Tại sao Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quyền yêu cầu ly hôn cho người thứ ba
Trong xu thế hội nhập và phát triển, xã hội Việt Nam đã phát sinh nhiều vấn đề mới cần có những hành lang pháp lý điều chỉnh kịp thời để đảm bảo lợi ích chung cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân, mà cao hơn nữa là bảo vệ quyền con người. Đứng trước yêu cầu đó, về mặt pháp lý, trong thời gian qua, Việt Nam đã có những bước tiến khá mới mẻ trong quan điểm lập pháp, một loạt các văn bản pháp luật đã được ban hành thay thế cho các văn bản không còn phù hợp trước đây, cụ thể là Hiến pháp 2013, Bộ luật Dân sự 2015, Luật Đất đai 2013, Luật Nhà ở 2014, Hôn nhân và gia đình 2014, Luật Hộ tịch 2014, BLTTDS 2015… nhằm điều chỉnh kịp thời, hiệu quả những vấn đề phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội. Đây là mảng đề tài thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến một vấn đề, đó là mối liên hệ giữa Luật HNGĐ năm 2014 với BLTTDS 2015 trong việc giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình trong để tìm kiếm sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và những vấn đề còn vướng mắc, bất cập nhằm xây dựng các giải pháp đảm bảo tính đồng bộ giữa Luật nội dung và luật hình thức. Luật HNGĐ năm 2014 quy định các chế định như kết hôn, ly hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, cấp dưỡng… trong mỗi chế định đều có quy định rõ thẩm quyền giải quyết các vụ việc thuộc về cơ quan hành chính nhà nước hay cơ quan tư pháp. Từ đó, BLTTDS cũng quy định các vụ việc hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết tại Tòa án. Cụ thể như sau: + Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án[1]:
+ Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án:[2]
Như vậy, so với Bộ luật tố tụng năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011) thì một số vụ việc hôn nhân và gia đình đã được bổ sung kịp thời. Quy định này xuất phát từ việc Luật HNGĐ năm 2014 đã sửa đổi và bổ sung một số vấn đề mới đã và đang phát sinh trên thực tế đời sống xã hội. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, BLTTDS chưa có sự thay đổi Tòan diện để có thể bao quát được các vấn đề mới mà Luật HNGĐ năm 2014 đã đề cập đến, hoặc xét dưới góc độ tố tụng, Luật HNGĐ năm 2014 cũng còn nhiều vấn đề đã đề cập nhưng không giải quyết triệt để, do đó, việc áp dụng pháp luật giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình trên thực tế vẫn gặp nhiều vướng mắc, khó khăn.
Theo Luật HNGĐ năm 2014, những vụ việc trong chế định kết hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm hủy kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc kết hôn không đúng thẩm quyền, nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn. BLTTDS năm 2015 đã quy định các vụ việc trong chế định kết hôn mà có tranh chấp, bao gồm, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật (Điều 28 BLTTDS năm 2015); các vụ việc trong chế định kết hôn mà có yêu cầu đó là hủy việc kết hôn trái pháp luật (Điều 29 BLTTDS năm 2015). Qua đó chúng tôi thấy, chưa có sự tương thích giữa luật nội dung và luật hình thức khi điều chỉnh các vụ việc trong chế định kết hôn. BLTTDS năm 2015 quy định về yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật nhưng không đề cập đến yêu cầu buộc chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật, hoặc yêu cầu tuyên bố không công nhận là vợ chồng. Trong khi đó, trong các vụ việc có tranh chấp thì BLTTDS quy định về chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật (khoản 7 điều 28). Đây chỉ là phần giải quyết hậu quả khi xử lý việc hủy kết hôn trái pháp luật hay xử lý quan hệ nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng. Điều này là không hợp lý vì đối với hủy việc kết hôn trái pháp luật, BLTTDS chia ra hai trường hợp: nếu yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì xếp vào phần yêu cầu (Điều 29 BLTTDS), nếu không thỏa thuận được về chia tài sản khi hủy việc kết hôn trái pháp luật thì xếp vào phần tranh chấp (Điều 28 BLTTDS). Vậy đối với trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng cũng phải áp dụng tương tự như hủy kết hôn trái pháp luật mới là hợp lý và đầy đủ. Theo Luật HNGĐ năm 2014, những trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật được xác định bao gồm: Tảo hôn; người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng; chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã từng là cha, mẹ, nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng[3]. Ngoài ra còn có các trường hợp chung sống như vợ chồng không trái pháp luật như hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng không vi phạm điều cấm, một người chung sống như vợ chồng với một người đang bị mất năng lực hành vi dân sự, hai người đồng tính chung sống với nhau như vợ chồng; Trường hợp kết hôn không đúng thẩm quyền. Đối với quan hệ chung sống giữa những người cùng giới tính là loại quan hệ đặc biệt, việc giải quyết hậu quả pháp lý không hoàn Tòan giống như hậu quả của trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng. Điều này sẽ gây khó khăn khi áp dụng pháp luật giải quyết các vấn đề phát sinh trên thực tế. Khoản 11 điều 29 BLTTDS năm 2015 cũng có quy định dự phòng “các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình…”; và BLTTDS năm 2015 còn đề cập đến một nguyên tắc rất hay là “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” (khoản 2 điều 4). BLTTDS có đưa ra nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng (Điều 45), theo đó, thứ tự ưu tiên áp dụng lần lượt là tập quán, tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng. Tuy nhiên, việc áp dụng như thế nào để giải quyết vấn đề khi chưa có điều luật áp dụng là rất khó khăn đối với các Tòa án, đặc biệt là những quan hệ mới phát sinh trong thực tế đời sống xã hội. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ nếu đã xác định được rõ ràng quan hệ cần giải quyết thì nên bổ sung như các trường hợp cụ thể khác. Thêm vào đó, đối với các trường hợp chung sống như vợ chồng, Luật HNGĐ có quy định về giải quyết hậu quả nhưng không quy định quyền yêu cầu giải quyết vụ việc cho chủ thể nào cả. Đối với trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật thì bất cứ ai trong xã hội cũng đều có trách nhiệm loại trừ hành vi vi phạm pháp luật đó, chỉ có điều, ai là người trực tiếp được yêu cầu, ai là người gián tiếp được yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật đó mà thôi. Ví dụ, khi một người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác, hoặc hai người đã từng có quan hệ bố chồng, nàng dâu chung sống với nhau như vợ chồng… thì ai là người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết? Vậy, nếu không ai có quyền yêu cầu thì Tòa án căn cứ vào đâu để giải quyết? Hiện nay, Thông tư số 01/2016/TTLT-TANNTC-VKSNDTC-BTP ngày 6 tháng 1 năm 2016 (sau đây gọi tắt là Thông tư số 01/2016/TTLT-TANNTC-VKSNDTC-BTP) quy định tại Điều 3 “thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật” nhưng trong nội dung điều luật lại không chỉ đề cập đến hủy việc kết hôn trái pháp luật mà còn đề cập đến trường hợp nam, nữ kết hôn không đúng thẩm quyền, nam, nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn, cụ thể là “2…. trường hợp nam, nữ đăng ký kết hôn tại đúng cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn mà yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật thì thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 4 của Thông tư liên tịch này. Trường hợp việc kết hôn được đăng ký tại không đúng cơ quan có thẩm quyền hoặc trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu Tòa án giải quyết thì thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.
Mặt khác, sẽ rất khó khăn trong việc xét xử khi BLTTDS năm 2015 tách phần yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật thuộc về những yêu cầu về hôn nhân và gia đình (Điều 29) còn khi giải quyết hậu quả của việc kết hôn trái pháp luật như giao con cho ai nuôi, chia tài sản mà có tranh chấp thì lại thuộc những tranh chấp về hôn nhân và gia đình (Điều 28). Về quan hệ nội dung, khi hủy kết hôn trái pháp luật đương nhiên phải kéo theo hậu quả pháp lý, chỉ khi họ không có con, không có tài sản, không có tranh chấp gì và không yêu cầu xử lý thì việc hủy kết hôn trái pháp luật mới đơn thuần giải quyết quan hệ nhân thân. Do đó, theo quan điểm của chúng tôi, nếu khi có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà có tranh chấp về con cái và tài sản thì Tòan bộ vấn đề này phải thuộc “những tranh chấp về hôn nhân và gia đình” theo quy định tại điều 28 BLTTDS năm 2015 để thuận lợi cho việc giải quyết vụ việc. Đối với những yêu cầu giải quyết đối với việc chung sống như vợ chồng cũng nên áp dụng tương tự như vậy.
Theo Luật HNGĐ năm 2014 thì những vụ việc trong chế định quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bao gồm: Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ một bên vợ hoặc chồng không đồng ý chia, hoặc vợ chồng đồng ý chia nhưng không thỏa thuận được chia như thế nào, chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; tuyên bố việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu, tuyên bố chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do thỏa thuận. BLTTDS năm 2015 quy định vụ việc trong chế định quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng có tranh chấp là tranh chấp về chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; Vụ việc trong chế định quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng có yêu cầu bao gồm: Công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án, tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp Luật HNGĐ. Về cơ bản đã có sự tương thích giữa Luật HNGĐ năm 2014 với BLTTDS năm 2015 về các vụ việc trong chế định quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Đối với yêu cầu tuyên bố việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị coi là vô hiệu thì BLTTDS năm 2015 không đề cập đến là một sự thiếu sót cần phải bổ sung. Mặt khác, Luật HNGĐ năm 2014 không quy định về quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, và quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu. Đây cũng là một thiếu sót đáng kể. Tuy nhiên, Thông tư số 01/2016/TTLT-TANNTC-VKSNDTC-BTP có hướng dẫn quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu bao gồm: “vợ, chồng hoặc vợ chồng đã thỏa thuận về chế độ tài sản; người bị xâm phạm, người giám hộ của người bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp do có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng”[4]. Tuy nhiên, văn bản này lại không hướng dẫn gì về quyền yêu cầu tuyên bố việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị coi là vô hiệu. Theo quan điểm của chúng tôi, văn bản hướng dẫn luật cần bổ sung vấn đề này theo hướng tương tự như quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu. Thêm vào đó, trong thực tế, có nhiều trường hợp, một bên vợ chồng muốn trốn tránh nghĩa vụ tài sản với người thứ ba nên không yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, điều này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba nếu không cho họ quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng, nhưng nếu cho người thứ ba được quyền yêu cầu chia tài sản chung thì có thể dẫn đến trường hợp ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình như chỗ ở, phương tiện kiêm sống, đi lại của vợ chồng, việc học hành của con cái… Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, nếu vợ chồng nhất quyết không chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của mình trả nợ thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng Điều 74 về cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014) để giải quyết: “ 1… Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì chấp hành viên xác định phần tài sản của vợ, chồng theo quy định của pháp Luật HNGĐ và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
a, Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án. b, Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với Tòan bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự có quy định thêm “Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì chấp hành viên xác định phần sở hữu vợ, chồng theo quy định của pháp Luật HNGĐ và thông báo cho vợ chồng biết…. Trong trường hợp vợ hoặc chồng …. không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng … giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ” (điểm c khoản 2 điều 24). Theo Luật HNGĐ năm 2014 thì quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chỉ thuộc về vợ chồng, do vợ chồng hoàn Tòan tự nguyện quyết định (tự thỏa thuận chia, hoặc yêu cầu Tòa giải quyết, hoặc không chia) nhưng trong trường hợp này thì rõ ràng là bắt buộc vợ chồng phải yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, bởi vì nếu vợ chồng không yêu cầu chia thì Chấp hành viên vẫn có quyền xử lý tài sản chung của vợ chồng để thanh toán nợ và sẽ trả lại phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người vợ hoặc người chồng còn lại. Điều này đồng nghĩa với việc Chấp hành viên có quyền chia tài sản chung của vợ chồng. Như thế là mâu thuẫn với Luật HNGĐ năm 2014. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015, quy định về chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung (không có sự phân biệt sở hữu chung hợp nhất hay sở hữu chung theo phần) “1.Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung, nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn hoặc theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó, khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán”[5]. Xét cho đến cùng việc người thứ ba yêu cầu chia tài sản hay yêu cầu hủy bỏ việc chia tài sản đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nếu quá tuyệt đối quyền của vợ chồng thì vợ chồng rất dễ lạm quyền để ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác. Vậy để dung hoà lợi ích của các bên thì Luật HNGĐ năm 2014 cần mở rộng phạm vi quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tức là cho phép người thứ ba khi bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình được quyền yêu cầu chia tài sản chung của cặp vợ chồng mà một bên vợ, chồng đó đang có nghĩa vụ về tài sản với họ nhưng khi chia phải đảm bảo nguyên tắc việc chia đó không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình. Điều đó cũng dễ dàng cho việc xét xử tại Tòa án nếu các chủ nợ khởi kiện yêu cầu đòi nợ và đòi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Trường hợp này Tòa án vẫn phải giải quyết ngay cả khi không có luật áp dụng, việc giải quyết này còn đảm bảo sự nhanh chóng, chính xác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng và người thứ ba hơn là để đến khâu thi hành án với thực hiện việc đó.
Luật HNGĐ năm 2014 quy định các vụ việc xác định cha, mẹ, con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bao gồm: việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp, người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết, trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết, sau đó, người thân thích của người đó yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người có yêu cầu đã chết[6], trường hợp có tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ[7] (như trường hợp bên mang thai hộ có yêu cầu buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con khi bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con[8], trường hợp bên nhờ mang thai hộ yêu cầu bên mang thai hộ giao con khi bên mang thai hộ từ chối giao con[9]). Tuy nhiên, Luật HNGĐ năm 2014 không quy định cụ thể các trường hợp có tranh chấp trong việc mang thai hộ khi vi phạm điều kiện mang thai hộ hay mang thai hộ vì mục đich thương mại. BLTTDS quy định các vụ việc trong chế định xác định cha, mẹ, con khi có tranh chấp bao gồm: Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ, tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ về mục đích nhân đạo; Các vụ việc trong chế định xác định cha, mẹ, con khi có yêu cầu, đó là, yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp Luật HNGĐ[10]. Có thể thấy BLTTDS quy định khá chung chung, không rõ ràng. Theo quan điểm của chúng tôi, về yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hay xác định con cho cha, mẹ thì văn bản hướng dẫn cần quy định cụ thể hơn để tránh gây hiểu lầm vì Điều 28 và 29 BLTTDS đều quy định về vấn đề này và dùng thuật ngữ giống nhau là “xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ”. Cần phải hiểu rằng, trường hợp xác định cha, mẹ, con do cơ quan hộ tịch thực hiện không bao gồm trường hợp một người nhận con của một người khác là con và người đang là cha, mẹ cũng đồng ý. Bởi vì, cơ quan đăng ký hộ tịch không thể tước bỏ quyền đang làm cha, mẹ, con của một người rồi lại xác định một người khác là cha, mẹ, con cho dù tất cả các chủ thể có liên quan đều tự nguyện và không có tranh chấp. Trường hợp này vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án, và thuộc yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ. Thêm vào đó, Luật HNGĐ năm 2014 quy định ba trường hợp xác định cha, mẹ, con thuộc thẩm quyền của Tòa án là không hoàn Tòan hợp lý. Đối với trường hợp xác định cha, mẹ, con theo Điều 92 Luật HNGĐ năm 2014 vẫn có thể xếp vào trường hợp có tranh chấp, bởi vì, lúc ban đầu khi một người xác định một người khác là cha, mẹ, con của mình thì có thể vụ việc đó có tranh chấp giữa các đương sự, nhưng đang giải quyết vụ việc thì người này chết, sau đó, người thân thích của người có yêu cầu chết tiếp tục có yêu cầu xác định cha, mẹ, con cho người đã từng có yêu cầu chết thì vẫn có thể có tranh chấp giữa các đương sự. Mặt khác, Điều 92 cũng có thể không có tranh chấp theo như trường hợp xác định một người đang là cha, mẹ, con của một người khác là cha, mẹ, con của mình và các đương sự hoàn Tòan tự nguyện và không có tranh chấp như chúng tôi đã phân tích ở phần trên. Do đó, cần xác định cụ thể trường hợp nào là yêu cầu xác định cha, mẹ, con, trường hợp nào là tranh chấp xác định cha, mẹ, con và cũng để phân định thẩm quyền giải quyết được rõ ràng hơn. Đối với tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ – đây là loại tranh chấp mới được bổ sung trong BLTTDS: – Đối với tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cần chỉ rõ là những tranh chấp nào? Chẳng hạn, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thực hiện trong nội bộ cặp vợ chồng vô sinh, nhưng sau khi sinh con, vợ chồng đó đã giám định gen và thấy rằng, đứa trẻ không phải là con mình thì họ có quyền xác định lại quan hệ cha mẹ và con? Họ có quyền kiện cơ sở y tế đã tiến hành kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không? Và trường hợp này có thuộc tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không? – Đối với tranh chấp về mang thai hộ cũng cần xác định rõ là những tranh chấp nào? Chẳng hạn, việc mang thai hộ vì mục đích thương mại, chứ không phải vì mục đích nhân đạo, việc mang thai hộ vi phạm điều kiện mang thai hộ như người mang thai hộ không phải là người thân thích cùng hàng, việc mang thai hộ không có sự đồng ý của chồng người mang thai hộ và trong thời gian người mang thai hộ đang mang thai hoặc sau khi đứa trẻ được sinh ra thì có yêu cầu hủy bỏ việc mang thai hộ. Đây là những loại vụ việc mà Tòa án vẫn phải giải quyết cho dù không có điều luật áp dụng theo tinh thần tại Điều 4 BLTTDS năm 2015. Trong những trường hợp này, việc giải quyết tuyên bố văn bản thỏa thuận về mang thai hộ thì không có gì khó khăn vì vẫn có luật áp dụng, nhưng vấn đề ở chỗ, việc giải quyết hậu quả của nó, mà đặc biệt là xác định cha, mẹ, con như thế nào? Do đó, pháp Luật HNGĐ cần có những hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Mặt khác, đối với quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ thì Luật HNGĐ năm 2014, BLTTDS quy định khá chung chung, vì vậy, việc xác định chủ thể có quyền yêu cầu là rất khó khăn. Chẳng hạn ai là người có quyền tuyên bố văn bản thỏa thuận về mang thai hộ là vô hiệu… Đối với tranh chấp xác định cha mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ thì chứng cứ chứng minh quan hệ cha con, mẹ con là bắt buộc. Kết luận giám định được coi là chứng cứ quan trọng nhất, chính xác nhất để xác định tư cách là cha, mẹ, con. Đa phần trong các vụ việc xác định cha, mẹ, con thì các đương sự thường tự mình thực hiện việc giám định gen, theo pháp luật hiện hành, thì kết quả giám định gen này được gọi là giám định ngoài tố tụng, do đó, chỉ được coi là một tài liệu để Tòa án tham khảo, Tòa án có quyền trưng cầu giám định lại theo yêu cầu của đương sự hoặc khi Tòa án xét thấy cần thiết. Điều này có thể gây ra những phiền phức cho đương sự, họ sẽ mất thời gian, bị thiệt hại về tài chính… Do đó, BLTTDS năm 2015 đã quy định theo hướng chấp nhận kết luận giám định do đương sự tự mình thực hiện: “1. Đương sự có quyền yêu cầu trưng cầu giám định hoặc tự mình trưng cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên Tòa giải quyết vụ việc dân sự.
Mặt khác, Luật HNGĐ năm 2014 đã quy định xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người có yêu cầu đã chết (Điều 92 Luật HNGĐ năm 2014). Theo BLTTDS thì một trong những căn cứ để Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án là “Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế” (điểm a, khoản 1 điều 217 BLTTDS hăm 2015). Về mặt lý luận, quyền xác định cha, mẹ, con là quyền nhân thân gắn liền với chủ thể mà không thể chuyển giao cho người khác, tức là quyền này không được thừa kế. Do vậy, trong trường hợp này phải đình chỉ giải quyết vụ án. Sau đó, những người thân thích của người này sẽ khởi kiện việc xác định cha, mẹ, con cho người đã chết theo một vụ án mới? Hay đây được coi là một trường hợp ngoại lệ, khi người có yêu cầu xác định cha, mẹ, con chết thì người thân thích sẽ tiếp tục tham gia tố tụng trong vụ án đó luôn? Đây là vấn đề mà còn nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, để phù hợp về mặt lý luận, không vi phạm thủ tục tố tụng thì trong trường hợp này phải đình chỉ giải quyết vụ án, sau đó, những người thân thích của người đã từng có yêu cầu chết sẽ được khởi kiện xác định một người là cha, mẹ, con của người đã từng có yêu cầu chết. Quan điểm thứ hai cho rằng, mục đích của nhà làm luật trong việc thiết kế Điều 92 Luật HNGĐ năm 2014 là nhằm giản tiện và tiết kiệm chi phí cũng như thời gian cho đương sự và Tòa án, do đó, đây phải coi là một trường hợp ngoại lệ để cho người thân thích của người đã từng có yêu cầu nhưng bị chết được tiếp tục tham gia tố tụng trong vụ án đó mà không nên đình chỉ rồi lại yêu cầu khởi kiện thành một vụ án mới. Chúng tôi đồng tính với quan điểm thứ hai với cách lập luận như trên.
Về cơ bản, BLTTDS năm 2015 quy định các vụ việc về ly hôn là tương thích với Luật HNGĐ năm 2014, bao gồm các tranh chấp về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn.; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp người nuôi con sau khi ly hôn; tranh chấp về cấp dưỡng và các yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình; yêu cầu quyền thăm nom con sau khi ly hôn. Xét trong nội dung áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc về ly hôn thì BLTTDS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng[11] và dựa trên nguyên tắc này BLTTDS năm 2015 đã quy định nguyên tắc giài quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng[12], bao gồm, áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng. Về án lệ, trong việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đã có án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua ngày 06/04/2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/04/2016 của Chánh án TANDTC. Trong đó quy định rằng: “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.”[13]. Đây là vấn đề rất thực tế gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử các vụ việc tranh chấp về tài sản khi ly hôn. Luật HNGĐ năm 2014 và các văn bản Luật trước đây cũng không có quy định nào cụ thể điều chỉnh vấn đề này. Do đó, khi án lệ này được thông qua có thể coi đây là một nguồn để các Tòa án sử dụng để giải quyết các vụ việc tương tự. Tuy nhiên, nếu trên thực tế cũng có những vụ việc xảy ra tương tự như trên, chỉ khác là quyền sử dụng đất đó chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho người vợ hoặc người chồng mà vẫn đứng tên cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ thì có áp dụng án lệ này để xác định là tài sản chung của vợ chồng hay không? Trong phần tóm tắt nội dung án lệ nêu trên có đoạn là “đã tiến hành kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…”, vậy, đây có được coi là một điều kiện bắt buộc để xác định đó là tài sản chung của vợ chồng người con hay không? Theo quan điểm của chúng tôi, không nên coi đây là điều kiện bắt buộc, bởi vì trên thực tế hiện nay, cán bộ địa chính sẽ không bao giờ tiến hành thực hiện việc đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng nếu không có hợp đồng tặng cho tài sản của bố mẹ. Do đó, chỉ cần điều kiện “cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định…” là đủ. Đây cũng là cơ sở pháp lý để sau này khi sửa đổi, bổ sung Luật nội dung thì có thể xây dựng thành một quy phạm mới, điều chỉnh kịp thời và áp dụng pháp luật dễ dàng để giải quyết các tranh chấp về tài sản khi ly hôn. Tựu chung lại, để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các vụ việc hôn nhân và gia đình cũng như dễ dàng, thuận lợi trong việc áp dụng pháp luật thì các văn bản hướng dẫn cần có sự bổ sung, sửa đổi kịp thời các vấn đề còn vướng mắc, bất cập, thiếu hụt./. [1] Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 [2] Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 [3] Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. [4] Khoản 1 điều 5 Thông tư số 01/2016/TTLT-TANNTC-VKSNDTC-BTP [5] Điều 219 Bộ luật Dân sự 2015 [6] Điều 101 khoản 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 [7] Điều 99 khoản 1 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 [8] Điều 97 khoản 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 [9] Điều 98 khoản 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 [10] Điều 28, 29 Bộ luật tố tụng năm 2015 [11] Điều 4 khoản 2 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 [12] Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 [13] Trích án lệ số 3 trong quyết định số 220/QĐ-CA về việc công bố án lệ của Toà án nhân dân tối cao ngày 6/4/2016. |