Thế nào là hoa văn đình, đền, chùa

                  Đền thờ vua Hùng – một công trình trong quần thể Đền thờ vua Hùng

Đền là nơi thờ những nguời thật, việc thật.. có công, có sức ảnh huởng to lớn đến tinh thần nguời dân họ tạo cho nguời dân tin tuởng, sùng bái và đuợc phong thánh hoặc thần giống như Hưng Đạo Vuơng Trần Quốc Tuấn, Bác Hồ..

Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc.

Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian.

Miếu thờ

Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có quy mô nhỏ hơn đền. Miếu thường ở xa làng, yên tĩnh, thiêng liêng và là nơi thờ các vị thánh thần. Khi miếu phối hợp với thờ Phật thì được gọi là Am, ở Nam bộ gọi là Miễu.

Miếu và đền về kiểu mẫu thì giống nhau, chỉ khác nhau về quy mô. Các miếu thường thờ các vị thần như miếu thổ thần, thủy thần, sơn thần, miếu cô, miếu cậu…

                     Miếu Nhị Phủ ở thành phố Hồ Chí Minh – của người Hoa

Chùa Việt Nam

Chùa là công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng của đạo Phật, đây là thờ Phật đồng thời là nơi ở sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng ni. Đây là nơi những tín đồ đạo Phật lui tới để nghe thuyết giảng và thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư.

Việt Nam có một số chùa lớn như chùa Bái Đính, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương…

                                             Kiến trúc chùa Tây Phương

Đình Làng

Đình là công trình kiến trúc cổ truyền của làng quê Việt Nam, là nơi thờ Thành hoàng và cũng là nơi hội họp của người dân. Ban đầu, đình là điểm quán để nghỉ của các làng mạc Việt Nam. Đến khoảng giữa thế kỷ 13, vua Trần Nhân Tông cho đắp các tượng Phật ở các đình quán. Sau đó, đến thời Lê sơ, các đình làng bắt đầu là nơi thờ thành hoàng làng và là nơi hội họp của dân chúng.

Đình làng thường được bố trí ở trung tâm làng xã, địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Trong tiềm thức văn hóa người Việt, đình làng gắn liền với hình ảnh cây đa, giếng nước, là địa điểm sinh hoạt chung và hồn vía của làng xã.

Các ngôi đình nổi tiếng như Đình Bảng, đình Thổ Hà, đình Bát Tràng…

                                                 Đình Bảng Bắc Ninh

Phủ thờ

Phủ thường là nơi thờ Mẫu – phủ Gầy, phủ Tây Hồ… một số nơi thờ tự [không nhất thiết thờ Mẫu] ở Thanh Hóa cũng gọi đền là phủ. Suy cho cùng phủ là một nơi thờ tự Thánh mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương [tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật]. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ VVII.
Quán: Một dạng đền gắn với đạo Lão [Đạo giáo]. Tùy theo từng thờ mà có các dạng thức thờ tự khác nhau. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất chỉ như của một ngôi đền thờ vị thần thánh cụ thể.

                                                      Bích câu đạo quán

Như Bích Câu đạo quán thờ Tú Uyên, rồi đền thờ Từ Thức… Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh [Nguyên Thủy Thần Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân], Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân [Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô] đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ [Ngọc Hoàng] – Có thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây.

Am: Hiện được coi là một kiến trúc nhà thờ Phật. Gốc của Am được nghĩ tới từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng Làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật [Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…] cũng có khi là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV [thời Lê sơ] Am còn là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân.

Như vậy, đền, miếu, đình là những công trình kiến trúc xuất phát ban đầu từ tín ngưỡng thờ cúng dân gian, nơi đây thờ các vị thánh thần theo truyền thuyết dân gian hoặc những vị anh hùng có công với đất nước, với địa phương được nhân dân tôn xưng là thánh [Đức Thánh Trần, Thánh Gióng, thành hoàng làng…]. Ở mỗi đơn vị đình, miếu, đền thường chỉ thờ 1 vị thánh thần theo tín ngưỡng của địa phương [đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, miếu thủy thần thờ thần nước, đình làng thờ Thành hoàng là của mỗi địa phương…].

Chùa là nơi thờ Phật, Bồ Tát cùng những nhân vật trong hệ phái Phật giáo. Do ảnh hưởng tư tưởng Tam giáo đồng nguyên [Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo] từ thời nhà Lý nên một số ngôi chùa còn thờ đồng thời cả Phật, Thái thượng Lão quân và Khổng Tử.

Việc thờ Phật ở chùa, thờ thánh thần ở đình, đền, miếu và tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có điểm chung đó là đều xuất phát từ lòng biết ơn, thành kính hướng tới những người có công cứu rỗi cho cộng đồng, địa phương, những người có công tái tạo và dưỡng dục những thế hệ con người. Đó đều là những hoạt động tâm linh quan trọng trong đời sống văn hóa tín ngưỡng của người Việt.

Sưu tầm 

Tham khảo bài viết về những điều cần biết về thiết kế trước khi dựng nhà

Liên hệ:
Chuyên gia thiết kế nhà gỗ Ths.kts. Nguyễn Huy Khiêm

Địa chỉ : Thôn Phú Đa, Cần Kiệm, Thạch Thất, Hà Nội

Điện thoại:0973 812 666

Lâm Tùng được biết đến là nhà sản xuất và phân phối các sản phẩm bê tông lớn nhất đặc biệt là con sơn bê tông, con tiện bê tông, con tiện lan can trang trí, hàng rào bê tông, hoa văn trang trí. Tổng hợp nhiều mẫu hoa văn trang trí biệt thự , nhà phố theo kiến trúc cổ điển và tân cổ điển: con bọ rầm, con sơn trang trí, hoa văn nghệ thuật, phù điêu xi măng, đầu cột, trụ cột, ô thoáng …Hoa văn đình chùa trang trí nhà thờ, đình chùa, miếu thờ tại Hà Nội. Sản phẩm hoa văn đình chùa như Các loại kìm nóc, mái đao, ổ long phụng, mặt nguyệt, cuốn thư xi măng, tranh tứ linh…

Showing all 26 results

Lễ hội chùa Tiên, xã Phú Lão [Lạc Thủy] là một trong những hoạt động du lịch văn hóa, tín ngưỡng tổ chức hàng năm, thu hút hàng vạn du khách.

[HBĐT] - Theo tổng hợp của Bảo tàng tỉnh, toàn tỉnh hiện có khảng 200 đình, đền, chùa, miếu. Đây là nơi người dân thờ phụng các vị thánh thần, các anh hùng, danh nhân có công với dân, với nước, với cộng động dân cư. Hệ thống đình, đền, chùa, miếu gắn liền với sự hình thành và phát triển của nền văn hóa Hòa Bình.

Tín ngưỡng dân gian qua các đình, đền, chùa, miếu

Ông Nguyễn Quốc Khánh, Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh cho biết: Trong đời sống tinh thần của người Mường Hòa Bình, đình, đền, chùa, miếu là các thiết chế văn hoá cổ truyền, là một bộ phận không thể tách rời trong tâm thức, nơi để người dân biểu hiện niềm tin, khát vọng, gửi gắm khát khao và quan niệm về chân – thiện – mỹ. Qua  các hoạt động tín ngưỡng dân gian, đình, đền, chùa, miếu không chỉ là một sản phẩm về nhận thức thế giới của tư duy con người, mà còn là một phương tiện làm nên sức mạnh, giúp các bản làng, con người tồn tại và phát triển.

Đình, đền, chùa, miếu nằm rải rác ở các địa phương trong tỉnh nhưng tập trung nhiều nhất ở các huyện Lạc Thủy, Yên Thủy, Kim Bôi, Lương Sơn. Đình, đền,   chùa, miếu ở tỉnh ta chủ yếu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tuy nhiên cũng có một số xuất hiện khá sớm, khoảng thế kỷ thứ XIV, như chùa Trần ở xã Tú Sơn [Kim Bôi]. Tại nhiều đình, chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như tượng phật, chuông, đồ thời tự, sắc phong của các triều đại phong kiến… Trong số đó, đáng chú ý là tại chùa Quel Ang xã Tân Phong [Cao Phong] và chùa Mường Khến, thị trấn Mãn Đức [Tân Lạc] còn lưu giữ 2 chiếc chuông cổ quý có niên đại cuối thế kỷ XVIII.

Trong các đình, đền, chùa, miếu, người dân thường thờ đức Tản Viên Sơn Thánh, Quốc mẫu Hoàng Bà và thành hoàng làng là những người bảo trợ, che chở, đỡ đầu cho bản mường. Cũng như nhiều vùng dân cư khác, việc thờ các vị nhân thần của người dân đều thể hiện sự tôn kính, ghi nhớ những người đã có công lập bản, lập mường, bảo vệ con người khỏi thiên tai, địch họa, hướng dẫn con người lao động, sản xuất… Bên cạnh đó, hệ thống tín ngưỡng của các dân tộc trong tỉnh cũng khá phong phú, ngoài thờ phụng các vị nhân thần, người dân còn thờ ma núi, ma nước, thần lúa, thần cây… Nét độc đáo trong tín ngưỡng của người Mường là việc thờ bụt mọc, còn gọi là thần đá hay nhiên thần. Hình tượng bụt mọc là những nhũ đá có hình người trong các hang động, được người dân phát hiện và gắn cho nó một câu chuyện thần thoại, huyền bí nào đó gắn liền với cuộc sống của người dân. Điển hình như câu chuyện thờ thần đá của người dân Mường Tre,  xã Văn Nghĩa [Lạc Sơn]. Tương truyền rằng, trong khi khai khẩn dòng nước lấy làm ruộng, gặp phải hòn đá chắn dòng, dân bẩy đi chỗ khác để nước tiêu thống nhưng hôm sau đá lại về chỗ cũ. Lấy làm lạ, người dân xem kỹ thấy đá có hình người bèn đem về thờ. Từ đó làm ăn được, mưa thuận gió hòa nên dân Mường Tre lập miếu thờ đá thần.

Theo ông Nguyễn Quốc Khánh, Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh, từ việc thờ thần đá [bụt mọc], người dân đã mở rộng tín ngưỡng, lấy hang, động làm thiết chế đền, chùa, như hang xóm Trại, xã Tân Lập, huyện Lạc Sơn], hang chùa Khộp [xã Yên Phú], chùa Dom [xã Yên Lạc, huyện Yên Thủy]. Sau này, do đời sống kinh tế phát triển nên một số địa phương đã đưa các đền, chùa  ra khỏi hang và xây dựng thành những thiết chế kiến trúc phù hợp. Tuy nhiên, tính nguyên sơ của tượng bụt mọc vẫn giữ nguyên và được đặt tại các ban thờ chính của đền, chùa mới. Đối với các hang động có mặt bằng phía trước, người dân dựng đền, chùa phía trước, lấy lòng hang làm hậu cung hoặc 1 thiết chế của đền, chùa như đền Niệm ở xã Hưng Thi [Lạc Thủy].

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa qua hệ thống đình, đền, chùa, miếu

Hệ thống đình, đền, chùa, miếu xuất hiện khá sớm và phát triển rộng khắp trong tỉnh, tuy nhiên, do nhiều biến động của thời gian và lịch sử nên hầu hết bị xuống cấp, hư hỏng hoặc còn lại rất ít các cấu trúc thiết chế, đặc biệt là miếu thờ gần như không tồn tại. Trong tổng số hơn 200 đình, đền, chùa, miếu mà Bảo tàng tỉnh đã thống kê được có khoảng 40% được tu bổ, tôn tạo do nhân dân tự nguyện đóng góp. Công tác quản lý của chính quyền địa phương không được coi trọng, chủ yếu giao cho một vài người cao tuổi trông nom.

Nhưng năm gần đây, được sự quan tâm của Nhà nước, nhiều đình, đền, chùa, miếu đã được hỗ trợ, đầu tư tu bổ, trùng tu, tôn tạo làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng và hoạt động văn hóa của người dân địa phương. Không ít di tích đình, đền, chùa, miếu đã được xếp hạng di tích văn hóa, lịch sử cấp tỉnh, cấp quốc gia như chùa Tiên [xã Phú Lão, huyện Lạc Thủy], chùa Khánh [xã Yên Thượng, huyện Cao Phong], miếu xóm Lũy [xã Phong Phú, huyện Tân Lạc], đình Xàm [xã Phú Lai, huyện Yên Thủy], Đình Sủ Ngòi [xã Sủ Ngòi, TP Hòa Bình]…

Hệ thống tín ngưỡng của các dân tộc tỉnh ta khá phong phú, đi kèm với phần lễ bao giờ cũng có phần hội. Cùng với việc thờ phụng các nhân thần, nhiên thần để truyền đạt niềm ước mơ, khát vọng, sự biết ơn, người dân còn tổ chức nhiều hình thức hoạt động văn hóa dân gian, tổ chức các trò chơi để giao lưu, vui chơi, nghỉ ngơi thư giãn sau những ngày lao động vất vả và chuẩn bị bước vào một giai đoạn mới của cuộc sống. Việc tổ chức các lễ hội như vậy cũng để nhắc nhở con cháu nhớ về công lao của nhưng người đã góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương, là dịp để những người xa quê nhớ về cội nguồn. Cũng theo ông Nguyễn Quốc Khánh, hầu hết các đình, đền, chùa đều tổ chức các hoạt động lễ và hội. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng vùng dân cư mà người dân tổ chức các hoạt động lễ hội to hay nhỏ. Đến nay, một số hoạt động lễ hội được tổ chức quy mô cấp huyện, cấp tỉnh thu hút đông sự tham gia của người dân trong và ngoài địa phương như: lễ hội chùa Tiên [xã Phú Lão, huyện Lạc Thủy], lễ hội đình Vai [xã Thanh Nông], lễ hội đền và miếu Trung Báo [xã Cao Thắng, huyện Lương Sơn], lễ hội đình Xàm [xã Phú Lai], lễ hội chùa Hang [xã Yên Trị, huyện Yên Thủy], lễ hội đền Bờ [xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc]…

Từ các hoạt động tín ngưỡng văn hóa đơn thuần của một địa phương, với những giá trị về tâm linh, và phong cảnh đẹp xung quanh các ngôi đình, đền, chùa, nhiều, đến nay,  lễ hội đã được phát triển trở thành điểm du lịch tâm linh độc đáo thu hút khá đông du khách thập phương tìm về. Điển hình như lễ hội chùa Tiên – Phú Lão có hệ thống đền, chùa khá phong phú nằm ở địa thế khá đẹp, gần gũi với thiên nhiên, bên cạnh đó còn có nhiều hang động đẹp, nên ngoài ngày chính hội, khách thập phương vẫn tìm đến tấp nập để thưởng ngoạn phong cảnh. Bình quân mỗi năm, Chùa Tiên – Phú Lão thu hút khoảng 10 vạn du khách thập phương. Đền Bờ thuộc xã Vầy Nưa [Đà Bắc] cũng là một trong những điểm du lịch tâm linh của tỉnh. Lễ hội chính được tổ chức vào dịp đầu năm, nhưng do vị trí đền nằm trên vùng hồ Hòa Bình có phong cảnh núi non, sông nước đẹp và nhiều bản làng của người dân địa phương vẫn còn giữ nguyên được tập quán văn hóa sinh hoạt truyền thống nên thường xuyên có khách du lịch tìm đến đề thưởng ngoạn phong cảnh và đi lễ đền.

Du lịch tâm linh là loại hình du lịch thân thiện với môi trường và mang lại cho du khách những giá trị tinh thần, sự thư giãn thanh tịnh từ sâu thẳm tiềm thức trong nhịp sống hiện đại ngày nay. Bên cạnh đó, việc khai thác các giá trị văn hóa, kiến trúc của hệ thống đình, chùa, miếu, để phát triển du lịch tâm linh là hướng đi hứa hẹn tạo diện mạo mới cho du lịch của tỉnh. Hiện nay, Bảo tàng tỉnh đang kiểm kê hệ thống đình, đền, chùa, miếu trong phạm vi toàn tỉnh nhằm nắm lại thực trạng và đề xuất phương án bảo tồn.

                                                        Ngọc Vinh

Video liên quan

Chủ Đề