Tại sao hàng hóa lại có hai thuộc tính và hai thuộc tính đó không thể tách rời nhau?

1. Hàng hóa là gì?

Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên thị trường.Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong muốn, nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi hay mua bán.

Karl Marx định nghĩa hàng hoá trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thoả mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng hoá cần phải có:

  • Tính hữu dụng đối với người dùng
  • Giá trị [kinh tế], nghĩa là được chi phí bởi lao động.
  • Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm.

Theo định nghĩa của Karl Marx,hàng hóasản phẩm của lao động, thông qua trao đổi, mua bán có thể thỏa mãn một số nhu cầu nhất định của con người. Hàng hóa có thể đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất.

Hàng hóa có thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể. Từ khái niệm này, ta có thể rút ra kết luận một đồ vật muốn trở thành hàng hoá cần phải thỏa mãn 3 yếu tố:

  • Hàng hóa là sản phẩm của lao động
  • Hàng hóa có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người
  • Thông qua trao đổi, mua bán

Sự thay đổi và phát triển nhận thức đối với đời sống kinh tế dẫn đến cách hiểu hàng hóa không như các nhà kinh tế cổ điển xác định. Phạm trù hàng hóa mất đi ranh giới của sự hiển hiện vật lý của vật thể và tiến sát đến gần phạm trù giá trị. Tiền, cổ phiếu, quyền sở hữu nói chung, quyền sở hữu trí tuệ nói riêng,sức lao động, v.v. được xem là hàng hóa trong khi chúng không nhất thiết có những tính chất như đã liệt kê trên.

Khái niệm hàng hóa là gì? Hai thuộc tính của hàng hóa

Sự ra đời của hàng hóa gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Đánh dấu sự ra đời của hàng hóa là sự hình thành các bộ lạc. Con người không thể tự sản xuất tất cả mọi thứ để đáp ứng nhu cầu của mình và họ bắt đầu trao đổi với nhau để đảm bảo sự sinh tồn. Chỉnh bởi tính cấp thiết của hàng hóa trong xã hội, từ trước Mác, đến Mác và sau Mác đã có rất nhiều lý luận ra đời nhằm nghiên cứu cho loại vật chất mang tên “hàng hoá”. Vậy hàng hóa là gì? Hai thuộc tính của hàng hóa là gì? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu qua bài viết này nhé!

Hàng hóa là gì?

Hàng hóa hiểu một cách đơn giản là sản phẩm mang lại kinh tế hữu hình. Chúng sẽ được sử dụng để góp phần thỏa mãn nhu cầu con người trực tiếp hoặc gián tiếp. Còn trong kinh tế chính trị Mác – Lênin lại được định nghĩa giống như sản phẩm hình thành do lao động. Phải lao động và trao đổi mua bán mới tạo ra hàng hóa.

Những mặt hàng tiêu dùng hay hàng đầu tư được coi như yếu tố quan trọng góp mặt vào tổng sản phẩm trong nước. Còn những loại hàng hóa liên quan đến phạm trù kinh tế thuộc loại khan hiếm.

Nhiều người vẫn đắn đo tại sao hàng hóa có 2 thuộc tính?

Ngoài ra còn có một số loại hàng hóa mà ai cũng muốn sở hữu nhiều khi điều kiện cho phép.

Đặc trưng cơ bản hai thuộc tính của hàng hóa

Mỗi một hình thái kinh tế khác nhau, hàng hóa sản xuất ra sẽ mang bản chất khác nhau. Tuy nhiên, mỗi vật phẩm khi sản xuất cũng đều đã mang hình thái hàng hóa. Và chúng đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị và giá trị sử dụng. Trước khi đi tìm câu trả lời cho thắc mắc: “Vì sao hàng hóa có hai thuộc tính?” thì cần đi tìm hiểu đặc trưng của nó.

Giá trị sử dụng

Giá trị sử dụng trước tiên cần phải thỏa mãn nhu cầu cụ thể của con người. Khi hàng hóa là vật liệu sinh hoạt thì nhu cầu đó còn cần phải được thỏa mãn trực tiếp. Còn trường hợp là tư liệu sản xuất thì cần phải thỏa mãn một cách gián tiếp. Đương nhiên, chúng sẽ có những đặc trưng cơ bản như:

– Về số lượng giá trị sử dụng của tư liệu không phải sẽ phát hiện ra ngay lúc đó. Thường sẽ được phát hiện dần dần qua quá trình phát triển của khoa học – kỹ thuật.

– Giá trị sử dụng còn được gọi là công cụ hàng hóa. Nó được quyết định dựa vào thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa.

Giá trị sử dụng của một mặt hàng phụ thuộc vào thuộc tính tự nhiên của sản phẩm

Với cách lý giải như vậy nên giá trị sử dụng thuộc phạm trù vĩnh viễn.

– Giá trị sử dụng chỉ bộc lộ rõ nhất khi con người sử dụng hoặc tiêu dùng. Chúng sẽ liên quan mật thiết đến nội dung vật chất của cải. Và tất nhiên sẽ không kể đến hình thức của số của cải đó ra sao.

Nói tóm lại, một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Thế nhưng không phải bất kể vật nào có giá trị sử dụng cũng được coi là hàng hóa. Một ví dụ rõ nhất, không khí rất cần thiết cho cuộc sống con người nhưng không được nhận định là hàng hóa. Những quả dại, nước từ thiên nhiên cũng đem lại giá trị sử dụng nhưng không coi là hàng hóa.

Do đó, một vật muốn được coi là hàng hóa khi giá trị sử dụng của nó phải sản xuất. Khi đó được dùng để bán, trao đổi thành tiền hay vật ngang giá. Tức là vật phải tạo ra giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hóa đã nhận định, giá trị sử dụng sẽ đem lại giá trị trao đổi.

Giá trị vật phẩm, hàng hóa

Giá trị hàng hóa sẽ ngang bằng với vật ngang giá hoặc quy đổi ra tiền tệ

Muốn hiểu rõ về giá trị hàng hóa phải xuất phát chính từ giá trị trao đổi đã nhận định. Hay cụ thể hơn thì giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

Giá trị trao đổi

Giá trị trao đổi được biết đến là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này chuyển đổi với giá trị sử dụng khác. Ví dụ dùng 1 mét vải để đổi lấy 5kg hồng. Tức là 1 mét vải có giá trị trao đổi bằng 5kg hồng.

Vấn đề cần bàn luận ở đây là tại sao hàng hóa có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa? Và lý do hai giá trị trao đổi được với nhau theo tỷ lệ nhất định? Có thể lý giải như sau:

– Cái chung không thể coi như giá trị sử dụng bởi hai loại hàng hóa có công dụng không giống nhau. Chẳng hạn thuốc để uống, gạo để ăn còn vải để mặc. Chính những sự khác nhau đó là điều kiện cần thiết giúp trao đổi xảy ra. Bởi không có ai đem trao đổi những vật phẩm có giá trị sử dụng giống hệt nhau.

– Điểm chung đặc biệt chính là gạo, thuốc hay vải đều sản sinh trong quá trình lao động. Phải lao động mới kết tinh được như thế. Dựa vào cơ sở chung đó mà hàng hóa được trao đổi với nhau dễ dàng.

Theo Mác giá trị trao đổi biểu hiện một mối quan hệ

Nói cách khác, con người trao đổi hàng hóa với nhau cũng là trao đổi lao động của mình. Và giá trị lao động đó ẩn dấu trong hàng hóa.

Việc hao phí lao động để tạo ra hàng hóa kết tinh là cơ sở chung cho mọi trao đổi khác. Từ đó hình thành giá trị hàng hóa lao động.

Giá trị hàng hóa lao động

Giá trị hàng hóa lao động của người sản xuất được kết tinh trực tiếp trong hàng hóa. Nó đều được biểu hiện thông qua giá trị trao đổi hay còn gọi là giá trị nội dung. Chúng cũng là cơ sở để trao đổi giá trị.

Không chỉ thế, chúng còn được biểu hiện rõ nét thông qua mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Bởi trao đổi hàng hóa là cách so sánh lượng hao phí lao động giữa người sản xuất hàng hóa với nhau. Quan hệ lúc này sẽ là vật với vật thay vì giữa con người với nhau.

Hiểu đơn giản, giá trị hàng hóa như một phạm trù lịch sử. Nó chỉ tồn tại được ở nền kinh tế hàng hóa. Chỉ khi sản xuất ra hàng hóa mới tạo ra giá trị vật phẩm.

||Bạn có biết: Vật Chất Quyết Định Ý Thức Như Thế Nào? Mối Quan Hệ – Ví dụ

1. Hàng hóa là gì?

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ…

Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

2. Hai thuộc tính của hàng hóa

a. Giá trị sử dụng của hàng hóa

Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó [tính có ích] làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng. Ví dụ, công dụng của gạo là để ăn, vải để may mặc…

Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên [lý, hóa học] của thực thể hàng hóa đó quyết định, vì vậy giá trị sử dụng là một phạm trù mang tính vĩnh viễn.

Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng càng cao.

Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là giá trị sử dụng của người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì hàng hóa của họ mới bán được.

Trong kinh tế hàng hóa, vật mang giá trị sử dụng cũng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi.

b. Giá trị của hàng hóa

Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một lượng giá trị sử dụng này đổi được với một lượng giá trị sử dụng khác.

Thí dụ: 1m vải = 5 kg thóc.

Tức 1 m vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.

Vấn đề là, tại sao vải và thóc lại có thể trao đổi được với nhau, và hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định [1:5]?

Hai hàng hóa khác nhau [vải và thóc] có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có một lượng lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn giấu trong những hàng hóa ấy.

Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa.

Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.

c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính

Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.

Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa, tức một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới trở thành hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó vật phẩm sẽ không phải là hàng hóa. Chẳng hạn, một vật có ích [tức có giá trị sử dụng], nhưng không do lao động tạo ra [tức không có kết tinh lao động] như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hóa.

Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về chất, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hóa.

Thứ hai, tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả không gian và thời gian: giá trị được thực hiện trước, trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó, nếu giá trị của hàng hóa không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. Như vậy, mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.

Khi cung > hơn cầu, Giá cả < giá trị người bán bị thiệt, người mua hưởng lợi, và ngược lại, khi cung < hơn cầu, giá cả > giá trị người bán có lợi, người mua phải trả giá cao hơn, khi cung = cầu, giá cả = giá trị, mua ,bán đúng giá trị của hàng hóa.

Thế nào là hàng hóa? Hàng hóa có những thuộc tính gì? Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa?

Quảng cáo

- Khái niệm hàng hoá

Hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có thể thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của con ngưòi thông qua trao đổi, mua bán.

- Hai thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị.

Giá trị sử dụng:

+ Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, không kể nhu cầu đó được thỏa mãn trực tiếp hay gián tiếp.

+ Đặc trưng giá trị sử dụng của hàng hóa:

* Hàng hóa có thể có một hay nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác nhau. Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ thuật.

* Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn vì giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định.

* Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng [tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng cho cá nhân], nó là nội dung vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào.

* Hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng, hiện đại thì giá trị sử dụng càng cao.

Giá trị hàng hóa:

Một vật, khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi.

+ Giá trị trao đổi:

* Khái niệm: Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.

* Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc

* Hai vật thể khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ sở chung nào đó. Vì các hàng hóa khác nhau về giá trị sử dụng nên không thể lấy giá trị sử dụng để đo lường các hàng hóa. Các hàng hóa khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng có thể so sánh được với nhau trong khi trao đổi: các hàng hóa đều là sản phẩm của lao động, sản phẩm của lao động là do lao động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Thực chất các chủ thể khi trao đổi hàng hóa với nhau là trao đổi lao động chứa đựng trong hàng hóa. Trong ví dụ trên, giả sử người thợ dệt làm ra được 1 m vải mất 5 giờ, người nông dân làm ra 10 kg thóc cũng mất 5 giờ. Trao đổi 1 m vải lấy 10 kg thóc thực chất là trao đổi 5 giờ lao động sản xuất ra 1 m vải với 5 giờ lao động sản xuất ra 10 kg thóc.

Như vậy, hao phí để sản xuất ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi gọi là giá trị hàng hóa.

+ Khái niệm: Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá.

+ Đặc trưng của giá trị hàng hóa:

* Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.

* Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó chỉ tồn tại ở những phương thức sản xuất có sản xuất và trao đổi hàng hóa.

* Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, tức là quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ kinh tế giữa người với người biểu hiện thành quan hệ giữa vật với vật. Hiện tượng vật thống trị mgười gọi là sự sùng bái hàng hóa, khi tiền tệ xuất hiện thì đỉnh cao của sự sùng bái hàng hóa là sự sùng bái tiền tệ.

* Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi theo.

- Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa

+ Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính trên đều do cùng một lao động sản xuất ra hàng hóa.

+ Hai thuộc tính của hàng hóa là sự thống nhất của các mặt đối lập. Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người làm ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra, nếu họ có chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị. Ngược lại, người mua hàng hóa lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của nó cho người bán. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa?

    Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính đó do tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thần hàng hoá.

  • Lượng giá trị của hàng hóa được xác định như thế nào?

    Xét về mặt chất, giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Xét về mặt lượng thì lượng giá trị của hàng hoá là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định.

  • Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa?

    Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hoá tùy thuộc vào những nhân tố

  • Giá trị cũ và giá trị mới của H?

    - Cơ cấu lượng giá trị của hàng hóa gồm ba bộ phận: c + v + m. + c: giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu dùng, bao gồm c1: khấu hao giá trị nhà xưởng, máy móc thiết bị; c2: giá trị nguyên, nhiên, vật liệu đã tiêu dùng;

  • Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Hàng hóa là gì? Thuộc tính của hàng hóa là gì? Phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa

Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác bắt đầu từ phạm trù hàng hoá, vậy hàng hóa là gì?

Để hiểu được phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, ta phải bắt đầu từ hàng hoá, nắm được thuộc tính của nó, xác định tính hai mặt của sản xuất hàng hóa và lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa là gì.

Vấn đề 1: Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa. Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính

17/06/2015 Ôn tập môn chủ nghĩa Mác - Lênin 1 Comment

Vấn đề 1: Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa. Vì sao hàng hóacó 2 thuộc tính

* Khái niệm Hàng hóa: Hàng hóa là một sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi mua – bán.
* Hàng hóa có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và Giá trị

a. Giá trị sử dụng của hàng hóa

– Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn một hay một số nhu cầu nào đó của con người.
– Bất cứ một hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định có thể thỏa mãn một hay một số nhu cầu nào đó của con người. Những công dụng đó được gọi là tính có ích của hàng hóa.
– Giá trị sử dụng của hàng hóa là nội dung vật chất của của cải vì nó do thuộc tính tự nhiên [lý, hóa học] của thực thể hàng hoá đó quyết định.
– Giá trị sử dụng của hàng hóa là một phạm trù vĩnh viễn vì không phụ thuộc vào sự sự thay đổi của phương thức sản xuất.
– Theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và phương pháp để lợi dụng chúng đó đó số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng tốt.
– Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện khi nó được tiêu dùng hay sử dụng. Nếu hàng hóa chưa được tiêu dùng thì giá trị sử dụng của nó chỉ ở dạng tiềm năng. Để giá trị sử dụng ở dạng tiềm năng trở thành giá trị sử dụng hiện thực thì hàng hóa đó cần được tiêu dùng.

Xem thêm:

  • Trình bày 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
  • Khái niệm tư bản, tư bản bất biến và tư bản khả biến
  • Tư bản cố định và tư bản lưu động

– Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì nó không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội thông qua hoạt động trao đổi, mua bán.

b. Giá trị hàng hóa

– Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải xuất phát từ giá trị trao đổi.
– Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
– Khái niệm: Giá trị trao đổi trước hết là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.

Ví dụ: 1m vải trao đổi lấy 5 kg thóc. [Điều này có nghĩa là 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5kg thóc]
– Vấn đề đặt ra là: tại sao hai hàng hoá, hai giá trị sử dụng lại trao đổi được cho nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
+ Cái chung đó không thể là giá trị sử dụng vì hai loại hàng hóa này có công dụng hoàn toàn khác nhau [vải để mặc, thóc để ăn]. Và sự khác nhau đó chỉ là điều kiện cần thiết để sự trao đổi xảy ra vì không ai đem trao đổi những vật phẩm giống hệt nhau về giá trị sử dụng.
+ Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vậy, thực chất người ta trao đổi hàng hóa với nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong trong những hàng hóa đó.

Bạn đã biết:Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị

► Chính hao phí lao động để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy là cơ sở chung cho mọi việc trao đổi và nó tạo thành giá trị hàng hóa.
– Khái niệm: Giá trị hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra, kết tinh trong hàng hóa
Giá trị hàng hóa biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Tức là, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi.
– Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi hàng hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa. Quan hệ giữa người với người được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật [hàng – hàng].
– Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, có sản xuất hàng hóa thì mới có giá trị hàng hóa.

– Kết luận:
+ Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội [lao động trừu tượng] của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị là cơ sở là nội dung của giá trị trao đổi. Chất của giá trị là lao động, nên sản phẩm không chứa đựng lao động thì không có giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao động để tạo ra thì có giá trị cao. Lượng giá trị là biểu hiện lượng lao động kết tinh trong hàng hóa. Lượng lao động kết tinh thay đổi dẫn đến giá trị trao đổi thay đổi. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
+ Giá trị là một phạm trù lịch sử.

c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa

Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính vùa thống nhất, vùa mâu thuần với nha trong một hàng hoá.

– Mặt thống nhất:
Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa. Một vật muốn trở thành hàng hóa thì không thể thiếu bất kỳ một thuộc tính nào trong hai thuộc tính trên. Ta có thể thấy một vật có ích tức là có giá trị sử dụng nhưng không do lao động tạo ra tức là không có lao động xã hội kết tinh trong đó thì không phải là hàng hóa, ví dụ như: không khí, ánh nắng mặt trời…

– Mặt mâu thuẫn:
+ Thứ nhất, với tư cáchlà một giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất vì mỗi hàng hóa có một công dụng khác nhau. Ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá đồng nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao động, đều là lao động được vật hoá.
+ Thứ hai, tuy giá trị và giá trị sử dụng cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị khác nhau về thời gian và không gian. Cụ thể là giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Nếu không thực hiện được giá trị hàng hoá [hàng hóa không bán được] thì không thực hiện được giá trị sử dụng có thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất “thừa”.

– Vấn đề liên quan:Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.

* Vì sao phải nghiên cứu giá trị bắt đầu từ giá trị trao đổi?

Giá trị là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa nên ta không xác định trực tiếp được. Ta chỉ có thể xác định, đo lường nó thông qua một hàng hóa khác.
Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc ►5kg thóc đo gía trị cho 1 m vải
Do đó ta luôn phải xác định tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác ►hay nói cách khác, chúng ta đang xác định giá trị trao đổi để xác định giá trị.

* Vì sao Hàng hóa có 2 thuộc tính

Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do có hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.

a. Lao động cụ thể
– Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
– Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng: Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục đích riêng, công cụ lao đông riêng, phương pháp hoạt động riêng, và kết quả lao động riêng ► tạo ra những sản phẩm có công dụng khác nhau, tức là tạo ra nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa.

b. Lao động trừu tượng
– Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa không kể đến hình thức cụ thể của nó, để quy về một cái chung nhất, đó chính là sự tiêu hao sức lao động [ tiêu hao bắp thịt, thần kinh, bộ óc] của người lao động sản xuất hàng hóa nói chung.
– Lao động trừu tượng tích lũy trong hàng hóa và tạo ra giá trị.
+ Chỉ có lao động của người lao động sản xuất hàng hóa mới mang tính trừu tượng và tạo ra giá trị hàng hóa.
+ Lao động trừu tượng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Tất nhiên không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt.

– Tính chất hai mặt nói trên liên quan đến tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa.
+ Tính chất tư nhân: Mỗi người sản xuất hàng hoá có tính tự chủ của mình nên sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động của họ trở thành việc riêng, mang tính tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
+ Tính chất xã hội: Lao động của mỗi sản xuất hàng hóa cũng là một bộ phận của lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội làm cho lao động của người sản xuất trở thành một bộ phận trong lao động xã hội, từ đó tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. Họ làm việc cho nhau, người này làm việc vì người kia thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Việc trao đổi hàng hoá không thể dựa vào lao động cụ thể mà phải quy thành lao động đồng nhất là lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.

Xem lại bài trước:Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị

Lượng giá trị hàng hóa và Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa

Giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó Như vậy:
– VỀ MẶT CHẤT, giá trị của hàng hóa được xác định bởi hao phí lao động để sản xuất hàng hóa đó quyết định.
Giá trị của hàng hóa = lao động vật hóa + lao động sống
= lao động quá khứ + lao động hiện tại
= Gtrị tư liệu sản xuất + Gtrị mới do công nhân tạo ra
– VỀ MẶT LƯỢNG: giá trị của hàng hóa được tính theo thời gian lao động xã hội cần thiết.

a. Thời gian lao động xã hội cần thiết
– Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một sản xuất một hàng hóa nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động của họ khác nhau nên thời gian lao động cá biệt khác nhau để tạo ra một hàng hóa không giống nhau nhau [nghĩa là hao phí lao động cá biệt khác nhau].
– Vậy, có phải rằng người sản xuất nào càng lười biếng, càng vụng về, có điều kiện sản xuất càng khó khăn thì lượng giá trị hàng hóa của họ càng lớn?
Điều này không đúng vì sự khác nhau trên chỉ là sự khác nhau về chi phí lao động cá biệt của mỗi cá nhân trong khi giá trị hàng hóa không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết [giá trị xã hội của hàng hóa].

– Khái niệm: Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động trung bình, cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ trang thiết bị sản xuất trung bình, trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình.

– Trong thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết là mức hao phí lao động trung bình của xã hội để sản xuất ra một hàng hóa. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết [thời gian lao động xã hội trung bình] gần sát với thời gian lao động cá biệt [mức hao phí lao động cá biệt] của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp tuyệt đại đa số hàng hóa cùng loại trên thị trường.

– Cần chú ý, thời gian lao động cần thiết là đại lượng không cố định mà thay đổi theo thời gian và có thể khác nhau ở các nước. Bởi vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang bị kỹ thuật trung bình…luôn thay đổi theo sự phát triển lực lượng sản xuất.

– Xem lại bài viết:Vấn đề Cách mạng xã hội chủ nghĩa

b. Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa
Tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa.
Có thể xem xét ba yếu tố cơ bản sau:

– Năng suất lao động:
+ Là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian [hoặc lượng thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm].
+ Giá trị hàng hóa thay đổi tỉ lệ nghịch với năng suất lao động: khi năng suất lao động tăng sẽ kéo theo tổng số sản phẩm tăng lên, tổng giá trị hàng hóa không tăng so với trước ► giá trị một đơn vị sản phẩm giảm xuống và ngược lại.
+ Năng suất lao động trên thực tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ thành thạo trung bình của người lao động; mức phát triển của khoa học – kỹ thuật, công nghệ và mức ứng dụng chúng vào sản xuất; trình độ tổ chức quản lý; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; các điều kiện tự nhiên. Do đó, muốn tăng năng suất cần nâng cao hiệu quả của các yếu tố trên.

– Cường độ lao động:
+ Là mức độ hao phí lao động [mức độ nặng nhọc, khẩn trương hay căng thẳng] của người lao động trong một đơn vị thời gian.
+ Cường độ lao động tăng nghĩa là mức hao phí sức lao động [cơ bắp, thần kinh…] trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Và nếu cường độ lao động tăng lên thì tổng số [hay khối lượng] hàng hoá cũng tăng lên nhưng tổng hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng cùng tỉ lệ. Do đó, giá trị một đơn vị sản phẩm không thay đổi. Vậy, trong thực tế, tăng cường độ lao động giống như kéo dài thời gian lao động nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
+ Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động.

– Mức độ phức tạp của lao động:
Căn cứ theo độ phức tạp có thể chia ra lao động phức tạp và lao động giản đơn.
+ Lao động giản đơn là lao động mà một người bình thường không cần trải qua đào tạo cũng có thể làm được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải qua huấn luyện, đào tạo, hay lao động lành nghề mới có thể thực hiện đuợc.
Trong cùng một thời gian hao phí như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị lớn hơn gấp bội lần lao động giản đơn.

Bạn có thể xem lại toàn bộ câu hỏi và đáp án chi tiết của môn Chủ nghĩa Mac – Lênin tại:Ngân hàng đề thi môn chủ nghĩa Mac – Lenin

Share
  • Facebook
  • Twitter
  • Google +
  • LinkedIn

Video liên quan

Chủ Đề