Tổ chức hạt là gì

Viêm phổi tổ chức hóa không rõ căn nguyên (COP) là một tình trạng tự phát, trong đó mô hạt hình thành làm tắc nghẽn các ống phế nang và không gian phế nang kèm tình trạng viêm mãn tính xảy ra ở các phế nang kế cận.

COP, một dạng của bệnh phổi mô kẽ tự phát Tổng quan về viêm phổi kẽ nguyên phát Viêm phổi kẽ nguyên phát (IIPs) là các bệnh phổi kẽ không rõ căn nguyên có các đặc tính lâm sàng và X quang tương tự và được phân biệt chủ yếu bởi mô bệnh học trên sinh thiết phổi. Phân loại... đọc thêm , ảnh hưởng đến cả nam giới và phụ nữ với mức độ tương đương, thường ở độ tuổi 40 hoặc 50. Hút thuốc lá không có vẻ là một yếu tố nguy cơ.

Khoảng một nửa số bệnh nhân nhớ lại có hội chứng giống viêm phổi do cộng đồng (ví dụ như chứng giống cúm không hồi phục đặc trưng bởi ho, sốt, khó chịu, mệt mỏi và giảm cân) khi bắt đầu bệnh. Ho đờm và khó thở khi gắng sức là các triệu chứng khiến bệnh nhân đến khám.

Khám lâm sáng thấy ran nổ ở thì hít vào (Tiếng ran Velcro ).

Chẩn đoán

  • CT độ phân giải cao (HRCT)

  • Đôi khi sinh thiết phổi qua phẫu thuật

Chẩn đoán đòi hỏi các xét nghiệm hình ảnh, và nếu chẩn đoán là không rõ ràng cần phẫu thuật đẻ sinh thiết phổi.

X-quang ngực cho thấy các đám mờ ở ngoại vi, lan tỏa 2 bên với thể tích phổi bình thường; một phân phối ngoại vi tương tự như viêm phổi tăng BCAT mạn tính Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan mạn tính Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan mạn tính (CEP) là một rối loạn không rõ nguyên nhân gây ra bởi sự tích tụ bạch cầu ái toan mạn tính trong phổi. (Xem thêm Tổng quan về Bệnh phổi tăng bạch cầu... đọc thêm có thể xảy ra. Hiếm khi, đám mờ phế nang ở một bên. Các đốm mờ thường tái phát và di chuyển. Hiếm gặp, các đám mờ dạng nốt và dạng đường không đều hoặc có thể phát hiện xơ hóa dạng tổ ong.

HRCT phổi cho thấy hình ảnh đông đặc khoảng khí (xuất hiện ở 90% bệnh nhân), hình ảnh kính mờ, đám mờ dạng nốt, giãn và dày thành phế quản. Các đám mờ hường thấy ở vùng ngoại vi và vùng thấp của phổi. HRCT có thể biểu hiện nhiều bệnh hơn so với dự đoán từ X-quang ngực.

Thăm dò chức năng hô hấp thường có khiếm khuyết nghiêm trọng, mặc dù khiếm khuyết có thể tắc nghẽn(tỷ lệ thể tích thở ra trong giây đầu tiên và dung tích sống gắng sức [FEV1/ FVC] < 70%) được tìm thấy ở 21% bệnh nhân, và đôi khi chức năng phổi bình thường.

Xét nghiệm thường quy cho kết quả không đặc hiệu. Tăng bạch cầu bạch cầu không có tăng bạch cầu ái toan xảy ra ở khoảng một nửa số bệnh nhân. Tốc độ máu lắng ban đầu thường tăng.

Sinh thiết phổi cho thấy sự phát triển quá mức các mô hạt trong các đường dẫn khí nhỏ và ống phế nang cùng với tình trạng viêm mãn tính ở các phế nang xung quanh. Phần lớn viêm phổi tổ chức hóa không đặc hiệu và có thể xảy ra thứ phát ở nhiều bệnh lý khác nhau, bao gồm nhiễm trùng, viêm mạch, lymphoma và các bệnh phổi kẽ khác như xơ phổi tự phát, viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu, bệnh phổi kẽ liên quan đến bệnh mô liên kết, bệnh phổi do thuốc gây ra, viêm phổi tăng cảm, và viêm phổi tăng BCAT.

Điều trị

  • Corticosteroid

Phục hồi lâm sàng sau điều trị bằng corticosteroid ở hầu hết các bệnh nhân, thường trong vòng 2 tuần.

COP tái phát xảy ra ở 50% bệnh nhân. Sự tái phát xuất hiện liên quan đến thời gian điều trị, do đó điều trị thường nên được cho từ 6 đến 12 tháng. Bệnh thường xuyên thường đáp ứng với các liều bổ sung của corticosteroid.

Phục hồi sau khi điều trị là phổ biến khi COP xuất hiện trên HRCT như đông đặc nhu mô, hình ảnh kính mờ, hoặc nốt. Ngược lại, sự hồi phục ít phổ biến hơn khi COP xuất hiện trên HRCT dưới dạng đám mờ dạng đường và dạng lưới.