Tại sao nói cách mạng tháng tám năm 1945 ở việt nam là thời cơ “ngàn năm có một”?

Vì sao nói thời cơ cách mạng tháng Tám là thời cơ ngàn năm có một?

Vì sao nói thời cơ CMT8 là thời cơ ngàn năm có 1

Theo dõi Vi phạm
Lịch sử 9 Bài 23Trắc nghiệm Lịch sử 9 Bài 23Giải bài tập Lịch sử 9 Bài 23
ADSENSE

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kết quả của sự lãnh đạo tài tình, chuẩn bị chu đáo và sáng suốt tận dụng thời cơ của Đảng.

ThS. Phạm Xuân Quyền
2020-08-18T14:10:16+07:00 2020-08-18T14:10:16+07:00 //truongchinhtri.edu.vn/home/dau-tranh-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/cach-mang-thang-tam-nam-1945-thanh-cong-co-phai-la-mot-su-an-may-819.html //cdn.giaibainhanh.com/tai-sao-noi-cach-mang-thang-tam-nam-1945-o-viet-nam-la-thoi-co-ngan-nam-co-mot--cb96e0a26f0802cbb8233bb052e9543b.wepb
Trường Chính trị tỉnh Bình Phước //truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/logotc108t.png
Thứ hai - 17/08/2020 22:50 24.023 0
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó là kết quả của sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt và kịp thời của Đảng Cộng sản Đông Dương với đỉnh cao là nghệ thuật chớp thời cơ gành chính quyền. Thế nhưng, hiện nay các thế lực thù địch lại cho rằng: Cách mạng Tháng Tám thành công là một “sự ăn may”[!] Vậy đâu là sự thật?
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình [Hà Nội], Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
Các thế lực thù địch đưa ra lập luận rằng: sở dĩ Đảng Cộng sản Đông Dương có thể lãnh đạo quần chúng có thể tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được là do phát xít Nhật đã bị quân Đồng minh đánh cho tơi tả, đặc biệt là khi Nhật bị Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố là Hiroshima [06/9/1945] và Nagasaki [09/8/145] buộc Nhật Hoàng phải tuyên bố đầu hàng lực lượng Đồng minh vô điều kiện. Như vậy, lúc này ở Đông Dương xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, cho nên cách mạng chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi [?]. Từ cách nhìn như vậy, họ cho rằng“Cách mạng Tháng Tám là một sự ăn may”.Mục đích của các thế lực phản động, thù địch đưa ra quan điểm như trên là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của quần chúng và đi đến phủ nhận sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và giành thắng lợi, ngoài nguyên nhân chủ quan thì còn có nguyên nhân khách quan. Nếu nguyên nhân khách quan [điều kiện quốc thế thuận lợi - Phát xít Nhật đầu hàng lực lượng Đồng Minh không điều kiện] đóng vai trò quan trọng thì nguyên nhân chủ quan đóng vai quyết địnhđó là sự lãnh đạo của Đảng; Đảng đã dự đoán thời cơ chính xác, chớp thời cơ kịp thời để phát động tổng khởi nghĩa thành công. Nếu điều kiện chín muồi đã đến mà không nắm lấy thời cơ, chần chừ thì thời cơ “ngàn năm có một” sẽ qua đi, Cách mạng Tháng Tám sẽ không thể xảy ra. Vậy, Bác và Đảng Cộng sản Đông Dương đã nhận định về thời cơ cho cách mạng Đông Dương nổ ra như thế nào?
Sau khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ 01/9/1939, tại các Hội nghị Trung ương 6,7 nhất là Hội nghị Trung ương 8, Đảng Cộng sản Đông Dương đã dự đoán ngày càng cụ thể triển vọng thắng lợi của cách mạng: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”.[[1]]. Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương. Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng họp ở làng Đình Bảng [Bắc Ninh], ra chỉ thị lịch sử “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12/9/1945 nêu rõ: Cuộc đảo chính đã tạo ra một tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa thật sự chín muồi; “phải phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa”.[[2]]
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, phát xít Nhật trở thành kẻ thù cụ thể trước mắt-duy nhất của nhân dân Đông Dương. Đảng nhận định thời cơ chín mùi khi:Nhật đầu hàng Đồng minh - Đảng ta dự tính quân Nhật sẽ thua vào mùa Thu năm 1945 [Căn cứ vào thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tháng 10/1944 và ngày khai mạc Đại hội toàn quốc Tân Trào].
Đúng như dự đoán của Đảng, ngày 12/8/1945 Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng lực lượng Đồng minh không điều kiện. Lúc này thời cơ cách mạng chín muồi và đây là cơ hội “ngàn năm có một”. Vậy, tại sao lúc này thời cơ cách mạng chín muồi và đây là cơ hội “ngàn năm có một”?
Khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng lực lượng Đồng Minh không điều kiện thì thời cơ cách mạng đã chín muồi. Bởi vì: theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì thời cơ trong cách mạng hay tình thế cách mạng có ba nhân tố chủ yếu sau:
Thứ nhất,giai cấp thống trị đã suy yếu, khủng hoảng đến mức không thể tiếp tục thống trị bằng những phương thức cũ được nữa.
Thứ hai,các giai cấp và tầng lớp bị trị bên dưới cũng rơi vào tình trạng cơ cực, bị bần cùng không thể chịu đựng được nữa, không thể sống nổi nữa. Mâu thuẫn đã gay gắt đến cực độ và quần chúng đã sẵn sàng đi tới hành động giải phóng.
Thứ ba,tầng lớp, bộ phận trung gian, những người trí thức yêu nước có tư tưởng dân chủ tiến bộ, những người có tinh thần dân tộc, kể cả một bộ phận trong giai cấp hữu sản nhưng gần với quần chúng, nhận thức được xu thế lịch sử, ngã về phía cách mạng, tương quan lực lượng có lợi cho phía cách mạng. Đội tiên phong của cách mạng, tức Đảng lãnh đạo đã sẵn sàng.
Phân tích kỹ Cách mạng Việt Nam năm 1945, chúng ta thấy: khi Nhật tuyên bố đầu hàng lực lượng Đồng Minh không điều kiện thì thờ cơ cách mạng mới chín mùi bởi vì lúc này đã xuất hiện đầy đủ cả ba nhân tố: [1]phát xít Nhật, kẻ thù cụ thể, duy nhất của nhân dân Đông Dương đã đầu hàng Đồng minh không điều kiện; [2]phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao, các lực lượng trung gian ngã về phía cách mạng, đặc biệt là sau khi Đảng chủ trương phát động phong trào “phá kho thóc”; [3] Đảng Cộng sản Đông Dương đã chuẩn bị đầy đủ về lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đây là thời cơ “ngàn năm có một”, chúng ta phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó? Bởi vì: khi Nhật đầu hàng lực lượng Đồng Minh thì thời cơ cách mạng xuất hiện, nhưng thời cơ này chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian rất ngắn đó là: Khi Nhật đầu hàng lực lượng Đồng minh [12/8], nhưng trước khi lực lượng Đồng Minh kéo vào nước ta [Theothỏa thuận Potsdam, thời gian quânAnhsẽ giải giáp cho quân Nhật tạiViệt Namtừ vĩ tuyến 16 về phíaNamvà quân Trung Quốc sẽ giải giáp cho quân Nhật từ vĩ tuyến 16 về phíaBắc sẽ bắt đầu từ ngày 05/9/1945]. Dù mang danh nghĩa là quân Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp vũ khí quân đội Nhật nhưng thực chất dù chúng khác màu da, khác tiếng nói đều chung một mục đích là "Diệt Cộng cầm Hồ" tức là "Diệt Cộng sản, bắtHồ Chí Minh". Vì vậy, chúng ta phải giành được chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào nước ta.
Vì vậy, khi thời cơ “ngàn năm có một” xuất hiện, ngày 13/8/1945 Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Vào lúc 23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa.
Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương [từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945] đã nhất trí với quyết định Tổng khởi nghĩa của Thường vụ Trung ương. Tiếp đó Đại hội Quốc dân diễn ra tại Tân Trào, Tuyên Quang] [ngày 16/8/1945]. tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, thành lập Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Trong thời điểm lịch sử nóng bỏng đó, mặc dù đang ốm nặng, song Hồ Chí Minh vẫn luôn theo dõi sát tình hình và khẳng định:“đây là một thời cơ quý và hiếm nếu bỏ qua thì không bao giờ có nữa”, và ra lời hiệu triệu:“Dù có phải thiêu cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”.Người viết: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lến! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên! ”[3].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã diễn ra và giành thắng lợi nhanh chóng trong vòng 15 ngày [từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945]. Trong đó, thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có ý nghĩa quyết định.
Ngày 02/9/1945, trong cuộc mít tinh lớn tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố Tuyên ngôn độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 diễn ra và giành thắng lợi đúng như chủ trương và quyết tâm của Đảng. Nếu Tổng khởi nghĩa diễn ra trước ngày 12/8/1945 sẽ không được vì khi ấy phát xít Nhật vẫn còn khá mạnh, chưa chịu ngừng bắn và đầu hàng quân Đồng minh. Còn nếu Lễ Độc lập tuyên bố và khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra muộn hơn sau ngày 2/9/1945 cũng không được vì khi ấy quân Anh và quân Tưởng đã vào nước ta giải giáp, tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật.
Qua thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chứng tỏ Đảng ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, chuẩn bị chu đáo, toàn diện, bền bỉ và nhạy bén nắm bắt thời cơ mà thực chất là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan; giữa nội lực và ngoại lực; giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,…đã đóng vai trò là yếu tố nòng cốt, góp phần tạo nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chứ không phải là một sự “ăn may” như một số luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đưa ra. Đây là cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, do đó, thành công của cách mạng là triệt để, là "đến nơi" như Hồ Chí Minh khẳng định. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ định được. Vì vậy, mọi mưu toan chống phá, sự suy diễn chủ quan về cuộc cách mạng này đều không có giá trị.
Bài học về vấn đề chớp thời cơ còn tiếp tục được các thế hệ về sau vận dụng thành công. Đó là thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954, “vang dội năm châu, chấn động địa cầu”, chính thức đặt dấu chấm hết cho gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 30/4/1975. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước về sau này, chúng ta cũng đều nhiều lần vận dụng thành công bài học về chớp thời cơ và tận dụng thời cơ để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng văn minh, giàu đẹp, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Bác và Đảng đã lựa chọn cho dân tộc./.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc, H,2000, T.7, tr100.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc, H,2000, T7, tr367.
[3] Hồ Chí Minh Toàn tập: Nxb.Chính trị quốc gia,H2011,t3,tr.596.

Tác giả bài viết: ThS. Phạm Xuân Quyền

Nguồn tin: Trường Chính trị tỉnh Bình Phước

Bài học về dự báo thời cơ và chớp thời cơ trong cách mạng tháng Tám

Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật đổ chế độ phong kiến lỗi thời, đập tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, giành chính quyền về tay Nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công đã để lại nhiều bài học quý giá cho sự nghiệp cách mạng trong nước và thế giới, trong nhiều bài học quý giá đó, có bài học về dự báo thời cơ và chớp thời cơ.
Ngày đăng : 06/08/2021 Xem với cỡ chữ
Bản in

Sau khi thành lập, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc một cách đúng đắn, sáng tạo, tạo dựng được cơ sở, nền tảng cách mạng vững chắc để chờ đợi thời cơ thuận lợi phát động khởi nghĩa. Có thể thấy, yếu tố chủ quan cho thắng lợi là sự chuẩn bị chính muồi của lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua các đợt tập duyệt, qua đó đã tạo được một lực lượng vũ trang vững mạnh, sẵn sàng bùng nổ khi có lệnh tổng khởi nghĩa.Tuy nhiên, thắng lợi nhanh chóng, ít tổn thất lực lượng là nhờ yếu tố khách quan là thời cơ ngàn năm có một đã được tận dụng một cách triệt để.

Có người đặt câu hỏi: Nếu lệnh Tổng khởi nghĩa phát ra trước mười ngày hay sau mười ngày so với ngày phát-xít Nhật đầu hàng thì tình hình sẽ thế nào? Không ai có thể trả lời lịch sử bằng chữ “nếu”. Nhưng điều chắc chắn là nếu lệnh Tổng khởi nghĩa phát ra không đúng lúc thì cách mạng chẳng những không thành công suôn sẻ mà có khi còn phải trả giá đắt.

Thực dân pháp xâm lược nước ta từ giữa thế kỷ XIX [1858] nhưng khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ [1939] Nhật Bản, một đế quốc phát xít ở Châu Á đã dần mở rộng xâm lược khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Năm 1940 khi phát xít Nhật vào nước ta, Pháp và Nhật bắt tay nhau cùng vơ vét, bốc lột. Bằng nhiều chính sách hà khắc của thực dân, phát xít, cuối năm 1944 đầu 1945 Nhân dân ta phải gánh chịu một nạn đói kinh hoàng trong lịch sử khi hơn 2 triệu đồng bào chết đói năm Ất Dậu, hình ảnh được khắc họa trong các vần thơ: Lúa mùa mất sạch mọi nơi / Giặc còn vơ vét hết nồi đến thăng ! / Đói xo khắp xóm khắp làng / Rau dưa chết giá, ngô lang xạc xờ / Buồn trông đồng trắng bãi khô / Lúa chiêm thôi hết ước mơ đầy nồi / Một quan gạo sáu lon thôi / Không tiền mua cám mà nuôi mẹ già / Cháu thơ đói lả ôm bà / Con đeo chân bố khóc la đêm ngày !... [Đói - Tố Hữu, tháng 4-1945].

Từ rất sớm, Đảng ta đã đưa ra dự báo thời cơ, bằng việc phân tích chính xác mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc, nhận định phát xít Nhật sẽ đảo chính hất cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương và vạch ra kế hoạch hành động khi xuất hiện tình hình mới. Ngày 15-2-1944, trong bài“Bóc trần mưu gian của đế quốc Nhật! Thống nhất hành động đánh đổ thù chung!” đăng trên Báo Cờ Giải phóng, Tổng Bí thư Trường Chinh xác định sớm hay muộn cuộc đấu súng Nhật - Pháp nhất định sẽ xảy ra. Từ đó đến những tháng đầu năm 1945, vấn đề “cuộc đảo chính của phát xít Nhật” luôn luôn được nhắc tới trong những văn kiện, tài liệu tuyên truyền của Đảng, định hướng công tác chuẩn bị của phong trào cách mạng cho thời điểm “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp [9-3-1945], Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, tại làng Đình Bảng [Bắc Ninh], ra ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12-3-1945.

Sau khi đảo chính, Pháp đầu hàng Nhật và giao Đông Dương cho Nhật; như vậy kẻ thù chính của Nhân dân ta lúc nay là phát xít Nhật nên trong bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương tuy gây ra khủng hoảng chính trị, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Trung ương xác định kẻ thù mới là phát xít Nhật, dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ để Nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước. Một là, quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; hai là, Nhật đầu hàng Đồng minh.

Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Sau khi Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và ra Quân lệnh số 1; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập…giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến, toàn đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”. Như cơn sóng trào dâng, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đạp đổ chính quyền phát xít Nhật và tay sai. Ngày 30- 8- 1945, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Ngày 2-9-1945, lãnh tụ Hồ Chi Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại vườn hoa Ba Đình [Hà Nội]. Ba ngày sau, ngày 5-9-1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đón tiếp quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta.

Như vậy, trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, thời cơ tồn tại một cách khách quan trong vòng 20 hôm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng [ngày 15-8] và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pốt-xđam [ngày 5-9]. Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 15-8 quân Nhật còn mạnh và nếu chờ cho quân Đồng minh vào Đông Dương sau ngày 5-9 trên đất nước có nhiều kẻ thù, cách mạng đều không có khả năng thành công. Đảng và Nhân dân ta đã chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó. Thời cơ ở đây là Nhật đầu hàng quân đồng minh, chính quyền tay sai rệu rã, chúng ta cướp chính quyền từ tay Nhật, nhanh chóng tuyên bố độc lập trước khi quân Đồng Minh mà chủ yếu là quân Anh vào với danh nghĩa là giải giáp phát xít Nhật. Nếu chậm trể không giành được chính quyền, khi quân Đồng Minh vào thì khi đó quân Pháp sẽ được quân Anh hậu thuẫn rất khó để chúng ta tuyên bố độc lập.

Nhờ chủ động, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho phong trào cách mạng, hiểu biết sâu sắc về thời cơ cách mạng; dự báo chính xác, nắm bắt kịp thời và chớp thời cơ mau lẹ, trong vẻn vẹn chưa đầy 20 ngày của Mùa thu lịch sử năm 1945, Đảng ta đã lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền, tuyên bố thành lập nước, thành lập Chính phủ lâm thời, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc cho quốc gia dân tộc.

Từ bài học học dự báo và chớp lấy thời cơ trong cách mạng tháng Tám có thể thấy việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo Nhân dân ta chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ để tiến hành thành công Cách mạng tháng Tám chính là tiếp nối bài học lịch sử truyền thống hào hùng của ông cha về “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, qua đó chung ta càng cảm nhận sâu sắc hơn về hai câu thơ của Bác ở bài thơ “Học đánh cờ” trong tập thơ “Nhật Ký trong tù” “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công”

Bài học đó còn tiếp tục được các thế hệ về sau vận dụng thành công. Điển hình là việc chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ; phân tích tình hình, thế trận địch – ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để đưa đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và thắng lợi trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30/4/1975.

Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta nhiều lần khẳng định đất nước đang đứng trước cả những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen lẫn nhau, đòi hỏi toàn Đảng phải nâng cao quyết tâm chính trị, dự báo chính xác tình hình và có những quyết sách phù hợp. Do đó, bài học về nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám vẫn mang ý nghĩa thời sự hết sức sâu sắc. Những thời cơ, thuận lợi lớn đã được Đảng và Nhân dân nhận thức đầy đủ, kịp thời. Đó là: hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế chủ yếu của thế giới ngày nay; cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, nền kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hoá đang tạo điều kiện chưa từng có cho các quốc gia xích lại gần nhau, tăng cường hội nhập, phát huy lợi thế; xu hướng dân chủ hoá đời sống xã hội, đời sống quốc tế đang tạo hành lang rộng mở cho các chủ thể, các quốc gia khẳng định vai trò, vị trí của mình. Bên cạnh đó, nhiều khó khăn, thách thức, nguy cơ đang cản trở con đường phát triển của các quốc gia dân tộc: an ninh thế giới bị đe doạ nghiêm trọng bởi các nhân tố truyền thống và phi truyền thống [bạo loạn, xung đột, khủng bố, chiến tranh, tội phạm công nghệ cao, thảm hoạ môi trường…]; các thế lực phản động tăng cường chiến lược diễn biến hoà bình chống phá chủ nghĩa xã hội và nhiều chính sách khác cản trở độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của các nước trên thế giới…

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc, đầy đủ về thời cơ và nguy cơ trong thế giới đương đại, Đảng, Nhà nước đã chủ động xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời và tổ chức thực hiện có hiệu quả; đã tranh thủ tốt các thời cơ, thuận lợi và ứng phó phù hợp trước các nguy cơ, thách thức, đẩy lùi nhiều khó khăn. Nhờ vậy, từ năm 1986 đến nay, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: bảo vệ, đổi mới và phát triển chủ nghĩa xã hội trước những thử thách nghiệt ngã của lịch sử; khắc phục khủng hoảng, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển; chính trị xã hội ổn định, đời sống Nhân dân có nhiều bước cải thiện rõ rệt, đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; quốc phòng, an ninh vững chắc, đối ngoại rộng mở, đảm bảo môi trường hoà bình, thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp quốc gia được nâng cao, như lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh“ chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hôm nay”.

Có thể khẳng định: Trong từng thành tựu của công cuộc đổi mới và trong mỗi bước phát triển của đất nước hôm nay đều khởi nguồn từ những bài học kinh nghiệm quý báu đúc kết từ các thời kỳ cách mạng trước đây. Trong đó, bài học kinh nghiệm nắm bắt và chớp thời cơ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 luôn luôn có giá trị lâu bền và ý nghĩa thời đại. Đăng Khoa [Tổng hợp]

Lê Thùy Trang
Lần xem: 11402
Go top

Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc lựa chọn thời cơ trong cách mạng tháng tám năm 1945

19/08/2021 16:14:41 CH

Vào lúc 14 giờ ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, tại vườn hoa Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể Nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, là dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam. Chớp thời cơ chiến lược “ngàn năm có một”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất” giành chính quyền trong cả nước. Việc dự báo đúng thời cơ, nhận định đúng thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng là vô cùng quan trọng, góp phần rất lớn, quyết định đến sự thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Ngược dòng lịch sử, ngay từ khi còn bị giam cầm trong các nhà tù của Quốc dân Đảng, Hồ Chí Minh đã luôn thức được vấn đề thời cơ trong quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm Nhật ký trong tù, Người đã viết: “Thác lộ, song xa dã một dụng,/ Phùng thời, nhất tốt khả thành công”; dịch nghĩa: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,/ Gặp thời, một tốt cũng thành công”.

Tháng 6/1940, được tin Pháp đầu hàng Đức, Nguyễn Ái Quốc lúc này đang ở Côn Minh, Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp Cơ quan ở nước ngoài của Đảng để phân tích tình hình và chuẩn bị kế hoạch hành động. Người đã phân tích và dự báo: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”. Sau cuộc họp này, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ thị cho Phùng Chí Kiên, Vũ Anh đến Quý Dương để cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đi Quế Lâm, tìm cách về nước.

Cuối tháng 6/1940, Nguyễn Ái Quốc đáp máy bay đi Trùng Khánh để gặp Chu Ân Lai trao đổi về thời cuộc. Cuối tháng 9/1940, Người đã đưa ra một nhận định cực kỳ quan trọng: “Đồng minh sẽ thắng. Nhật, Pháp ở Đông Dương chóng chày sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập”.

Ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc cùng với các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lê Quảng Ba lên đường về nước, đến ngày 8/02/1941, Người đã đặt chân tới cột mốc 108 trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc, trở về nước sau 30 năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài.

Từ ngày 10-19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Tám để phân tích tình hình thế giới đang bị tác động sâu sắc bởi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Người dự báo: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”.

Đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết của các mạng Đông Dương, không biết chớp thời cơ thì vạn năm cũng không đòi lại được. “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”.

Vào dịp tết Nguyên đán Nhậm Ngọ năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đã cho xuất bản tác phẩmLịch sử nước ta. Đây là một bài diễn ca gồm 236 câu lục bát kể lại lịch sử nước ta từ thời vua Hùng dựng nước đến năm 1942, ca ngợi truyền thống yêu nước, bất khuất, đoàn kết của Nhân dân ta. Cuối tác phẩm, Hồ Chí Minh đã đưa ra dự báo thiên tài: Năm 1945 - Việt Nam độc lập”.

Đặc biệt, nhằm tập hợp, quy tụ các lực lượng, cá nhân yêu nước trên toàn quốc cùng thực hiện các mục tiêu chung là giành lại độc lập dân tộc, thực hiện tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, theo chủ trương của Hồ Chí Minh, ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh ra đời. Chương trình Việt Minh nêu rõ: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại, chiến đấu đánh đổ chủ nghĩa đế quốc phát xít Nhật, giành quyền độc lập cho nước Việt Nam… lập chính phủ Nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do Quốc dân Đại hội cử lên, lấy cờ đỏ, sao vàng năm cánh làm quốc kỳ…”. Ngày 25/10/1941, Việt Minh ra bản Tuyên ngôn: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn…”.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, công tác xây dựng lực lượng cách mạng, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền đã diễn ra sôi nổi trong toàn quốc. Phong trào xây dựng các đoàn thể cứu quốc, như Hội Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc… diễn ra sôi nổi từ cuối năm 1941 ở cả nông thôn và thành thị. Song song với việc xây dựng các đoàn thể cứu quốc, tổ chức Mặt trận Việt Minh, việc xây dựng các căn cứ địa cũng được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Người, khu căn cứ địa Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên đã phát triển mạnh mẽ và trở thành khu giải phóng Việt Bắc. Hồ Chí Minh cũng chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12/1944. Đến giữa năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, lực lượng cách mạng trên toàn quốc đã phát triển vượt bậc, sẵn sàng cho thời cơ đến.

21 giờ 30 phút ngày 9/03/1945, Nhật đồng loạt tấn công Pháp trên toàn Đông Dương, bắt sống Toàn quyền Decoux và các sĩ quan cáo cấp tại Sài Gòn, đến chiều ngày 10/03, quân Pháp đầu hàng Nhật. Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đã họp ở Đình Bảng. Hội nghị đã đưa ra Chỉ thịNhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Bản Chỉ thị nêu rõ: “Ngay bây giờ phát động chiến tranh du kích, chiếm căn cứ, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng minh một cách tích cực”.

Tháng 5/1945, sau khi phát xít Italia, phát xít Đức bị đánh bại ở châu Âu, phát xít Nhật hoàn toàn bị cô lập và đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Tiếp đến, ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Chỉ trong vòng một tuần lễ, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt đạo quân Quan Đông - đạo quân tinh nhuệ bậc nhất của quân đội Nhật, giải phóng vùng Đông bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Trước đó nhằm gây sức ép với Chính phủ Nhật và phô trương sức mạnh vũ khí hạt nhân, trong hai ngày 6 và 9/8/1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố của Nhật là Hirôsima vàNagazaki làm hàng chục vạn người chết và để lại những hậu quả nặng nề kéo dài.

12 giờ ngày 15/8/1945, Đài phát thanh Tôkiô của Nhật Bản phát đi lời tuyên bố của Nhật hoàng “chấp nhận bản Tuyên bố chung của các cường quốc - Tuyên bố Pốtx-đam”. Nước Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng. Quân đội Nhật đang đồn trú tại các quốc gia khác ở nguyên vị trí chờ quân Đồng minh đến giải giáp. Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Thông tin từ nước Nhật, khiến quân đội Nhật đang đóng ở Việt Nam hoang mang, rệu rã; Chính phủ thân Nhật bị lung lay cực điểm.

Ngay từ ngày 12/8, Hồ Chí Minh đã biết được thông tin về khả năng đầu hàng của quân Nhật, đồng thời Người cũng nắm rõ tinh thần cách mạng sôi sục của quần chúng Nhân dân.

Ngày 13/8/1945, Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ đã ra thông báo khẩn: “Thời kỳ tiền khởi nghĩa đã hết, chúng ta đứng trong tình thế trực tiếp khởi nghĩa”. Hồ Chí Minh nhận rõ thời cơ tổng khởi nghĩa đã chính thức xuất hiện và thời cơ này chỉ tồn tại trong khoảng hai mươi ngày, từ ngày 15-8/1945 [Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng minh] đến ngày 5-9/1945 [quân đồng minh kéo vào nước ta để giải giáp quân Nhật]. Và Người đã khẩn trương chỉ đạo Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng [ngày 14 đến 15/8] và Đại hội quốc dân [ngày 16 đến 17/8] tại Tân Trào, thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam - Chính phủ lâm thời sau khi cách mạng thắng lợi.

Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng [ngày 14 đến 15/8] đã khẳng định: “cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”, cách mạng Việt Nam lúc này đang trong “tình thế vô cùng khẩn cấp”. Ngày 17/8/1945, trước đình Tân Trào, thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của Nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo Nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước…”.

Ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Hỡi đồng bào yêu quí! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến! Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trể. Tiến lên! Tiến lên! Dười lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên.

Đáp lời kêu gọi của Người và Trung ương Đảng, chỉ trong vòng 15 ngày [từ ngày 14 - 28/8/1945], toàn thể Nhân dân Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến đồng bằng, hải đảo… đều nhất loạt đứng lên tổ chức khởi nghĩa, lập ra chính quyền Nhân dân, làm nên cuộc khởi nghĩa trong toàn quốc thành công rực rỡ.

Tại Hà Tĩnh, từ ngày 17/8, Nhân dân các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Can Lộc, dưới sự lãnh đạo của lực lượng tự vệ đã chiếm huyện lỵ, lập chính quyền Nhân dân. Ngày 18/8, quần chúng Nhân dân và lực lượng vũ trang tiến về thị xã, chiếm các công sở, buộc lính bảo an giao nộp vũ khí, chính quyền cách mạng được thành lập và ra mắt ngay trong cuộc mít tinh của quần chúng. Cùng với Quảng Nam, Mỹ Tho, Bắc Giang và Hải Dương, Hà Tĩnh là một trong năm địa phương giành chính quyền về tay Nhân dân sớm nhất trong cả nước.

Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn đã khẳng định: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa… Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập”.

Sau này, khi đánh giá về cuộc cách mạng thánh Tám năm 1945, Tổng bí thư Trường Chinh đã viết: “Cách mạng tháng tám là kết quả của 80 năm đấu tranh không ngừng của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp. Nó cũng là một biến cố lịch sử vĩ đại của nước ta từ khi Quang Trung đuổi quân xâm lược Mãn Thanh [1789] đến nay”. Nhà sử học người Pháp Charees Fourniau cũng cho rằng: “Cách mạng tháng Tám là tiêu điểm của thế kỷ XX”.

76 năm đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử trọng đại của Cách mạng tháng Tám 1945. Nghệ thuật chớp thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945vẫn luôn là bài học cực kỳ quý báu cho cả hiện tại và tương lai. Bài học này hiện vẫn đang được Đảng và Nhân dân ta kế thừa, phát huy, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng đất nước. Dù trong hoàn cảnh nào, có khó khăn đến đâu nhưng nếu biết đoàn kết, tập hợp sức mạnh của Nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì mọi nhiệm vụ cách mạng đều sẽ thành công./.


Nguồn bài viết: Tùng Lĩnh

  • Ý kiến thảo luận
  • Ý kiến của bạn
Chưa có ý kiến nào, bạn hãy là người đầu tiên gửi ý kiến cho bài viết này.

Gửi ý kiến

  • Bài gần đây:
  • Quay lại | Lên đầu trang

  • NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ NHỮNG CƯƠNG LĨNH MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG [26-01-2022 12:00]
  • Đoàn viên Công đoàn cơ sở Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham gia chương trình hiến máu tình nguyện “Chủ nhật đỏ” lần thứ XIV tại Hà Tĩnh [24-01-2022 12:00]
  • Hội nghị trực tuyến toàn tỉnh quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết của Tỉnh ủy [18-01-2022 12:00]
  • Thư chúc Tết Nhâm Dần 2022 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng [17-01-2022 12:00]
  • Hà Tĩnh tạm dừng tổ chức các loại hình lễ hội và hoạt động bắn pháo hoa nổ [17-01-2022 12:00]
  • Bài cùng chuyên mục:
  • Xem thêm...

  • Trao tặng 19 suất quà cho đoàn viên có hoàn cảnh khó khăn nhân dịp Tết Nhâm Dần 2022 [24-01-2022 12:00]
  • Triển lãm tranh Truyện Kiều tại Khu lưu niệm Nguyễn Du. [24-01-2022 12:00]
  • Ban Quản lý di tích Nguyễn Du tổ chức hội nghị tổng kết năm 2021 [20-01-2022 12:00]
  • Hương Sơn đón bằng di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh Chùa Phúc Khánh [14-01-2022 12:00]
  • Hội nghị - hội thảo tổng kết Luật Di sản văn hóa [13-01-2022 12:00]

Video liên quan

Chủ Đề