Tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực xã hội

Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực hiệu quả

Đánh giá nguồn nhân lực là một trong số những vấn đề quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực. Tại sao việc đánh giá nguồn nhân lực lại quan trọng? Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực nào là hiệu quả nhất? Hãy cùng IRDM tìm hiểu ngay tại bài viết dưới đây.

Mục Lục

  • 1. Tại sao cần đánh giá nguồn nhân lực?
  • 2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
    • 2.1. Chỉ số mục tiêu
    • 2.2. Chỉ số công việc
    • 2.3. Chỉ số bổ sung

Tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực

Thứ tư - 16/05/2018 10:19

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tếquốc tế, quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao độngdiễn ra ngày càng sâu sắc, việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu cấp thiết đối với các nền kinh tế. Do đó chất lượng nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranhvà sự thành công của mỗi quốc gia. Bài viết sau sẽ phân tích tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.

Chất lượng nguồn nhân lực [NNL] là toàn bộ năng lực của lực lượng lao động được biểu hiên thông qua ba mặt: thể lực, trí lực, tinh thần. Ba mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau cấu thành chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, thể lực là nền tảng, là phương tiện để truyền tải tri thức, trí tuệ là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực, ý thức tác phong làm việc là yếu tố chi phối hoạt động chuyển hóa của thể lực trí tuệ thành thực tiễn.

1. Thể lực

Thể lực là tình trạng sức khỏe của NNL bao gồm nhiều yếu tố cả về thể chất lẫn tinh thần và phải đảm bảo được sự hài hòa giữa bên trong và bên ngoài. Chất lượng NNL được cấu thành bởi năng lực tinh thần và năng lực thể chất, tức là nói đến sức mạnh và tính hiệu quả của những khả năng đó, trong đó năng lực thể chất chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Thể lực tốt thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bỉ, dẻo dai của sức khỏe cơ bắp trong công việc; thể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí lực; bởi nếu không chịu được sức ép của công việc cũng như không thể tìm tòi, sáng tạo ra những nghiên cứu, phát minh mới. Thể lực của NNL được hình thành, duy trì và phát triển bởi chế độ dinh dưỡng, chế độ chăm sóc sức khỏe. Vì vậy, thể lực của NNL phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội, phân phối thu nhập cũng như chính sách xã hội của mỗi quốc gia.

Hiến chương của tổ chức Y tế thế giới [WHO] đã nêu: Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải là không có bệnh hoặc thương tật.

Thể lực là sự phát triển hài hòa của con người cả về thể chất lẫn tinh thần [sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần]. Thể lực là năng lực lao động chân tay; sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hành động thực tiễn.

Thể lực được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu cơ bản như: chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất và các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.

2. Trí lực

Tri thức là yếu tố cơ bản của trí lực, là sự tổng hợp khái quát kinh nghiệm cuộc sống, là nhận thức lý tính. Nắm bắt được nó sẽ có lợi trong việc chỉ đạo thực tiễn, có lợi trong việc nâng cao khả năng phân tích và lý giải vấn đề.

Trí lực là sự kết tinh của tri thức nhưng không phải là tri thức xếp đống. Một đống tri thức đơn giản chỉ có thể là cuốn từ điển trong kho chứa sách và được mọi người sử dụng, còn kết tinh lại bao gồm cả việc chắt lọc, cải tạo và chế tác tri thức. Đối với những người theo chủ nghĩa Mác, trí lực là năng lực nhận thức và cải tạo thế giới. Như thế có nghĩa là loại năng lực ấy phải lấy sự vân dụng tri thức tiến hành khoa học và lao động làm nội dung. Trí lực ngoài việc chiếm giữ tri thức ra còn phải có một phương pháp tư duy khoa học và kĩ năng kĩ xảo điêu luyện. Hay nói một cách cụ thể hơn, trí lực được phân tích theo hai góc độ sau:

  1. Về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ

Trình độ văn hóa là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì sự sống. Trình độ văn hóa được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy; qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ [CMNV] là kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện yêu cầu công việc của vị trí đang đảm nhận.

Trình độ chuyên môn của người lao động [NLĐ] trong doanh nghiệp là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng NNL, bởi lẽ trình độ học vấn cao tạo ra những điều kiện và khả năng để tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất kinh doanh ; sáng tạo ra những sản phẩm mới góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp đó nói riêng và nền kinh tế - xã hội nói chung. Thực tế cho thấy, ở phần lớn các doanh nghiệp NLĐ trình độ chuyên môn cao thì doanh nghiệp đó phát triển nhanh. Tuy nhiên, cũng có những doanh nghiệp mặc dù NLĐ có trình độ chuyên môn cao, nhưng chưa tận dụng hết được tiềm năng này, nên tốc độ phát triển cũng như năng suất lao động của họ chưa cao, đó là do cơ chế quản lý, khai thác và sử dụng NNL chưa được tốt.

Khi nói tới nhân lực, ngoài thể lực và trí lực của con người cũng cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn; bởi kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, đó là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi, cách tân các hoạt động, các giải pháp mới trong công việc như một sự sáng tạo văn hóa; đồng thời, nói đến NL tức là nói đến con người thì yếu tố quan trọng không thể bỏ qua đó là phẩm chất đạo đức, thái độ và phong cách làm việc của con người. Trước đây chúng ta thường hiểu NL đơn giản chỉ là sức người với thể lực và trí lực của họ.

  1. Kỹ năng mềm

Ngày nay, các doanh nghiệp khi thực hiện tuyển dụng đều tìm kiếm những ứng viên mà ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ [ thường được thể hiện qua bằng cấp, khả năng học vấn…] còn có những kỹ năng mềm khác hỗ trợ cho công việc. Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, tin học, ngoại ngữ ... là những kỹ năng thường không phải lúc nào cũng được học trong nhà trường, không liên quan đến kiến thức chuyên môn. bổ trợ và làm hoàn thiện hơn năng lực làm việc của người lao động. Chúng quyết định bạn là ai, làm việc thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc.

3. Ý thức của người lao động

Chất lượng NNL còn được thể hiện qua những yếu tố hình không thể định lượng được bằng những con số cụ thể như: ý thức tổ chức kỷ luật, tự giác trong lao động, biết tiết kiệm, có tinh thần trách nhiệm trong việc nghiên cứu các sản phẩm, tinh thần hợp tác, tác phong làm việc khẩn trương, chính xác, lương tâm nghề nghiệp.... nhưng lại là những yếu tố rất quan trọng quy định bản tính của NNL và đóng vai trò quyết định sự phát triển bền vững của quốc gia, doanh nghiệp. Tất cả những phẩm chất đó nằm trong phạm trù đạo đức của con người.

Khi nhắc đến NNL, người ta thường nhấn mạnh đến các phẩm chất văn hóa, đạo đức và truyền thống kinh doanh, tác phong làm việc công nghiệp… như là một nhân tố cấu thành nên đặc thù NNL riêng. Bên cạnh việc nâng cao số lượng NNL thì việc nâng cao chất lượng NNL là một yếu tố quan trọng không thể không nhắc đến. Vì vậy, việc xây dựng truyền thống văn hoá trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung là những nội dung cơ bản để nâng cao chất lượng NNL

Tác giả bài viết: Trần Hằng

Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực

Sức khỏe của nguồn nhân lực là trạng thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần của con người. Để phản ánh điều đó có nhiều chỉ tiêu biểu hiên như: Tiêu chuẩn đo lường về chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa, thần kinh, tâm thần, tai, mũi, họng…Bên cạnh đó việc đánh giá trạng thái sức khỏe còn thể hiện thông qua các chi tiêu: tỷ lệ sinh, chết, biến động tự nhiên, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính…

Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của nguồn nhân lực

Trình độ văn hóa là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông không chỉ về lĩnh vực tự nhiên mà còn bao gồm cả lĩnh vực xã hội. Ở một mức độ cho phép nhất định nào đó thì trình độ văn hoá của dân cư thể hiện mặt bằng dân trí của một quốc gia.

Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực được thể hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ:

- Số lượng và tỷ lệ biết chữ

- Số lượng và tỷ người qua các cấp học tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học, cao đẳng, đại hoc, trên đại học,…

Đây là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực cũng như trình độ phát triển của kinh tế xã hội

Những vấn đề cơ bản về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Bởi Admin Itdr
18/06/2020

Trong bài văn bia “Đại bảo tam niên Nhâm Tuất khoa tiến sĩ đề danh bi” do tiến sĩ Thân Nhân Trung soạn vào năm 1484 theo lệnh của vua Lê Thánh Tông có viết “Hiền tài quốc gia chi nguyên khí” dịch nghĩa là “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa rất coi trọng điều này. Coi hiền tài gắn liền với vận mệnh quốc gia nên chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo để bồi đắp thêm nguyên khí. Bác Hồ thường nhắc các cán bộ cách mạng phải là “Tầm, Tâm và Tài”, người hiền tài có ích cho cách mạng cần phải được trọng dụng. Những người Hiền tài và người có Tầm Tâm Tài đây bao gồm rất nhiều ý nghĩa nhưng trong đó có đề cập đến nguồn nhân lực quốc gia, cũng là nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Ngày nay, trong xu hướng kinh tế tri thức, trí tuệ con người đã trở thành nguồn gốc và sức mạnh quan trọng nhất quyết định trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn “Tầm & Tâm &Tài” được xem là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại trong quá trình hội nhập vào xu hướng phát triển mới của thời đại, đấy cũng chính là nội dung cơ bản của nguồn chất lượng cao. Vậy, bản chất và nội dung cơ bản của nguồn nhân lực và nguồn chất lượng cao là gì? Bài viết sau đây là xem xét các quan điểm, luận cứ cho sự hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao.
1. Một số vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực chất lượng cao
1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao
– Nguồn nhân lực
Theo cách hiểu thông thường, nguồn nhân lực là nguồn lực con người của một quốc gia hay vùng lãnh thổ, một địa phương nhất định và đủ các yếu tố để tham gia trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Nguồn” là nơi phát sinh, nơi cung cấp, còn “Nhân lực” là sức lực của con người bao gồm: sức lực cơ bắp [thể lực], trình độ tri thức được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi con người [trí lực], và những ham muốn, hoài bão của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác định. Ngoài ra, “Nhân lực” với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố: Thể lực, trí lực và tâm lực. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, trí lực giữ vai trò quyết định, nhưng thể lực và tâm lực là điều kiện cần thiết không thể thiếu đối với sự phát triển của nguồn nhân lực.
Theo khái niệm của Liên Hợp Quốc: “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của con người hiện có hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế – xã hội trong một cộng đồng”. Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ “vốn con người” bao gồm: thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… mà mỗi cá nhân thành viên sở hữu.
Theo Tổ chức lao động quốc tế [ILO], khái niệm nguồn nhân lực là toàn bộ số người trong độ tuổi có khả năng lao động, hiểu theo nghĩa rộng, đây là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội; theo nghĩa hẹp, là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự nghiệp phát triển xã hội.
Từ khái niệm trên cho thấy: Nguồn nhân lực là nguồn vốn con người [hay là tổng thể số lượng và chất lượng con người] có thể lực, trí lực và tâm lực của một quốc gia, vùng, lãnh thổ đã, đang và sẽ sử dụng hoặc được sử dụng để tạo ra những lợi ích cho xã hội [dưới dạng vật chất và tinh thần].
Trong quá trình phát triển của đất nước có rất nhiều nguồn lực khác nhau để phát triển xã hội. Tuy nhiên, xét trong mối quan hệ giữa các nguồn lực thì nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định các nguồn lực khác. Từ khái niệm trên cho thấy: bất kỳ xã hội nào cũng có nguồn nhân lực vì bất cứ xã hội nào cũng đều có con người. Trong đó, bản chất và quá trình phát triển đã bồi đắp cho họ có cả trí và lực. Vấn đề khác nhau là những con người đó sử dụng và được sử dụng vốn họ có đem lại lợi ích cho xã hội [tức là cái tự thân và cái xã hội sử dụng] không? Đối cái tự thân thì bất cứ con người nào cũng có nhu cầu nên họ đều mong muốn đưa hết khả năng của mình để mang lại lợi ích cho xã hội, trong đó có cá nhân. Vấn đề quan tâm hiện nay là xã hội sử dụng nguồn lực đó như thế nào? đúng mục đích cho xã hội hay không?. Đây cũng chính là vấn đề cốt lõi khi đề cập tới nguồn nhân lực, là yếu tố nói lên sự khác biệt giữa xã hội này với xã hội khác, quốc gia này với quốc gia khác và thế hệ này với thế khác, thậm chí nhà nước này khác với nhà nước khác. Tóm lại, vấn đề sử dụng đúng nhân tài sẽ nói lên sự tiến bộ, dân chủ của từng quốc gia.
– Nguồn nhân lực chất lượng cao
Chính từ quan điểm nguồn nhân lực như vậy nên có thể có nhiều cách hiểu về nguồn nhân lực chất lượng cao. Dưới góc độ định tính, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng lao động có khả năng đáp ứng được những vấn đề quan trọng của kinh tế xã hội để từ đó tạo ra hiệu quả cao trong giải quyết công việc cho sự tăng trưởng và phát triển xã hội.
Tiếp cận theo định lượng, nguồn nhân lực chất lượng cao là những con người được trang bị tri thức, có trình độ cao về chuyên môn. Khái niệm tri thức ở đây bao gồm các nội hàm là con người được đào tạo cơ bản, được đào tạo càng cao và chuyên sâu thì nhân lực đó càng có chất lượng cao; Còn nói về trình độ cao về chuyên môn tức là nói về cách thức thể hiện tri thức đó trong thực tế với trình độ của các chuyên gia lành nghề.
Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao có thể được hiểu là là một bộ phận của nguồn nhân lực trong xã hội, được thể hiện vai trò nòng cốt, tiêu biểu đáp ứng những vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia, vùng lãnh thổ trong từng giai đoạn.
Hay nói cách khác nguồn nhân lực chất lượng cao được đánh giá bởi nhiều yếu tố: thể lực, trí lực, khả năng lao động, tính tích cực chính trị – xã hội, đạo đức, tình cảm …của nguồn lực con người. Các yếu tố này có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau nhằm giúp chủ thể phát huy hết giá trị của mình. Theo đó, biểu hiện cụ thể của nguồn nhân lực chất lượng cao có thể được xem xét ở những vấn đề cơ bản sau:
Về thể lực
Có thể nói, một yếu tố không thể thiếu đối với nguồn nhân lực chất lượng cao là sức khỏe. Sức khỏe ngày nay không chỉ được hiểu là tình trạng không có bệnh tật, mà còn là sự hoàn thiện về mặt thể chất lẫn tinh thần. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại năng suất lao động cao nhờ sự bền bỉ, dẻo dai. Mọi người lao động, dù lao động cơ bắp hay lao động trí óc đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Hơn nữa, cần phải có sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, niềm tin và ý chí, khả năng vận động của trí lực trong những điều kiện khác nhau và trong những thử thách hết sức khó khăn và khắc nghiệt.
Về trí lực
Trí tuệ là yếu tố thiết yếu, quan trọng nhất của con người, của nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngày nay, sự phát triển nhan và mạnh của khoa học – công nghệ yêu cầu người lao động có học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, làm việc chủ động, sử dụng được các công cụ hiện đại. Năng lực trí tuệ biểu hiện ở khả năng sử dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, sự nhạy bén, thích nghi nhanh và làm chủ được kỹ thuật công nghệ hiện đại. Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH càng đi vào chiều sâu thì càng đòi hỏi trình độ chuyên môn hóa cao của nhân lực để đạt năng suất cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn hơn nhiều lần.
Về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp
Yêu cầu cơ bản đối với con người trong xã hội đó là phải có tâm, lòng nhân hậu và vị tha, phải biết trân trọng lao động và quý trọng sức lao động của người khác. Phải biết yêu thương và san sẻ tình yêu thương trong cuộc sống. Đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, những người có thể lực, trí lực và trình độ hiểu biết chuyên, nếu thiếu đi những điều này, đôi khi sẽ gây ra những hậu quả khó lường đối với con người và xã hội.


1.2. Tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao
Tiêu chí thể hiện những đặc trưng chung cho bản chất sự vật, hiện tượng; tiêu chí có thể được xác định bởi các yếu tố định tính và định lượng.
Tiêu chí định tính xác định nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm:
* Là những người có trình độ học vấn từ đại học, hoặc người lao động lành nghề có trình độ từ trung học trở lên. Đây là tiêu chí cứng thể hiện bản chất cơ bản của nguồn nhân lực chất lượng cao. Trình độ học vấn được xác định bởi mặt bằng chung của khu vực và thế giới; được đánh giá theo lứa tuổi hoặc ngành nghề, thậm chí theo cấp học.
* Là người có trình độ nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật chuyên ngành cao hơn mức trung bình nguồn nhân lực của một quốc gia, vùng, lãnh thổ. Đây là tiêu chí quyết định chất lượng nguồn lực, nó được thể hiện được sự gắn kết giữa trình độ và kỹ năng của chất lượng nguồn nhân lực.
* Là người có phẩm chất năng lực thực tế, có tính sáng tạo, giải quyết mọi vấn đề nhanh chóng và có hiệu quả; là lực lượng nòng cốt có khả năng tổ chức trong hoạt động tập thể nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có ích cho xã hội. Đây là tiêu chí quan trọng được thể hiện dưới dạng sở thích cá nhân, tập quán, phong cách, đạo đức, truyền thống văn hóa… Trước diễn biến, biến động của các tình huống trong tất cả các lĩnh vực hoạt động, tiêu chí này nói lên vai trò người cầm đầu thể hiện bản chất cao của nguồn nhân lực.
* Là người có yếu tố sức khỏe để đáp ứng các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế xã hội. Đây là chỉ số phát triển của con người để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao; tiêu chí này bao gồm các trạng thái tinh thần và thể chất xã hội; ngoài ra các tiêu chí cơ bản phản ánh bản chất bên ngoài của con người như chiều cao, cân nặng, bệnh tật, tuổi thọ…Tiêu chí sức khỏe còn thể hiện sự dẻo dai, sức chịu đựng, sự tập trung trí tuệ để mang lại lợi ích kinh tế – xã hội.
Tiêu chí định lượng bao gồm:
Nguồn chất lượng cao được xác định bởi số lượng con người nhất định trong từng giai đoạn phát triển hoặc trong các ngành nghề của một quốc gia, vùng lãnh thổ.
1.3. Phân loại nguồn nhân lực chất lượng cao
Phân loại nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng tiếp cận theo công việc trực tiếp của người lao động, nguồn nhân lực chất lượng cao được chia thành: lao động tạo lập thông tin, lao động phi thông tin và lao động quản lý. Cụ thể:
+ Lao động tạo lập thông tin được kết cấu bởi lao động tri thức và lao động dữ liệu là lao động luôn sáng tạo và tạo lập, mã hóa các thông tin [gồm lao động nghiên cứu và lao động chuyên gia]. Đây là người tạo ra của cải vật chất cho xã hội với những phát minh mang lại hiệu quả và chất lượng cho sản phẩm, hay nói cách khác là người tạo ra lý tưởng, định hướng cho phát triển.
+ Lao động phi thông tin được chia ra lao động sản xuất hàng hóa và lao động cung ứng dịch vụ. Lao động áp dụng các dữ liệu vào trong đời sống sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Những người này hiểu được, đọc được các lý tưởng của những người lao động tạo lập thông tin và áp dụng các công nghệ, phát minh đó vào thực tế để sản xuất ra của cải cho xã hội.
+ Lao động quản lý: Là người tập hợp được các nội dung của người tạo lập thông tin và phi thông tin, đưa ra sự liên kết của tập hợp này, từ đó định hướng sáng tạo hay quản lý và phát triển.
1.4. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao
+ Nắm bắt và định hướng quá trình hình thành và phát triển kinh tế xã hội.
+ Ứng dụng và triển khai tri thức hiện đại để phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
+ Sáng tạo tri thức hiện đại để hình thành nền tảng tri thức tiên tiến.
2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
2.1. Nội dung và tiêu chí đánh giá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nội dung phát triển nguồn lực chất lượng cao
+ Thúc đẩy số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
Nền kinh tế gắn với phát triển khoa học công nghệ được gắn liền với các mô hình tổ chức linh hoạt và áp dụng khoa học kỹ thuật. Đặc biệt, công nghệ sẽ dẫn đến hình thành tổ chức lao động mới, đòi hỏi có một lực lượng lao động mang tính đại chúng hơn và có trình độ cao hơn để trực tiếp tham gia sản xuất; có độ linh hoạt cao, có khả năng sáng tạo và đổi mới, được đào tạo ở trình độ cao. Những người đầu tàu [máy cái] này sẽ sáng tạo ra các phần mềm dữ liệu cho các đối tượng lao động khác tổ chức thực hiện, tạo điều kiện thúc đẩy xã hội phát triển. Trong bất cứ xã hội nào cũng cần những người có trình độ cao để hình thành nền kỹ thuật tiên tiến. Như vậy, trước tiên, cần phải gia tăng nhanh chóng số lượng lao động tri thức, lao động quản lý và lao động dữ liệu. Lực lượng này phải chiếm tỷ trọng vượt trội trong tổng lực lượng lao động quốc gia.
+ Nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao
Xu thế phát triển nền kinh tế thị trường luôn gắn với xu hướng phát triển một số ngành đặc thù, được gọi là ngành công nghiệp tri thức [the knowledge intensive industry]. Cho nên, cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao phải có sự dịch chuyển mạnh sang những ngành công nghiệp tri thức để tạo lực cho sự hình thành nền kinh tế kỹ thuật tiên tiến. Sự chuyển dịch này phải làm gia tăng nhanh chóng đội ngũ lao động đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, trước mắt là đội ngũ giảng viên đại học có trình độ cao, đồng thời phải làm gia tăng nhanh chóng đội ngũ nhân lực khoa học công nghệ.
+ Xây dựng và hình thành đội ngũ cán bộ với những con người có tầm, tâm tài trong xã hội
Những người có tầm tâm tài là những người có tầm nhìn xa trông rộng trên vị trí công việc của mình, biết lo toan tính toán và nhận định mọi diễn biến trước và tác động của các biến đổi của thời cuộc để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong phạm vi mình phụ trách hay còn gọi tầm nhìn quản lý. Người có tầm là người có tri thức và nhạy cảm về thích ứng hay có tố chất thích ứng trong việc điều hành và ứng phó phục vụ cho công việc. Nói cách khác là tự làm chủ trước sự thay đổi của tri thức. Tự làm chủ đây cũng có nghĩa là tiếp thu thành quả khoa học, công nghệ vừa thích nghi cái mới và sáng tạo thêm cái mới.
Tâm là thể hiện ở lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, tình đồng loại và luôn có sự khát vọng thay đổi để thúc đẩy những hành động cụ thể, góp phần tạo lên sự chuyển biến thực sự trong công việc của mình hay cho quốc gia, vùng lãnh thổ.
Tài là thể hiện một khía cạnh của chất lượng cao của nguồn nhân lực, tài được hình thành do yếu tố bẩm sinh xuất chúng. Tài được hình thành qua vấn đề đào tạo tạo nên những con người có trình độ và một số con người tài cũng sinh ra từ môi trường thực tế lao động.
– Tiêu chí đánh giá quá trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
+ Tiêu chí đánh giá về sự gia tăng số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
Các chỉ tiêu này bao gồm: Tỷ lệ lao động trình độ đại học trở lên so với tổng số lực lượng lao động; mức tăng và số lượng sinh viên trên một vạn dân; tỷ trọng và diễn biến tăng số lượng sinh viên, sinh viên mới tuyển, sinh viên tốt nghiệp hàng năm;
+ Tiêu chí xác định sự điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao
Các chỉ tiêu này bao gồm: Diễn biến thay đổi cơ cấu nhân lực chất lượng cao theo vùng, lãnh thổ; diễn biến thay đổi cơ cấu nhân lực chất lượng cao theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực; diễn biến tỷ lệ số lượng cán bộ trong khối nghiên cứu khoa học so với một trăm dân; diễn biến tỷ lệ cán bộ khoa học công nghệ so với tổng số nhân lực chất lượng cao; diễn biến tỷ lệ cán bộ làm công tác giảng dạy đại học so với tổng số nhân lực chất lượng cao;
+ Tiêu chí đánh giá khả năng thích ứng và khả năng sáng tạo khoa học kỹ thuật công nghệ của nguồn nhân lực chất lượng cao
Các chỉ tiêu này bao gồm: Thái độ, tinh thần sẵn sàng, kỹ năng chuyên môn của các thành phần quản lý, hỗ trợ của nguồn nhân lực chất lượng cao; mức độ sử dụng công nghệ, trình độ ngoại ngữ của nguồn nhân lực chất lượng cao; số lượng phát minh và có khả năng phát minh khoa học kỹ thuật của nhân lực chất lượng cao so với nguồn nhân lực; các công trình nghiên cứu khoa học và chỉ số sáng tạo trong các công trình nghiên cứu so với đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao; số lượng công trình khoa học được áp dụng vào thực tế so với số lượng công trình nghiên cứu của nguồn nhân lực chất lượng cao;
+ Tiêu chí đánh giá ý thức của nguồn nhân lực chất lượng cao
Các chỉ tiêu này bao gồm: Ý thức trách nhiệm đối với quốc gia đối với nguồn nhân lực chất lượng cao trước sự phát triển khoa học kỹ thuật; sự lo lắng trước sự khó khăn của cộng đồng với cộng đồng các nước khu vực; mức độ trong sạch [thông qua chỉ số tham nhũng] của nguồn nhân lực chất lượng cao.
2.2. Các yếu tố tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
– Tác động từ chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Tri thức của từng con người có vai trò quan trọng hình thành nên nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhưng việc tiếp nhận các tri thức của mỗi con người phải thông qua các cơ sở đào tạo. Điều này được hiểu đào tạo và môi trường giáo dục có tác động trực tiếp đến việc hình thành nhân tố tri thức của mỗi con người. Trong thực tế hiện nay, chất lượng đào tạo ở mỗi cơ sở khác nhau, phụ thuộc rất nhiều yếu tố từ môi trường cơ sở đào tạo và năng lực của cơ sở đào tạo [có thầy giỏi thì trò mới giỏi].
– Tác động của việc áp dụng tri thức tiên tiến vào quá trình đào tạo các cấp
Thời đại ngày nay là thời đại đốt cháy giai đoạn tri thức nhờ sự phát minh nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ và áp dụng kỹ thuật tiên tiến của tri thức cho quá trình đào tạo. Ở các cơ sở khác nhau với trang thiết bị đào tạo khác nhau thì việc trang bị kiến thức cho nguồn nhân lực hoàn toàn khác nhau. Điều này, dẫn đến việc hình thành tri thức cho từng con người cũng ở các mức độ khác nhau. Vì vậy, nhiều người sau khi trải qua đào tạo có thể phát minh ngay nhưng cũng có một số người ra vẫn còn thiếu cái gì đó mang tính chất cơ bản nên không thể triển khai được công việc.
– Tác động của môi trường áp dụng của nguồn nhân lực chất lượng cao
Vốn tri thức của từng con người cũng chỉ là ý thức được lưu trữ trong một cơ sở vật chất, khi đưa ra sử dụng mới thấy được giá trị tốt hay xấu. Vì vậy, môi trường để cho tri thức thể hiện hết sức quan trọng. Nếu một hạt giống tốt mà gieo trên mảnh đất cằn cỗi thì hạt giống đó sẽ bị thối hoặc không nảy mầm và ngược lại. Chỉ ở trong môi trường thuận lợi thì con người mới có thể hình thành và phát huy được những tố chất tiêu biểu để hình thành nền kinh tế tri thức trong thời đại mới.
– Tác động bởi quan điểm sử dụng và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao
Trong thực tế một con người được đào tạo với chất lượng cao thì vẫn chưa phát huy được lợi ích cho xã hội nếu như chưa được sử dụng đúng. Mỗi người đều có một sở trường, sở đoản nhất định, nếu sử dụng đúng và được trọng dụng thì mới đem lại lợi ích cho xã hội. Những chính sách trọng dụng nhân tài như tuyển dụng, bố trí công việc, thăng tiến, đãi ngộ về mặt xã hội cũng tác động lớn đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tuỳ theo trình độ, khả năng của từng người mà phân công, bố trí công việc cho đúng người, đúng việc, đảm bảo có sự dẫn dắt, kèm cặp và hỗ trợ, đặc biệt là lúc ban đầu. Đây là một công việc rất quan trọng và quyết định sự thành công, mức độ gắn bó của nhân tài đối với cơ quan, tổ chức mà họ vào làm việc. Việc phân công hợp lý sẽ tạo động lực cho họ làm việc hiệu quả hơn, chất lượng công việc sẽ tốt hơn và họ sẽ phát huy được thế mạnh, niềm đam mê cá nhân của họ.
3. Kinh nghiệm phát triển nguồn lực chất lượng cao của một số nước trong khu vực
3.1. Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc luôn coi trọng quy luật tăng trưởng kinh tế và nguồn nhân lực là mối quan hệ nhân quả, có liên quan quan chặt chẽ và tương tác với nhau trong suốt thời kỳ tăng trưởng kinh tế- xã hội. Trong các chính sách của chính phủ, việc ưu tiên phát triển nguồn chất lượng cao ngay từ cơ sở đào tạo nên việc xây dựng chiến lược, quy hoạch định hướng nguồn nhân lực luôn gắn liền với phát triển trọng tâm các ngành kinh tế. Về mặt xã hội hóa, Chính phủ luôn khuyến khích người dân đầu tư nhiều hơn nữa cho kiến thức và tri thức cho các thế hệ; Chính phủ cũng đầu tư nhiều cho công tác đào tạo công nhân, phân phối thu nhập trong các phát minh sáng tạo…. Năm 2001, Chính phủ Hàn Quốc công bố Chiến lược quốc gia lần thứ nhất về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005; năm 2006 ban hành Chiến lược quốc gia lần thứ hai về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 được xây dựng và thực hiện hiệu quả. Nội dung chính của các chiến lược này đề cập tới sự tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, trường đại học và các cơ sở nghiên cứu; Nâng cao trình độ sử dụng và quản lý nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công; Xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; Xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực; Xây dựng và phát triển thị trường tri thức…
3.2. Singapore. Chính phủ Singapore ưu tiên đầu tư từ cấp giáo dục tiểu học và trung học trong thập niên 1960 và 1970 để đặt nền tảng cho việc nâng cấp kỹ năng. Từ những năm 1980 trở đi, nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học và trung học để củng cố nền tảng này. Chú ý đến giáo dục đại học chỉ từ những năm 1980. Một hệ thống đào tạo giáo dục kỹ thuật và dạy nghề đã được phát triển song song với phát triển kinh tế. Chính phủ thành lập và khuyến khích thành lập các Trung tâm, Viện nghiên cứu các lĩnh vực công nghệ cao để đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ tri thức. Chính phủ cũng có chính sách nhập cư linh hoạt đối với việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao của các nước, trong đó chú trọng ngành công nghệ thông tin.
3.3. Malaysia. Chính phủ đã thành lập quỹ phát triển nguồn nhân lực. Quỹ này được lập ra nhằm cung cấp tài chính cho tất cả các chương trình đào tạo lại và đào tạo nâng cao do những người sử dụng lao động tổ chức. Đây không phải là sự trợ cấp mà là những nỗ lực chia sẻ chi phí giữa người sử dụng lao động và Hội đồng phát triển nguồn nhân lực.
3.4. Hoa Kỳ. Chính phủ Mỹ rất coi trọng môi trường sáng tạo và khuyến khích phát triển, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh vực. Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho Mỹ – nước duy nhất trên thế giới, cơ hội thu hút nguồn chất xám rất lớn, đó là rất nhiều các nhà khoa học, bác học giỏi từ châu Âu và nhiều nước khác đã nhập cảnh vào Mỹ. Thực tế này trả lời cho câu hỏi, tại sao hiện nay Mỹ là một trong những nước có nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực.
Để khuyến khích nhân tài, Chính phủ đã xây dựng chiến lược dài hạn, kinh phí cho giáo dục đại học của Mỹ đến từ các nguồn khác nhau, như các công ty, tổ chức nhà nước, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo, nhà từ thiện… Nguồn kinh phí dồi dào mang lại cho các trường khả năng xây dựng cơ sở vật chất hiện đại, thuê giảng viên giỏi cũng như xây dựng quỹ hỗ trợ sinh viên. Trong giáo dục đại học ở Mỹ, tính cạnh tranh giữa các trường rất khốc liệt. Nếu sinh viên vào được các trường đại học tốt, nổi tiếng và học giỏi, cơ hội có việc làm sẽ tăng lên rất nhiều.
3.5. Cộng hòa Séc. Trước khi chính thức gia nhập vào Liên minh châu Âu [EU], Séc đã xây dựng và hoàn thành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực [tháng 12-2000]. Chiến lược này là một bộ phận cấu thành của Chương trình Thị trường lao động và phát triển nguồn nhân lực. Trong các chiến lược thành phần, đáng chú ý có chiến lược phổ cập tiếng Anh, chiến lược cải thiện nhân lực hành chính công, chiến lược phát triển giáo dục đại học – cao đẳng và liên kết với hoạt động nghiên cứu, chiến lược phát triển đội ngũ giáo viên, chiến lược phát triển học suốt đời…
3.6. Nhật Bản. Người Nhật Bản luôn cho rằng đất nước Nhật nghèo tài nguyên thiên nhiên để phát triển, chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật Bản, Chính phủ nước này đã đặc biệt chú trọng tới giáo dục – đào tạo, thực sự coi đây là quốc sách hàng đầu. Vì vậy, chương trình giáo dục đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở là bắt buộc.
Về sử dụng và quản lý nhân lực, Nhật Bản thực hiện chế độ lên lương và tăng thưởng theo thâm niên. Nếu như ở nhiều nước phương Tây, chế độ này chủ yếu dựa vào năng lực và thành tích cá nhân, thì ở Nhật Bản, hầu như không có trường hợp cán bộ trẻ tuổi, ít tuổi nghề lại có chức vụ và tiền lương cao hơn người làm lâu năm.

Nguồn tài liệu tham khảo:
1- Báo cáo tổng hợp Đề tài Khoa học Xã hội và Nhân văn cấp Nhà nước, mã số KX.03.10/11-15 [2015] Viện Chiến lược –Bộ Kế hoạch và Đầu tư “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở nước ta hiện nay”.
2- GS.TS Phạm Tất Dong, Nguồn tin: dvhnn.org [Xây dựng con người và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao] Đăng lúc: Thứ ba – 29/03/2011 15:30, //dvhnn.org.vn/vi/news/Dien-dan-day-va-hoc/Xay-dung-con-nguoi-va-phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-282].
3- Kỷ yếu Hội thảo [2011], Trường ĐH Kinh tế – Luật thuộc ĐH Quốc gia TP.HCM “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhu cầu cấp bách”.
4- Chu Hảo, Nhân lực chất lượng cao không đồng nghĩa học vị cao, //www.doanhtri.vn/article/chuyen-muc-chuyen-gia/nhan-luc-chat-luong-cao-khong-dong-nghia-hoc-vi-cao.aspx, 03/02/2012 11:43 GMT+7

TS.Võ Quế

Tám yếu tố phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời đại mới

3 225 10

Bài giảng Quản trị nguồn nhân lực - Chương 7: Đánh giá thực hiện công việc

37 132 6

Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

10 122 3

Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty Cổ phần Chứng khoán MBS

0 240 17

Các tiêu chí đánh giá phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

6 250 9

Bài giảng Quản trị nguồn nhân lực: Chương 4 - ThS. Phan Thị Thanh Hiền

41 281 13

Báo cáo kết quả nghiên cứu: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

435 142 3

Đề xuất cấu trúc và tiêu chí đánh giá năng lực dạy học Vật lí cần phát triển cho sinh viên Cao đẳng Sư phạm Lào

13 126 2

Năng lực nguồn nhân lực can thiệp sớm giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam

8 129 7

Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Quản lí đào tạo của trường đại học địa phương đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực các khu công nghiệp Bắc Trung Bộ

237 8 1

Video liên quan

Chủ Đề