Tiêu luận luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Tài liệu "Tiểu luận Luật Thuế Giá trị gia tăng" có mã là 169337, file định dạng docx, có 33 trang, dung lượng file 32 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Luật > Luật kinh tế. Tài liệu thuộc loại Bạc

Nội dung Tiểu luận Luật Thuế Giá trị gia tăng

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Tiểu luận Luật Thuế Giá trị gia tăng để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 33 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Tiểu luận Luật Thuế Giá trị gia tăng

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Download miễn phí Tiểu luận Thực trạng áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay Theo điều 8 Luật thuế GTGT 2008, hiện có 3 mức thuế suất được áp dụng đó là 0%; 5% và 10% tùy thuộc vào nhóm hàng hóa, dịch vụ. Vì chỉ có 3 mức thuế suất nên việc áp dụng thuế suất sẽ dễ dàng hơn trước đây [4 mức 0%; 5%; 10%; 20%]. Việc áp dụng nhiều mức thuế suất có hiệu quả trong việc điều tiết tiêu dùng, có khả năng làm tăng thu ngân sách, đảm bảo tính công bằng trong chính sách thu qua việc muốn đánh thuế nhiều nhất vào những hàng hóa chiếm tỉ trọng lớn hơn trong chi tiêu của những chủ thể khá giả. Tuy nhiên, quy định này cũng có những hạn chế bởi chi phí cho quản lý hành chính thuế và chi phí tuân thủ pháp luật tăng, làm phức tạp các hóa đơn, sổ sách của người nộp thuế, cũng như gây khó hiểu cho việc áp dụng các mẫu hóa đơn GTGT.Với việc áp dụng 3 mức thuế suất như trên, cũng có ý kiến cho rằng nên giảm xuống chỉ còn 2 mức thuế suất trong đó 1 mức là 0% vì việc để 3 mức thuế suất như trên gây nên tình trạng áp dụng lẫn lộn giữa mức 5% và 10%, không đảm bảo tính trung lập của thuế GTGT  /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39656/

Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

biệt nó với các loại thuế khác như sau: Một là thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất lớn. Đó là mọi đối tượng tồn tại trong xã hội, kể cả cá nhân và tổ chức đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho xã hội. Việc đánh thuế trên phạm vi lãnh thổ với mọi đối tượng thể hiện sự công bằng của thuế, đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội. Đối với trường hợp cần khuyến khích tiêu dùng hay hạn chế việc trả tiền thuế của người tiêu dùng, Nhà nước sẽ không đánh thuế hay đánh thuế với mức thuế suất thấp nhất. Hai là thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt thuế GTGT với những loại thuế gián thu khác. Nếu như thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ đánh một lần ở khâu sản xuất hay nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thuế xuất - nhập khẩu chỉ đánh ở khâu xuất hay nhập khẩu thì thuế GTGT lại đánh ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa. Ba là, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế GTGT phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa trong nước, nhập khẩu và lưu thông hàng hóa nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hóa dịch vụ đã xác định trước và không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa, dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Vai trò của thuế GTGT Trước khi ban hành Luật thuế GTGT, ở Việt Nam trong một thời gian dài đã áp dụng thuế Doanh thu. Luật thuế doanh thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ thu nộp thuế. Do đó Nhà nước đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh của sản phẩm qua mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếu các sản phẩm, hàng hoá chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng thêm qua các khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng lặp đối với phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn trước. Ðiều đó mang tính bất hợp lý, tác động tiêu cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với ưu điểm của thuế GTGT là Nhà nước chỉ thu thuế đối với phần giá trị tăng thêm của các sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông mà không thu thuế đối với toàn bộ doanh thu phát sinh như thuế doanh thu, nếu như không có các sự kiện biến động về tài chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm sút, yếu kém, kinh tế suy thoái và các nguyên nhân khác tác động thì khi áp dụng thuế giá trị gia tăng sẽ không ảnh hưởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá cả càng hợp lý hơn, chính xác hơn vì nó tránh được tình trạng thuế đánh chồng lên thuế. Bên cạnh vai trò đối với sản xuất, lưu thông hàng hóa, cũng như các loại thuế khác, thuế GTGT cũng có vai trò to lớn trong quản lý nhà nước về kinh tế: Thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế gián thu và được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hay được cung ứng dịch vụ, nên tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước. Thuế giá trị gia tăng trên giá bán hàng hoá hay giá dịch vụ, do đó không phải đi sâu xem xét, phân tích về tính hợp lý, hợp lệ cuả các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức cũng như quản lý hoạt động thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. Ðối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế giá trị gia tăng[ vì thuế suất là 0%] mà còn được khấu trừ hay được hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đầu vào nên có tác dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. Thuế giá trị gia tăng cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Những thành tựu đạt được Với đặc điểm là đánh thuế rộng khắp và thu ở từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh nên thuế GTGT đóng góp một nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Với mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu đồng nghĩa doanh nghiệp được hoàn thuế đầu vào. Đây là động lực mạnh mẽ để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các sản phẩm của Việt nam ra thị trường quốc tế. Mặt khác, thuế GTGT không nằm trong các yếu tố cấu thành giá nên tạo ra sự cạnh tranh của hàng hóa nước ta so với các nước khác trên thị trường thế giới Phương pháp khấu trừ thuế trong thuế GTGT khuyến khích việc mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh. Về nguyên tắc, toàn bộ thuế đánh vào chi phí đầu vào của mỗi khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông sẽ được khấu trừ, như vậy số tiền thuế thu được không phụ thuộc vào chu trình lưu thông sản phẩm nên đã kích thích phát triển các loại dịch vụ trung gian giữa khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng, từ đó đáp ứng được mục tiêu đề ra khi xây dựng luật thuế GTGT là thúc đẩy sản xuất và mở rộng lưu thông hàng hóa, dịch vụ. Thuế GTGT cũng đã tác động lớn đến công tác quản lý doanh nghiệp. Thuế doanh thu trước đây với 11 mức thuế suất được thay thế bằng thuế GTGT hiện nay là 3 mức thuế suất. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải sắp xếp tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý để thực hiện tốt loại thuế này. Việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT phải thực hiện trên nguyên tắc phải có hóa đơn chứng từ, do đó buộc doanh nghiệp phải có biện pháp hoàn thiện chế độ kế toán doanh nghiệp, mở sổ sách kế toán, ghi chép và sử dụng hóa đơn chứng từ.

Với quy định mọi chủ thể có hành vi sản xuất, kinh doanh các mặt hàng, các loại hình dịch vụ thuộc diện chịu thuế và có phần giá trị tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam, thuế GTGT đã có thể áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu. Nhìn lại thuế Doanh thu, do chỉ đánh vào phần doanh thu phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam nên không có cơ sở để đánh thuế đối với hàng nhập khẩu, do đó đã tạo nên nhiều bất lợi cho hàng hóa, dịch vụ được tạo ra trong nước. Cùng một mặt hàng mà nhập khẩu thì không phải chịu thuế doanh thu trong khi các chủ thể kinh doanh hàng hóa trong nước lại phải chịu loại thuế này, điều này đi ngược với một trong những mục đích cơ bản của Nhà nước là thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Kể từ khi có thuê GTGT,...

Tiểu luậnMột số vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng và sự vận dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam§Ò ¸n lý thuyÕt TCTT M C L CỤ ỤTrangLời mở đầu 1Chương I. Lý thuyết về thuế GTGT 31. Khái niệm và đặc điểm 32. Nội dung cơ bản của VAT 42.1. Đối tượng 42.2. Căn cứ tính 52.3. Phương pháp tính 53. Vai trò của thuế GTGT 84. Tác dụng của thuế GTGT đối với nền kinh tế - xã hội 9Chương II. Thuế GTGT ở Việt Nam 141. Sự cần thiết của việc ban hành thuế GTGT 142. Điều kiện để vận dụng 16Chương III. Thực trạng 171. Một số thành tựu đạt được 172. Những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình thực hiện 213. Nguyên nhân và hướng hoàn thiện 22Kết luận 28Tài liệu tham khảo 30§Ò ¸n lý thuyÕt TCTT LỜI MỞ ĐẦUCơ chế thị trường nước ta được điều hành bằng một hệ thống pháp luật đồng bộ dân chủ và công khai. Hệ thống pháp luật về kinh tế tài chính hoàn chỉnh sẽ là những công cụ điều chỉnh có hiệu lực các hoạt động kinh tế xã hội theo định hướng trước mắt và lâu dài của đất nước, với những quyết định đầy đủ về quyền lợi trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Sự can thiệp có giới hạn của nhà nước không cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Trong khuôn khổ pháp luật, mọi thành phần kinh tế được tham gia bình đẳng trong sản xuất kinh doanh [trừ lĩnh vực nhà nước cấm]. Các yếu tố thị trường quốc dân hoà nhập với thị trường quốc tế, biết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế và sự phát triển không ngừng về nhu cầu tiêu dùng đã tạo ra thị trường đa dạng, phong phú. Bên cạnh mặt tích cực thuận lợi cho việc phát triển kinh tế do cơ chế thị trường, còn nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Tình hình đó, yêu cầu phải có sự điều tiết mạnh mẽ của nhà nước để sử dụng và phát huy mặt tích cực như một động lực trong công cuộc đổi mới, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.Vấn đề cần được quan tâm giải quyết là nhà nước phải có một "chính sách" mang tầm cỡ chiến lược đồng bộ và toàn diện nhằm phát huy tốt các đòn bẩy kinh tế, đặc biệt là về tài chính - tiền tệ. Trong đó, thuế là một trong những công cụ có hiệu quả chủ yếu để thực hiện phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế, gắn liền với yêu cầu bảo đảm công bằng xã hội trong cơ chế thị trường.Để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay, nhất là chủ trương " công nghiệp hoá - hiện đại hoá" để đất nước tạo ra sự chuyển biến to lớn. Nhà nước ta tiến hành cải cách và hoàn thiện hệ thống thuế và thuế GTGT được ban hành và đưa vào thực hiện thay cho thuế doanh thu trước đây nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doang thu, đồng thời đưa vào sử dụng một hình thức thuế hiện đaị phù hợp với đặc điểm cơ chế thị trường hiện nay và thông lệ quốc tế. Thuế GTGT là một sắc thuế tiên tiến §Ò ¸n lý thuyÕt TCTT của hình thức thuế, thể hiện được vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường. Mức độ thành công trong việc áp dụng luật thuế mới này như thế nào tuỳ thuộc vào khả năng vận dụng và thực tế ở mỗi nước.Xung quanh việc áp dụng VAT, vào Việt Nam còn rất nhiều băn khoăn, khúc mắc từ giá, thuế suất, hay là khấu trừ thuế… Ngoài những thành công đã đạt được. Ta cần nghiên cứu sâu những khó khăn, khúc mắc tìm ra nguyên nhân để từ đó có những giải pháp, hướng khắc phục nhằm hoàn thiện hơn luật thuế GTGT, đồng thời nhằm đạt hiệu quả cao trong khi áp dụng luật thuế này.Đề tài được hoàn thành nhờ có sự tìm hiểu sách báo, tạp chí, nghiên cứu các vấn đề về thuế GTGT và có sự hướng dẫn của thầy cô phụ trách.§Ò ¸n lý thuyÕt TCTT CHƯƠNG I LÝ THUYẾT VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG [GTGT].1. Khái niệm và đặc điểm.1.1. Khái niệm: Thuế GTGT là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách theo mức độ tiêu thụ hàng hoá dịch vụ.1.2. đặc điểm của thuế GTGT.Thuế GTGT đánh vào các gia đoạn sản xuất kinh doanh nhưng chỉ tính phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn. Vì thế, tổng số thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.Đối tượng điều tiết của thuế GTGT là phần thu nhập của người tiêu dùng sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ. Như vậy về nguyên tắc chỉ cần thu thu thuế ở khâu bán hàng cuối cùng là đủ. Tuy nhiên trên thực tế rất khó phân biệt đâu là tiêu dùng cuối cùng và đâu là tiêu dùng trung gian vì thế cứ có hành vi mua hàng là phải tính thuế. Nếu là tiêu dùng trung gian thì số thuế đó sẽ tự động chuyển vào giá bán hàng cho người mua ở gia đoạn sau.Bên cạnh đó, thuế GTGT còn có tính trung lập kinh tế cao. Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, không phải là yếu tố của chi phí mà chỉ đơn thuần là một khoản cộng thêm vào giá bán cho người cung cấp hàng hoá dịch vụ.Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế. Như ta đã biết GTGT là phần giá trị mới được tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ với tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng tổng GTGT ở tất cả các giai đoạn luân chuyển có giá trị bằng giá bán của sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng, nên việc thu thuế trên GTGT ở từng giai đoạn đảm bảo cho tổng số thuế thu được tương đương với số thuế tính trên giá bán trong giai đoạn cuối cùng. Chính vì thế quá trình tổ chức kinh tế và phân chia các chu trình kinh tế có diễn ra dài hay ngắn hay như thế nào đi nữa thì thuế GTGT cũng không bị ảnh hưởng. Và §Ò ¸n lý thuyÕt TCTT tổng số thuế ở các giai đoạn luôn khớp với số tính thuế trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít.Ở nước ta thuế GTGT được nghiên cứu từ khi tiến hành cải cách thuế bước một [1990] ban hành thành luật và được thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá 9 ngày 10/5/97 để chính thức áp dụng từ 01/01/99.2. Nội dung cơ bản của VAT.2.1. Đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế GTGT.* Đối tượng chịu thuế:Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT của nhà nước quy định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá và dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh, tiêu dùng ở Việt Nam.* Hàng hoá chịu VAT bao gồm:- Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng ở Việt Nam.- Hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu để tiêu dùng trong nước.- Hàng hoá và dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng nội bộ.- Hàng hoá và dịch vụ được mua, bán dưới mọi hình thức, bao gồm cả trao đổi bằng hiện vật.Ở nước ta quy định danh mục 26 loại hàng hoá dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT nhưng hàng hoá đó thường có trong các tổ chức sau:Là sản phẩm của một số ngành đang còn khó khăn, cần khuyến khích tạo điều kiện phát triển như: sản xuất nông nghiệp, máy móc nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được ... Các hàng hoá dịch vụ thuộc các hoạt động không mang tính chất kinh doanh vì lợi nhuận hoặc thuộc các hoạt động được ưu đãi vì mục tiêu nhân đạo, xã hội: Vũ khí khí tài phục vụ an ninh, quốc phòng, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh ...Một số hàng hoá dịc vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống sản xuất cộng đồng: dịch vụ y tế, văn hoá, giáo dục, thông tin đại chúng, vận chuyển khách công cộng bằng xe buýt ...Tổ chức, cá nhân mua bán, nhập khẩu hàng hoá, cung ứng dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của các hàng hoá và dịch vụ này.§Ò ¸n lý thuyÕt TCTT Còn đối tượng nộp thuế: Là tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ chịu VAT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề hình thức tổ chức kinh doanh, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu VAT.2.2. Căn cứ tính.Luật thuế VAT áp dụng ở Việt Nam phân biệt 4 mức thuế suất khác nhau: 0%, 5%, 10% và 20% áp dụng đối với từng nhóm mặt hàng sản xuất hoặc nhập khẩu. Việc quy định các mức thuế suất khác nhau thể hiện chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá dịch vụ. trong điều kiện hiện nay ở nước ta, mặt bằng kinh doanh của các ngành nghề chưa đồng nhất, nên phân biệt mức thuế suất VAT khác nhau đối với từng nhóm mặt hàng là sự cần thiết.Hàng hoá nhập khẩu bao gồm tất cả hàng gia công xuất khẩu [xuất khẩu ra nước ngoài hoặc khu chế xuất] được áp dụng mức thuế suất 0% nhằm thực hiện hoàn thuế đã thu ở khâu trước và khuyến khích xuất khẩu.Những hàng hoá dịch vụ thiết yếu, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng được áp dụng mức thuế suất thấp là 5%.Các hàng hoá dịch vụ không thiết yếu, cần thiết có mức thuế suất cao là 20%.Các hàng hoá Dịch vụ thông thường áp dụng mức thuế suất là 10% căn cứ tính:Nếu cơ sở sản xuất kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ chịucác mức thuế suất khác nhau thì phải tổ chức hạch toán riêng doanh thu từng loại hàng hoá, Dịch vụ kinh doanh theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hoá riêng biệt. Nếu không hạch toán như vậy thì doanh nghiệp phải tính thuế GTGT theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở sản xuất kinh doanh trên tổng doanh thu của tất cả các loại hàng hoá dịch vụ bán ra trong kỳ.2.3. Phương pháp tính thuế.2.3.1. Phương pháp khấu trừ thuế.* Điều kiện ta xét về đối tượng áp dụng.§Ò ¸n lý thuyÕt TCTT Các đơn vị, tổ chức kinh doanh chấp hành tốt công tác hạch toán và chế độ sử dụng hoá đơn chứng từ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và các tổ chức sản xuất kinh doanh khác. Trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.* VAT phải nộp được xác định như sau: = - Theo phương pháp này người ta tính thuế trên toàn bộ giá trị hoá đơn bán ra sau đó trừ đi số thuế đã có trên các hoá đơn hàng hoá, Dịch vụ mua vào để xác định số thuế phải nộp trong kỳ hạch toán.Trước hết cần xác định thuế GTGT đầu ra theo công thức sau đây:Thuế GTGT đầu ra Giá tính thuế của= hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra Thuế suất thuế GTGTx của hàng hoá dịch vụ đó* Phương pháp khấu trừ thuế:Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ khi bán ra hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá Dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ hàng hoá bán ra chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Riêng đối với hàng hoá Dịch vụ đặc thù được dùng loại chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế, thì giá chưa có thuế và thuế GTGT đầu ra được xác định:Thuế GTGT = Giá thanh toán 1 + % thuế suấtThuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, Dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu.* Phương pháp khấu trừ thuế có ưu điểm là?§Ò ¸n lý thuyÕt TCTT - Đơn giản hoá được quá trình tính và thu thuế bằng cách chỉ cần tập hợp các hoá đơn bán và mua hàng đã tính sẵn số thuế đầu ra và số thuế đầu vào trên đó.- Đảm bảo được số thu thuế cần thiết ở người mua hàng cuối cùng vì đây thực chất là phương pháp trừ lùi số đã nộp để xác định số còn phải nộp.2.3.2. Phương pháp trực tiếp trên GTGT.* Đối tượng áp dụng:- Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam.- Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ.- Cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý ngoại tệ.* Xác định thuế GTGT phải nộp:Thuế GTGTPhải nộp GTGT của = hàng hoá, dịch x vụ chịu thuế bán ra Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá dịch vụ đóThuế GTGT hàng hoá, dịch vụ chịu thuế Giá thanh toán = của hàng hoá, - dịch vụ bán ra Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng- Giá thanh toán của hàng hoá, Dịch vụ bán ra là giá bán thực tế bên phải mua thanh toán cho bên bán bao gồm cả VAT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.- Giá thị trường của hàng hoá Dịch vụ mua vào tương ứng với hàng hoá Dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hoá dịch vụ mua vào [cả VAT] mà cơ sở sản xuất, kinh doanh đã dùng vào sản xuất kinh doanh.Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán doanh số hàng hoá, vật tư dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số bán ra được xác định như sau:§Ò ¸n lý thuyÕt TCTT Giá thanh toán của hàng hoádịch vụ mua vào trong kỳ +tương ứng với hàng hoá bán ra Giá trị hàng= tồn kho đầu kỳ Giá trị hàng+ mua vào - trong kỳGiá trị hàng tồn khocuối kỳNgoài ra GTGT còn được xác định đối với một số ngành nghề cụ thể. Tuy vào kinh doanh của mỗi ngành có tính chất đặc thù khác nhau thì VAT được xác định khác nhau.Bên cạnh đó, luật thuế GTGT còn xem xét đến vấn đề miễn giảm thuế và hoàn thuế GTGT như thế nào cho hợp lý. Luật quy định đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế GTGT tuỳ theo từng cơ sở kinh doanh tương ứng và chế độ miễn giảm VAT phù hợp để vừa đảm bảo số thu cho NSNN nhưng cũng đảm bảo phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tích cực sản xuất kinh doanh. 3. Vai trò của VAT.Trong quá trình thực hiện thuế GTGT đã thể hiện được một số vai trò nổi bật sau:Thứ nhất: VAT góp phần thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá dịch vụ ... vì thế VAT đã khắc phục được tình trạng trùng lắp của thuế doanh thu.Thứ hai: Bảo đảm nguồn thu quan trọng và ổn định cho NSNN, VAT huy động và xác định ngay từ khâu đầu và việc thu VAT ở khâu sau còn kiểm tra việc tính VAT đã nộp ở khâu trước nên hạn chế được việc thất thu thuế, kiểm soát được nguồn thu trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.Thứ ba: Thuế GTGT góp phần tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá phải có đầy đủ chứng từ hoá đơn hợp lệ theo luật định. Việc đăng ký mã thuế cùng với phương pháp khấu trừ thuế đã buộc cả người mua, người bán thực hiện tốt hơn chế độ hoá đơn, chứng từ trong các hoạt động thanh toán.Kể từ khi luật thuế GTGT chính thức được thực thi, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản pháp quy để hướng dẫn sửa đổi bổ sung. Thuế GTGT đã và đang từng bước được hoàn thiện, khắc phục những tồn tại vốn có trong thời kỳ chuyển đổi và ngày một phát huy vai trò của §Ò ¸n lý thuyÕt TCTT thuế GTGT trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn của một sắc thuế trong điều kiện kinh tế thị trường.4. Tác động của VAT đến kinh tế xã hội.4.1. Tác động đến giá cả và lạm phát.Thông thường giá cả và lạm phát tăng hay giảm do nhiều yếu tố tác động, cả về kinh tế và xã hội. Trong cơ chế thị trường, quy luật cung cầu, quy luật giá trị cũng có tác động rất lớn đến giá cả và lạm phát. Do đó, nếu khẳng định việc ban hành một hệ thống thuế nói chung và VAT nói riêng có tác động đến mức nào với giá cả, lạm phát, thường là khó xác định.Có người cho rằng, việc ban hành thuế GTGT sẽ làm tăng giá cả và lạm phát. Tuy nhiên ở nhiều nước, trong quá trình nghiên cứu ảnh hưởng của thuế GTGT đối với giá cả và lạm phát, người ta đã đi đến kết luận là đến nay, chưa có căn cứ khoa học nào để khẳng định rằng bản chất thuế GTGT có thể gây lạm phát. Nếu có ảnh hưởng nào đó của thuế GTGT đến giá cả, thì những ảnh hưởng này sẽ chỉ là một phần, chứ không thể là tất cả.Về lý thuyết, thuế GTGT thuộc loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá.Vì vậy, việc ban hành thuế GTGT có liên quan và tác động trực tiếp đến giá cả là tất nhiên. Vấn đề cần được xem xét là trên thực tế, đối với từng ngành nghề, từng loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cũng như trên toàn cục của nền kinh tế, việc ban hành thuế gián thu nói chung, VAT có ảnh hưởng đến giá cả trong phạm vi rộng hay hẹp, đến khu vực sản xuất hoặc khu vực khác như thế nào còn tuỳ thuộc vào mức độ thuế suất, nội dung và tổ chức thực hiện có phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội, với trình độ dân trí ... hay không?Về nguyên tắc, khi thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT với mức động viên cuối cùng như nhau thì ảnh hưởng của thuế GTGT ngang với ảnh hưởng của thuế doanh thu đối với giá. Tuy vậy, nếu nhà nước không có biện pháp quản lý, kiểm tra giá cả, để cho các cơ sở kinh doanh lợi dụng, vin vào thuế mới để tăng giá thì vô hình trung, giá cả sẽ có tác động xấu.§Ò ¸n lý thuyÕt TCTT Khi áp dụng thuế GTGT thì giá cả hàng hoá Dịch vụ nhìn chung có khuynh hướng tăng lên sở dĩ xảy ra hiện tượng này là do sự không am hiểu hoặc cố tình không hiểu về thuế GTGT. Bởi vì, việc thực hiện thuế doanh thu trải qua một thời gian khá dài, đã ăn sâu vào tiềm thức của con người tiêu dùng. Cho dù thuế doanh thu là thuế gián thu, song được tính chung vào trong giá bán hàng hoá Dịch vụ nên người tiêu dùng khó nhận biết được mình chính là người chịu thuế còn các doanh nghiệp bán hàng chỉ là người thu hộ cho nhà nước mà họ luôn cho rằng đây là khoản thuế đánh vào các doanh nghiệp do vậy áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu, mặc dù nó cũng là một loại thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng song cơ chế hạch toán thay thế, có nghĩa là thuế GTGT được tách ra khỏi giá bán hàng hoá, Dịch vụ. Điều này khiến cho người mua hàng thấy rõ khopản thuế của mình phải nộp cho nhà nước nên họ cảm giác mình phải nộp một loại thuế mới mà trước đây khi mua hàng họ không phải chịu và đóng góp. Lợi dụng yếu tố này các doang nghiệp đã nâng giá bán hàng hoá Dịch vụ lên để trục lợi và có khả năng làm gia tăng lạm phát thất thoát thu hẹp thị trường tiêu dùng hạn chế khả năng đầu tư vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Do vậy làm quy mô hoạt động của các doanh nghiệp bị thu hẹp làm cho cơ cấu kinh tế bị biến động chuyển dịch mất cân đối, tốc độ tăng trưởng có khả năng suy giảm.Tình hình lạm phát ở từng nước sảy ra thường do nhiều nguyên nhân trong đó có các nguyên nhân khá quan trọng về sự phát triển chậm hay giảm sút về kinh tế do chính sách vĩ mô hay điều hành của nhà nước; kinh tế không cân đối được thu chi, thu không đủ chi; do tác động của giá cả vì giá cả vừa là nguyên nhân nhưng cũng vừa là hậu quả của lạm phát, vì vậy không thể đánh giá tác động cụ thể của chính sách thuế GTGT một cách riêng rẽ. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng nếu việc cải cách chính sách thuế nói chung thuế GTGT nói riêng phù hợp với quy luật phát triển kinh tế thị trường, sẽ có tác động tích cực tới phát triển kinh tế bảo đảm nguồn thu ngân sách, do đó sẽ có tác động tốt, ngăn chặn hay hạn chế lạm phát. Ngược lại, nếu đưa ra mức thuế quá cao hay quá thấp sẽ có ảnh hưởng đến kết quả thu ngân sách và lạm phát.Việc đánh gía tác động của chính sách thuế GTGT đến lạm phát không thể xem xét một cách phiến diện, cục bộ, mà phải được phân biệt

Video liên quan

Chủ Đề