Tại sao gọi là cộng sản nguyên thủy

Công xã nguyên thủy là gì? Công xã nguyên thủy trong tiếng Anh là gì? Tìm hiểu về công xã nguyên thủy?

Loại người đã có lịch sử phát triển từ hàng triệu năm về trước. Công xã nguyên thủy được biết đến chính là giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển của lịch sử loài người. Giai đoạn này đã được bắt đầu từ khi loài người xuất hiện cho đến khi nhà nước ra đời và nó đã kéo dài hàng triệu năm. Công xã nguyên thủy là một giai đoạn mà cho đến tận bây giờ vẫn luôn là một đề tài được rất nhiều người quan tâm và nghiên cứu. Tuy nhiên, hiện nay lại có rất ít người có những kiến thức liên quan đến thời đại này. Chính vì thế, trong bài viết hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu công xã nguyên thủy là gì? Tìm hiểu về công xã nguyên thủy?

Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

1. Công xã nguyên thủy là gì? 

Chế độ công xã nguyên thủy xuất hiện và đây cũng chính là giai đoạn đầu tiên và dài nhất trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu từ khi có con người xuất hiện trên trái đất cho tới tận khi xã hội phân chia thành giai cấp và có sự xuất hiện nhà nước. Nguyên nhân của tình trạng trì trệ đó thực chất chính là vì có sự phát triển hết sức thấp kém và chậm chạp của điều kiện lao động kiếm sống của mỗi con người.

Ta thấy được rằng, trong suốt quá trình phát triển của chế độ công xã nguyên thủy, nguyên liệu chủ yếu mà con người sử dụng để có thể chế tạo ra các công cụ lao động đó chính là đá, đá là một thứ nguyên liệu vừa cứng lại vừa giòn, mà từ đá con người cũng sẽ chỉ có thể chế tạo ra được những công cụ khá thô sơ và muốn hoàn thiện các công cụ này cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Không những thế mà ở thế độ công xã nguyên thủy, cả đến những thói quen lao động của con người cũng còn hết sức lạc hậu. Từ kỹ thuật ghè đẽo mà con người có thể tiến tới kỹ thuật mài đá cũng đã đòi hỏi sự tích lũy kinh nghiệm hàng vạn năm.

Bởi vì có trình độ kĩ thuật còn thấp kém, người nguyên thủy cũng đều phải hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Hoàn cảnh đó cũng đã bắt buộc loài người nguyên thuỷ sẽ phải liên kết với nhau trong lao động tập thể và trong đấu tranh để có thể sinh tồn.

Cũng cũng bởi vì thế, trong xã hội nguyên thủy đã không có chiếm hữu tư nhân, không có người bóc lột và trong xã hội này cũng đã không có bộ máy chính quyền dưới bất cứ hình thức nào. Chế độ công xã nguyên thủy là một xã hội chưa có giai cấp, chưa có nhà nước nên được gọi là chế độ công xã nguyên thủy.

2. Công xã nguyên thủy trong tiếng Anh là gì? 

Công xã nguyên thủy trong tiếng Anh là: Primitive commune.

3. Tìm hiểu về công xã nguyên thủy:

Sự hình thành và phát triển của xã hội nguyên thủy được chia làm các giai đoạn cụ thể như sau:

– Thứ nhất là hình thành thị tộc và bộ lạc:.

+ Những đối tượng là người tinh khôn ra đời sẽ có khả năng ăn tạp, ban đầu người tinh khôn sống dựa theo hái lượm cây trái và săn bắt các con thú. Bên cạnh những kỹ năng như tự kiếm ăn, người tinh khôn cũng đã biết hợp ức nhau để săn đuổi, hay có nghĩa là dùng số đông người bao vây lấy một bầy động vật, dồn các động vật này cho chúng lao xuống vực, sau đó thì mới ném đá, phóng lao xuống cho chúng chết hẳn. Cũng chính vì thế mà đối với những công việc như thế đòi hỏi sự phối hợp ăn ý với nhau.

+ Những đối tượng là người tinh khôn với số lượng nhất định sẽ kế thừa lối sống trưởng tổ tiên, và họ cũng đã tổ chức thành thị tộc là những nhóm người bao gồm vài chục gia đình, các gia đình sẽ có quan hệ gần gũi với nhau, thậm chí do cùng một bà mẹ đẻ ra [còn gọi là có quan hệ huyết thông với nhau], họ đều sống quây quần cùng làm chung ăn chung.

+ Theo mô tả trong các sách lịch sử Việt Nam thì nội bộ thị tộc, người ta đều sẽ không phân biệt đâu là của anh đâu là của tôi. Chúng ta cũng có thể hiểu là, trong một thị tộc thì sẽ không có sở hữu tư nhân nhưng trong một thị tộc đó sẽ có sở hữu của thị tộc. Tuy nhiên, là một động vật xã hội thì trong thị tộc sẽ có sự phân chia đẳng cấp nhất định.

Sự phân chia này đã góp phần quan trọng giúp xác định nhiệm vụ của các chủ thể là những cá thể trong các hoạt động có tổ chức khi thực hiện việc săn bắt hoặc tranh chấp lãnh thổ. Tại các thị tộc khác nhau thì quan hệ quyền lực của đẳng cấp với nhau cũng sẽ là khác nhau, giống như các dân tộc hiện đại hiện đang có những tập quán khác nhau.

+ Mỗi thị tộc đều sẽ chiếm cứ một khu vực đã được xác định, hay khu vực này sẽ được gọi là lãnh thổ của thị tộc. Sự phát triển không đều của các thị tộc, bao gồm có hoặc phát triển lên và phân chia ra các thị tộc mới, hoặc sự tàn lụi của các thị tộc do bệnh tật hay tai biến, cùng với xâm lấn lãnh thổ của thị tộc khác, dẫn đến lãnh thổ của các thị tộc cũng sẽ có thể thay đổi.

Áp lực dân số từ các thị tộc phát triển hơn, từ đó mà nó đã dẫn đến các biên giới lãnh thổ thay đổi theo định hướng nhất định, việc này cũng đã tạo ra hiện tượng gọi là các dòng di cư sớm thời tiền sử.

Chúng ta hiểu thị tộc được hiểu Ɩà một nhóm bao gồm hơn 10 gia đình chung sống với nhau và trong thi tộc sẽ có gồm 2-3 thế hệ già trẻ cùng chung dòng máu. Trong thị tộc con cái sẽ có trách nhiệm phải tôn kính ông bà cha mẹ và ngược lại. Bộ lạc được hiểu Ɩà tổ chức lớn hơn thị tộc và nó sẽ bao gồm 1 số thị tộc. Các thị tộc trong bộ lạc sống cạnh nhau và cùng họ hàng cũng như cùng nguồn gốc tổ tiên xa xôi. Ta thấy rằng, cả bộ lạc và thị tộc đầu có cùng một nguyên tắc đó Ɩà; nguyên tắc công bằng, bình đẳng, cùng nhau Ɩàm ra và cùng nhau hưởng, mọi người đều cùng hợp tác lao động và mọi thứ đều Ɩàm chung, ăn chung và đều là việc chung

– Tiếp theo là thời đại kim khí:

+ Sự phát hiện ra kim loại để nhằm mục đích có thể làm công cụ lao động trong xã hội công xã nguyên thuỷ có ý nghĩa hết sức to lớn. Trước kia, ở giai đoạn trước, mỗi con người chỉ biết sử dụng đá để làm công cụ. Cho tới khoảng 4000 năm Trước công nguyên, con người đã phát hiện ra đồng kim loại. Đồng kim loại có tính chất rất mềm, nên con người sẽ chủ yếu dùng làm đồ trang sức. Sau đó, con người cũng đã biết pha đồng với thiếc và chì cho đồng cứng hơn gọi là đồng thau.

+ Và cũng chính từ đó, người ta đã đúc ra được các loại cụ thể như là: rìu, cuốc, thương giáo, lao, mũi tên, trống đồng và nhiều loại công cụ khác. Khoảng 3000 năm trước đây, các chủ thể là những cư dân ở Tây Á và Nam Âu là những người đầu tiên biết đức và dùng đồ sắt để có thể làm lưỡi cày, cuốc, liềm, kiếm, dao găm …

+ Ta thấy rằng, dựa vào việc có công cụ kim khí, con người có thể khai phá thêm đất hoang, tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa.

Nhờ vào việc đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm sản xuất và chế tạo được nhiều loại công cụ thích hợp, con người cũng thông qua đó mà đã biết khai hoang, mở rộng đối với diện tích trồng trọt. Con người trong giai đoạn này cũng đã biết dùng những chiếc cày bằng gỗ, có lưới bằng kim loại do súc vật kéo. Nông nghiệp dùng cày cũng vì thế mà đã ra đời ở lưu vực những dòng sông lớn, nơi mà có đất đai rộng và màu mỡ, người ta ở giai đoạn đó còn biết lợi dụng những kì nước sông dâng cao, đào mương để có thể dẫn nước tưới vào đồng ruộng, hoặc ngược lại, con người cũng đã biết đắp đê ngăn lũ để nhằm mục đích có thể bảo vệ mùa màng.

Không những thế mà ngành chăn nuôi cũng phát triển mạnh mẽ. Thông qua việc có năng suất lao động ngày càng tăng, ngành trồng trọt không những cung cấp đủ lương thực cho những chủ thể là người chuyên làm nông nghiệp, mà trồng trọt còn có một phần dư thừa dùng cho những chủ thể là những người chuyên nghề chăn nuôi. Vì thế mà ở những nơi có nhiều đồng cỏ, một số bộ lạc cũng đã chuyển hẳn sang sống bằng kinh tế du mục hay nửa du mục. Một số bộ lạc này đã chăn nuôi từng đàn súc vật lớn trên những thảo nguyên mênh mông.

– Cuối cùng đó chính là sự kết thúc của xã hội nguyên thủy:

+ Bởi vì có công cụ lao động mới nên một số người có khả năng lao động giỏi hơn, những người này cũng đã vì thế mà có thể tạo ra nhiều của cải hơn dẫn tới sự dư thừa hoặc lợi dụng vị trí hay uy tín của mình để những người này đã có thể chiếm đoạt một phần của cải dư thừa của người khác và những người này cũng đã vì thế mà dần trở nên giàu có, còn một số người khác lại khổ cực và thiếu thốn.

+ Cũng chính bởi vì điều đó mà chế độ làm chung, ăn chung, hưởng chung ở thời kỳ công xã thị tộc bị phá vỡ. Xã hội nguyên thủy cũng bởi vậy mà đã dần tan ra, nhường chỗ cho xã hội có giai cấp ra đời và phát triển.

Video liên quan

Chủ Đề