Thành phần chính của thuốc ở hai bền thành bao diêm là

1] Diêm ma sát : Diêm này chỉ cần dùng que diêm< ko cần hộp quẹt đi kèm>, quẹt vào bất kỳ đâu có ma sát là có thể cháy. Đầu que diêm này chứa : P< phot pho> trắng, lưu huỳnh, một số oxit kim loại như chì oxit, mangan oxit... < để tạo độ kết dính, giữ chặt và ko làm P trắng bốc cháy ở t* thường> 2] Diêm quẹt < hiện này dùng> : Chia làm 2 phần : que diêm và phần quẹt diêm < ở hộp diêm> Phần quẹt : P đỏ < dạng # của phot pho, khó cháy nổ hơn P trắng, dễ biến đổi thành P trắng ở đk t* cao> , chất thô để tạo ma sát < cũng có thể dùng oxit chì, or bột thủy tinh>...> Phần đầu que diêm : Là hỗn hợp Kali clorat và một số chất dễ cháy như antimony trisulphide + chất keo dính. nguồn: sưu tầm

2] Thành phần và tác dụng của thuốc diệt chuột

- Công thức thuốc chuột là Zn3P2, sau khi chuột ăn vào thì sẽ cảm thấy khát nước và tìm đến nguồn nước, khi uống nước vào thì pư sẽ xảy ra nhanh chóng Zn3P2 + H2O ---> Zn[OH]2 + PH3[khí độc] Lượng nước trong cơ thể chuột giảm nhanh chóng, khiến nó khát và đi tìm nước, PH3 sinh ra là chất độc giết chết chuột, vì vậy uống nước càng nhiều nó càng mau chết. tác dụng: diệt chuột
Ma trơi là hiện tượng các hợp chất photpho được hình thành từ hoạt động của vi khuẩn sống dưới lòng đất phần mộ [gồm hai chất đó là [PH3] và [P2H4] trong xương người và động vật dưới mồ bốc lên thoát ra ngoài, gặp không khí trong một số điều kiện sẽ bốc cháy thành lửacác đốm lửa nhỏ với độ sáng khá nhỏ [xanh nhạt], lập lòe, . Ban đêm mới thấy được as còn ban ngày thì các đốm lửa này có thể bị ánh sáng mặt trời che khuất. + khi gặp ma trơi, con người sẽ sợ, hoảng loạn và chạy. Khi đó sẽ sinh ra một luồng khí chuyển động làm ngọn lửa bay theo chiều gió mak con người tạo ra khi chạy.làm cho ta tưởng rằng nó đuổi theo ta.

kem đánh răng. Giải thích tại sao dùng kem đánh răng

tp chủ yếu là : men răng: canxi photphat kem đánh răng: florua mục đích chính của việc dùng kem đánh răng là để loại bỏ màng vi khuẩn bám dính, không màu phát triển trên răng.

mình chỉ biết vậy thôi.

Reactions: mâypr0 and KHANHHOA1808

Để được hấp thu, một loại thuốc được dùng qua đường uống phải còn tồn tại qua các môi trường có pH thấp và các dịch bài tiết ở đường tiêu hóa bao gồm cả các enzym có khả năng phân huỷ. Các thuốc có bản chất peptid [ví dụ insulin] đặc biệt dễ bị phân hủy và không dùng được qua đường uống. Hấp thu các thuốc dùng qua đường uống thông qua quá vận chuyển qua màng tế bào biểu mô trong đường tiêu hóa. Sự hấp thụ bị ảnh hưởng bởi

  • Sự khác biệt về pH trong lòng ống dọc theo đường tiêu hóa

  • Diện tích bề mặt trên một thể tích lòng ống

  • Sự có mặt của mật và chất nhầy

  • Bản chất của màng biểu mô

Niêm mạc miệng có lớp biểu mô mỏng và hệ tuần hoàn phong phú, có lợi cho sự hấp thu; tuy nhiên, thời gian tiếp xúc với thuốc thường quá ngắn nên chỉ hấp thu được lượng thuốc nhỏ. Một loại thuốc đặt giữa nướu răng và má [dưới má] hoặc dưới lưỡi [đặt dưới lưỡi] được giữ lại lâu hơn nên sự hấp thu thuốc được tăng cường.

Dạ dày có bề mặt biểu mô tương đối lớn, nhưng lớp niêm mạc dày và thời gian vận chuyển qua dạ dày ngắn nên sự hấp thu bị hạn chế. Vì hầu hết sự hấp thu xảy ra ở ruột non nên làm rỗng dạ dày thường là bước để hạn chế tốc độ hấp thu. Thức ăn, đặc biệt là thức ăn giàu chất béo, làm chậm sự rỗng của dạ dày [và tốc độ hấp thu thuốc], điều này giải thích tại sao uống một số thuốc khi dạ dày rỗng có thể tăng tốc độ hấp thụ. Các thuốc ảnh hưởng đến việc làm rỗng dạ dày [ví dụ thuốc chống ký sinh trùng] ảnh hưởng đến tốc độ hấp thu của các thuốc khác. Thức ăn có thể làm tăng sự hấp thu các thuốc hòa tan kém [ví dụ: griseofulvin], giảm hấp thu thuốc bị giáng hóa tại dạ dày [ví dụ penicillin G], hoặc có ít hoặc không có tác dụng.

Ruột non có diện tích bề mặt lớn nhất để hấp thu thuốc trong đường tiêu hoá, và màng của nó có khả năng thẩm thấu hơn màng dạ dày. Vì những lý do này, hầu hết các loại thuốc được hấp thu chủ yếu ở ruột non, và ngay cả các thuốc có bản chất axit cần tồn tại dưới dạng không ion hoá để đi qua các màng, được hấp thu nhanh hơn trong ruột so với trong dạ dày. Độ pH trong lòng ống ở tá tràng là 4 đến 5 nhưng dần dần trở nên kiềm hơn, tiến gần đến 8 ở hồi tràng. Hệ vi khuẩn ở đường tiêu hóa có thể làm giảm hấp thu. Giảm lưu lượng máu [ví dụ như sốc] có thể làm giảm gradient nồng độ qua niêm mạc ruột và giảm sự hấp thụ từ quá trình khuếch tán thụ động.

Thời gian vận chuyển thuốc qua đường ruột có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc, đặc biệt đối với các thuốc được hấp thu bằng vận chuyển tích cực [ví dụ vitamin B], hòa tan chậm [ví dụ như griseofulvin] hoặc phân cực [nghĩa là có độ hòa tan trong lipid thấp, ví dụ như một số thuốc kháng sinh].

Để tối đa hóa sự tuân thủ điều trị, bác sỹ lâm sàng nên kê đơn hỗn dịch uống và thuốc viên nhai cho trẻ

Đối với họ người, xem Diêm [họ].

Diêm là một dụng cụ tạo lửa phổ biến từ thời kỳ cận đại tới nay.

Một que diêm đang cháy

Trong lịch sử, thuật ngữ phù hợp đề cập đến chiều dài của dây [sau này cambric]tẩm hóa chất, và được phép đốt cháy liên tục. Chúng được sử dụng để đốt lửa và châm ngòi súng và pháo. như vậy được đặc trưng bởi tốc độ cháy của nó, tức là diêm cháy nhanh và cháy chậm. Tùy thuộc vào công thức của nó, một que diêm chậm cháy với tốc độ khoảng 30 cm [1 ft] mỗi giờ và một que diêm nhanh chóng ở 4 đến 60 cm [2 đến 24 in] mỗi phút.

Tương đương hiện đại của loại diêm này là que gỗ đơn giản, vẫn được sử dụng trong pháo hoa để có được độ trễ thời gian có kiểm soát trước khi đánh lửa. Ý nghĩa ban đầu của từ này vẫn tồn tại trong một số thuật ngữ pháo hoa, chẳng hạn như diêm đen [que diêm tẩm bột đen]và bengal [một quả pháo hoa giống như tia lửa tạo ra một ngọn lửa màu, cháy tương đối dài]. Nhưng, khi các trận đấu ma sát trở nên phổ biến, chúng trở thành đối tượng chính có nghĩa là thuật ngữ này.

Từ "match" bắt nguồn từ tiếng Pháp cổ "mèche" đề cập đến bấc của một ngọn nến

Một ghi chú trong văn bản Đường Kiều Tranh,được viết vào năm 1366, mô tả một que diêm lưu huỳnh, những que gỗ thông nhỏ tẩm lưu huỳnh, được sử dụng ở Trung Quốc bởi "những người phụ nữ triều đình nghèo khó" vào năm 577 sau Công nguyên trong cuộc chinh phục Bắc Tề. Trong Năm triều đại và Mười vương quốc [907-960 sau Công nguyên], một cuốn sách có tên Records of the Unworldly and the Strange được viết bởi tác giả Trung Quốc Tao Gu vào khoảng năm 950 đã tuyên bố:

Nếu có trường hợp khẩn cấp vào ban đêm, có thể mất một thời gian để làm cho ánh sáng thắp sáng đèn. Nhưng một người đàn ông khéo léo đã nghĩ ra hệ thống ngâm những que gỗ thông nhỏ với lưu huỳnh và lưu trữ chúng sẵn sàng để sử dụng. Chỉ bằng một chút lửa, chúng bốc cháy. Người ta có một ngọn lửa nhỏ như một tai ngô. Điều kỳ diệu này trước đây được gọi là "nô lệ mang ánh sáng", nhưng sau đó khi nó trở thành một bài báo thương mại, tên của nó đã được đổi thành 'cây gậy tấc lửa'.

Một văn bản khác, Ngũ Lâm Búa là vậy,có niên đại từ năm 1270 sau Công nguyên, liệt kê các diêm lưu huỳnh như một thứ gì đó được bán ở các chợ Của Hàng Châu,khoảng thời gian Marco Polo đến thăm. Các loại diêm được gọi là fa chu hoặc tshui erh.

Diêm ban đầu là loại diêm ma sát, vốn có thể tự cháy khi quẹt vào bất cứ bề mặt thô nhám nào. Diêm loại này do nhà hóa học John Walker sáng chế năm 1827 với đầu que sử dụng hỗn hợp lưu huỳnh, phosphor trắng, oxit chì, oxit mangan. Ma sát sinh ra nhiệt và ở 40 độ thì diêm bắt lửa. Tuy nhiên chính vì thế diêm trở nên kém an toàn, chỉ va chạm nhẹ cũng có thể gây hỏa hoạn. Thêm vào đó, phosphor trắng sử dụng ở đầu diêm rất độc. Diêm có thể cháy mức cao nhất lên đến 4000 độ C.

Diêm an toàn được thiết kế lại bằng việc sử dụng phosphor đỏ vốn không tự cháy khi ma sát thông thường, nhưng nếu trộn với kali clorat [clorat kali] thì lại dễ cháy. Trong sản phẩm diêm an toàn hiện nay, kali clorat được tách riêng khỏi phosphor đỏ để ngăn cháy ngoài ý muốn. Que diêm được thiết kế dưới dạng que nhỏ làm bằng gỗ, đầu tẩm lưu huỳnh và bọc kali clorat. Vỏ bao diêm [hoặc tờ bìa đi kèm kẹp diêm] thì bôi phosphor đỏ. Người sử dụng quẹt đầu kali clorat vào phần phosphor đỏ để ma sát tạo ra sự cháy.

 

Một số loại diêm cổ

Khi lấy đầu đỏ của diêm rồi trộn với phosphor đỏ thì sẽ tạo ra nổ nếu đập mạnh vào, vì ai cũng biết đó là một hỗn hợp dễ phát nổ. Do tác động của vật cứng nào đó nên nó nổ tương tự như thuốc nổ[1] tùy theo liều lượng. Đã có những trường hợp bị thương, bỏng, mất bộ phận cơ thể, tổn thương vĩnh viễn.

Diêm được sản xuất nhanh, đại trà và giá thành rất rẻ nên phổ biến toàn cầu. Tuy nhiên diêm thường không giữ được lâu, dễ phát sinh hỏa hoạn và dễ hư hỏng vì ẩm. Hiện nay, các phương pháp khác để tạo ra lửa tiện lợi, sạch sẽ và đơn giản hơn [như sử dụng bật lửa, điện] trở nên phổ biến khiến trong nhiều trường hợp diêm đã không còn là lựa chọn của người sử dụng.

  •  

Ảnh chụp một que diêm đang cháy

  •  

    Một số que diêm [que màu đen là que đã sử dụng]

  • Bật lửa

  1. ^ “Thuốc nổ”, Wikipedia tiếng Việt, ngày 5 tháng 9 năm 2021, truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2021

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Diêm&oldid=68109536”

Video liên quan

Chủ Đề