi đại quyền của mình, và khi Thiên hoàng lấy danh nghĩa của mình để ban bố các sắc lệnh về pháp luật, quốc vụ thì “phải được quốc vụ đại thần cùng ký tên”. Như vậy bản Hiến pháp cũng đã hạn chế ảnh hưởng của Thiên hoàng trong việc triều chính, góp phần giúp Nhật Bản chuyển dần từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến, chính trị đảng phái của giai cấp tư sản.

Trên đây là các thông tin chúng tôi tư vấn về nội dung ” Quân phiệt là gì? Chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt” và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành. Hi vọng các thông tin trên đây sẽ hữu ích đối với bạn đọc nhất.

Câu hỏi: Vì sao nói chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản là chủ nghĩa đế quốc quân phiệt?

A.Do Nhật Bản không xóa bỏ mà chỉ cải cách chế độ phong kiến cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước

B.Do tầng lớp võ sĩ Samurai vẫn là lực lượng chính trị có ưu thế lớn và ảnh hưởng đến con đường phát triển ở Nhật Bản

C.Do những tàn tích phong kiến vẫn được bảo lưu ở Nhật và chủ trương xây dựng đất nước bằng quân sự

D.Do Nhật Bản xác định vươn lên trong thế giới tư bản bằng con đường tiến hành chiến tranh mở rộng lãnh thổ

Lời giải:

Đáp án đúng: C.Do những tàn tích phong kiến vẫn được bảo lưu ở Nhật và chủ trương xây dựng đất nước bằng quân sự

Giải thích:

Mặc dù tiến lên chủ nghĩa tư bản, song Nhật Bản vẫn duy trì quyền sở hữu ruộng đất phong kiến. Tầng lớp quý tộc, đặc biệt là giới võ sĩ Samurai vẫn có ưu thế chính trị rất lớn. Họ chủ trương xây dựng Nhật Bản bằng sức mạnh quân sự. Tình hình đó làm cho đế quốc Nhật có đặc điểm là chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt

Cùng Top lời giải ôn tập kiến thức về chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản nhé.

1. Nhật Bản từ nửa đầu thế kỉ XIX đến trước năm 1868

a.Chính trị:

- Nhật Bản vẫn là một nước quân chủ chuyên chế.

+ Đứng đầu nhà nước là Thiên hoàng.

+ Quyền lực thực tế tập trung trong tay So-gun (Tướng quân) – người đứng đầu của chính quyền Mạc phủ Tôkugaoa.

Các nước thực dân, đế quốc phương Tây sử dụng sức mạnh quân sự, đòi Nhật Bản phải “mở cửa”.

b.Xã hội.

- Chế độ đẳng cấp vẫn được duy trì.

+ Tầng lớp Đaimio – quý tộc phong kiến lớn, quản lí các lãnh địa trong nước, có quyền lực tuyệt đối trong các lãnh địa.

+ Tầng lớp Samurai bị suy giảm thế lực, đời sống gặp nhiều khó khăn.

- Xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới:

+ Tầng lớp tư sản công – thương nghiệp ngày càng giàu có, song không có thế lực về chính trị.

+ Bình dân thành thị ngày càng gia tăng.

- Đời sống các tầng lớp nhân dân khổ cực, mâu thuẫn gay gắt với chế độ phong kiến chuyên chế.

⇒ Nhật Bản đứng trước hai sự lựa chọn:

+ Tiếp tục duy trì chế độ phong kiến trì trệ⇒ bị các nước phương Tây xâm lược.

+ Tiến hành duy tân, đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.

c.Kinh tế

- Nông nghiệp vẫn dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu; tình trạng mất mùa đói kém liên tiếp xảy ra,..

- Ở các thành thị, mầm mống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng:

+ Xuất hiện các công trường thủ công quy mô lớn.

+ Xuất hiện các thành thị, hải cảng buôn bán tấp nập, ví dụ: E-đô, Ky-ô-tô,...

2. Nội dung cơ bản của cuộc Duy tân Minh Trị

Tháng 1-1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện một loạt cải cách tiến bộ nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng một nước phong kiến lạc hậu. Cuộc Duy tân Minh Trị được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa - giáo dục,…

- Về chính trị:

+ Thủ tiêu chế độ Mạc phủ, thành lập chính phủ mới, trong đó đại biểu của tầng lớp quý tộc tư sản hóa đóng vai trò quan trọng, thực hiện quyền bình đẳng giữa các công dân.

+ Năm 1889, Hiến pháp mới được ban hành, chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập.

- Về quân sự:

+ Tổ chức và huấn luyện quân đội theo phương Tây, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh.

- Về kinh tế:Thống nhất thị trường, tiền tệ, cho phép mua bán ruộng đất, tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống,…

+ Công nghiệp đóng tàu chiến được chú trọng, tiến hành sản xuất vũ khí, đạn dược và mời chuyên gia quân sự nước ngoài,…

- Về giáo dục:thi hành chính sách giáo dục bắt buộc, chú trọng nội dung khoa học - kĩ thuật, cử học sinh giỏi đi du học ở phương Tây,…

3. Nhật Bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa

- Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX (sau chiến tranh Trung - Nhật (1894-1895), kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ.

- Quá trình tập trung trong công nghiệp, thương nghiệp với ngân hàng đã đưa đến sự ra đời những công ty độc quyền, Mít-xưi, Mit-su-bi-si chi phối đời sống kinh tế, chính trị Nhật Bản.

- Đầu thế kỉ XX, Nhật thi hành chính sách xâm lược và bành trướng:

+ Năm 1874 Nhật xâm lược Đài Loan.

+ Năm 1894 – 1895 Nhật gây chiến với Trung Quốc để tranh giành Triều Tiên, uy hiếp Bắc Kinh, chiếm cửa biển Lữ Thuận, nhà Thanh phải nhượng Đài Loan và Liêu Đông cho Nhật

+ Năm 1904-1905 Nhật gây chiến với Nga buộc Nga phải nhường cửa biển Lữ Thuận, đảo Xa-kha-lin, thừa nhận Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên.

+ Năm 1914, Nhật dùng vũ lực mở rộngảnh hưởngở Trung Quốc và chiếm Sơn Đông. Nhật trở thành đế quốc hùng mạnh nhất châu Á.

- Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự bần cùng hoá của quần chúng nhân dân lao động.

- Chủ nghĩa đế quốc Nhật được gọi là “Chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt, hiếu chiến”