Trong mối quan hệ với các nước Đông Nam á Nam sang luôn thực hiện chính sách gì

Đồng chí Lê Hoài Trung

[Thanhuytphcm.vn] - Sáng 30/1, chia sẻ với báo chí bên lề Đại hội XIII của Đảng, đồng chí Lê Hoài Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia đã trao đổi với báo chí về công tác đối ngoại.

* Phóng viên: Đồng chí đánh giá thế nào về nội dung chủ trương, chính sách, đường lối đối ngoại được đề ra trong dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đâu là những điểm mới, trọng tâm?

Đồng chí Lê Hoài Trung: Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề cập rất nhiều vấn đề từ báo cáo Chính trị, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội; đánh giá quá trình thực hiện Cương lĩnh cùng với đó là các vấn đề xây dựng Đảng. Trong Báo cáo chính trị và đánh giá về thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội vừa qua và định hướng thời gian tới có nội dung về công tác đối ngoại. Báo cáo chính trị đánh giá chúng ta giành được những thành tựu có ý nghĩa rất quan trọng, nhiều dấu ấn nổi bật, trong đó có đóng góp của công tác đối ngoại, bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Nhân dân. Đối ngoại là vấn đề rất quan trọng của đất nước chúng ta, một dân tộc đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh để gìn giữ nền độc lập, giữ vững độc lập, tự chủ trong tình hình quốc tế rất phức tạp.

Chúng ta đã nâng cao hiệu quả và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác quốc tế, mở rộng thêm quan hệ với nhiều đối tác quốc tế, nâng số lượng đối tác chiến lược và đối tác toàn diện lên con số 30, gồm tất cả các nước là Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, phần lớn các nước thành viên các nhóm chính trị, kinh tế lớn trên thế giới, đặc biệt là các nước láng giềng.

Một điều rất quan trọng là chúng ta đã giữ vững được toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền, đạt được nhiều thành tựu cụ thể trong giải quyết vấn đề biên giới. Đối với đường biên giới trên bộ [khoảng trên 5.000 km], chúng ta đã hoạch định xong toàn bộ với cả ba nước có biên giới chung là Lào, Campuchia, Trung Quốc. Trước đây chúng ta đã phân giới cắm mốc xong với Lào, Trung Quốc, và vừa qua đã hoàn thành 84% phân giới cắm mốc với Campuchia.

Điểm lớn nữa là chúng ta đã tranh thủ tốt hội nhập quốc tế cho phát triển kinh tế xã hội, thể hiện từ chủ trương quan hệ chính trị, hội nhập quốc tế. Chúng ta đã thu hút được nguồn lực đầu tư rất lớn, thúc đẩy thương mại, du lịch, tranh thủ về khoa học, công nghệ, giáo dục… Đồng thời chúng ta vẫn giữ được độc lập, tự chủ, trong đó có tự chủ về kinh tế.

Về những nét lớn, nội dung liên quan đến công tác đối ngoại trong thời gian tới, trước hết các dự thảo văn kiện đánh giá tình hình có những thuận lợi về môi trường đối ngoại như: hoà bình hợp tác, phát triển là xu thế lớn; quá trình toàn cầu hoá và liên kết kinh tế vẫn tiếp tục, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư… Nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức trong môi trường quốc tế và khu vực. Đặc biệt những biến động rất lớn của những thách thức an ninh phi truyền thống, mà điển hình là tác động của dịch bệnh Covid-19 trong hơn 1 năm qua; rồi vấn đề an ninh mạng, tội phạm xuyên quốc gia, ma tuý…

Điều đó cho thấy đối với công tác đối ngoại, đánh giá tình hình thế giới, khu vực, bên cạnh những thuận lợi thì cần hết sức chú ý đến những khó khăn, thách thức, phức tạp, đặc biệt là những diễn biến mới hoặc vấn đề mới xuất hiện.

Trên cơ sở đó, chúng ta vẫn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đã đem lại những thành tựu phát triển của đất nước và được sự ủng hộ rộng rãi của khu vực và cộng đồng quốc tế. Đó là đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, Việt Nam là bạn, đối tác trách nhiệm, tin cậy trong cộng đồng quốc tế; đa phương hoá, đa dạng hoá và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc dựa trên luật pháp quốc tế, bình đẳng giữa các quốc gia. Lần này có điểm nhấn rất mạnh là chúng ta đặt ra nhiệm vụ đối ngoại, phát huy vai trò tiên phong trong tạo dựng và gìn giữ môi trường hoà bình, tranh thủ điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển và đổi mới đất nước cũng như nâng cao vị thế của Việt Nam.

Chúng ta cũng nêu rất rõ đối ngoại gồm 3 trụ cột: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Nhân dân. Đây là 3 lực lượng phát huy tác dụng trong quá trình kháng chiến để nâng cao vị thế của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, kể cả tinh thần và vật chất cũng như trong quá trình đổi mới thời gian qua. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đại hội nói rõ 3 trụ cột này. Để thực hiện điều đó phải xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại có năng lực cao hơn, có trình độ tốt hơn, toàn diện hơn, đặc biệt là xây dựng nền ngoại giao toàn diện và hiện đại.

* Đồng chí đánh giá như thế nào về hình ảnh vị thế Việt Nam trong mắt cộng đồng bạn bè quốc tế trong thời gian qua?

Tôi nghĩ rằng hình ảnh và uy tín của Việt Nam đã được nâng cao trong mắt bạn bè trong thời gian qua. Việt Nam vốn được biết đến và được yêu quý, vì là đất nước có nền văn hóa rất đặc sắc, có nhiều cộng đồng dân tộc và có lịch sử lâu dài. Đặc biệt người ta biết đến Việt Nam là dân tộc yêu chuộng hòa bình nhưng là dân tộc bất khuất và đã giành được thắng lợi trong việc bảo vệ nền độc lập của mình trong chiều dài lịch sử. Việt Nam cũng được biết đến nhiều về thành tựu của quá trình đổi mới, Việt Nam trở thành điểm đến của các nhà đầu tư là đối tác thương mại trên thế giới. Do đó, hình ảnh Việt Nam được thế giới rất trân trọng. Lại thêm việc trong 5 năm qua, Việt Nam tạo ấn tượng rất lớn khi đóng góp tích cực và có trách nhiệm đối với các vấn đề quốc tế, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình.

Có thể khẳng đinh, hình ảnh Việt Nam hiện nay rất tốt đẹp đối với cộng đồng quốc tế. Với những lý do như vậy, tôi cho rằng đó là thuận lợi rất lớn cho chúng ta, không chỉ trong quá trình triển khai công tác đối ngoại mà cả trong quá trình đổi mới, triển khai chiến lược phát triển kinh tế xã hội với những mục tiêu rất lớn.

* Bảo vệ lãnh thổ biên giới, chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo là một nhiệm vụ tiên quyết, trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta, được nhắc trong các nghị quyết. Công tác này trong nhiệm kỳ tới được triển khai như thế nào?

Mục tiêu đường lối đối ngoại của Việt Nam là giữ được môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước, tranh thủ được tốt nhất điều kiện thuận lợi cho quá trình đổi mới cũng như quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng là mục tiêu nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời đó cũng là mục tiêu làm sao đóng góp vào công việc của cộng đồng quốc tế. Một mục tiêu đã được đề ra rất quan trọng là chúng ta kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Điều này được khẳng định giữ vị trí hàng đầu trong đường lối đối ngoại của chúng ta trong nhiều Đại hội vừa qua, trong đại hội này, trong tổng thể thực hiện các mục tiêu đó.

* Xin cảm ơn đồng chí!

Trung Kiên [ghi]

Tin liên quan

Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương [IPEF] được Mỹ công bố tại Tokyo ngày 23/5 có bốn trụ cột: thương mại; chuỗi cung ứng; năng lượng sạch, khử carbon và cơ sở hạ tầng; thuế và chống tham nhũng. Ngoại trừ Campuchia, Lào và Myanmar, các quốc gia Đông Nam Á khác đều là một phần của IPEF.

IPEF cho phép 13 quốc gia châu Á thành viên tham gia sáng kiến riêng lẻ mà không cần tham gia đầy đủ vào tất cả các sáng kiến đó.

Hiện chưa rõ liệu IPEF là một chiến lược hoàn chỉnh hay là một gói chính sách thích hợp để chống lại những lợi ích của Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế ở châu Á.

Sau khi cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump quyết định rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương [TPP], chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ thiếu một sức mạnh địa kinh tế nhất định. Chiến lược này cũng trở nên kém hấp dẫn đối với nhiều nước Đông Nam Á như Indonesia, Singapore, Malaysia. Sau khi chính quyền Tổng thống Joe Biden lên nắm quyền, thực tế là Mỹ đang xây dựng một Khuôn khổ kinh tế cho Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hoàn chỉnh.

Mỹ nhiều lần nhắc lại rằng IPEF không phải là một Hiệp định Thương mại Tự do [FTA] giống như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực [RCEP] và Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương [CPTPP].

Mỹ không tham gia và cũng không hứa tham gia đàm phán trong tương lai để dỡ bỏ thuế quan hoặc tăng cường tiếp cận thị trường. Hiện tại, IPEF dường như là cách của Mỹ để thuyết phục các nước rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rất giống một thành phần địa kinh tế chứ không chỉ nặng về an ninh và địa chiến lược.

Câu hỏi được đặt ra là các nước Đông Nam Á được hưởng lợi như thế nào từ IPEF? Các nước có thể rút khỏi Khuôn khổ nếu không có tiến bộ đáng kể nào diễn ra trong tương lai không? Điều quan trọng là phải xem xét cách tiếp cận từ các nước để đưa ra ý tưởng, sự kỳ vọng từ IPEF.

Indonesia

Nhà nghiên cứu kinh tế thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế [CSIS] Indonesia, ông Dandy Rafitrandi cho rằng việc tham gia vẫn có lợi cho Indonesia, ngay cả khi chưa rõ Mỹ sẽ đưa ra những cam kết thực sự nào. Nếu không tham gia, Indonesia có thể bị coi là kém cạnh tranh hơn ở Mỹ so với các quốc gia khác.

Theo Nhà nghiên cứu Ahmad Heri Firdaus thuộc Viện Phát triển Kinh tế và Tài chính [INDEF] của Indonesia, quốc gia cần nhắc lại rằng việc tham gia IPEF không làm tổn hại đến thương mại với Trung Quốc. Indonesia có thể hợp tác với Mỹ và Trung Quốc.

Mối quan tâm chính của ASEAN là không cắt đứt quan hệ với Trung Quốc và có thể thấy điều này qua các tuyên bố của các nước tương ứng.

Bộ trưởng Thương mại Indonesia Muhammad Lutfi tham dự khởi động IPEF phát biểu: “Trong tương lai, khuôn khổ phải mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia liên quan, duy trì tính bao trùm và có lợi trong dài hạn, không cản trở các kế hoạch phát triển trong khu vực cũng như hoạt động hài hòa với các khuôn khổ như Triển vọng ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”.

Phó Giám đốc-Bộ thương mại Indonesia phụ trách đàm phán thương mại tự do ASEAN Ranitya Kusumadewi đề cập: “Indonesia rất muốn hợp tác với chính quyền Tổng thống Biden về nền kinh tế kỹ thuật số, an ninh, chuỗi cung ứng và chuyển đổi năng lượng”.

Mặc dù khả năng tiếp cận thị trường không được đảm bảo trong khuôn khổ IPEF, nhưng các nhà phân tích Đông Nam Á như Yose Rizal Damuri, Giám đốc điều hành Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế [CSIS] hy vọng Mỹ sẽ cố gắng thu hút sự ủng hộ chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đối với các quốc gia bằng cách viện trợ tài chính cho các dự án phát triển.

Singapore

Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long nhấn mạnh, Singapore nhận ra cả ý nghĩa chiến lược và kinh tế của IPEF và điều này tạo cơ hội cho Mỹ thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế trong khu vực. Ông chỉ rõ thêm: “Bốn trụ cột bao gồm các vấn đề sẽ gây tiếng vang mạnh mẽ trong khu vực.

Đặc biệt, IPEF cũng sẽ đề cập đến hợp tác trong nền kinh tế kỹ thuật số và nền kinh tế xanh, vốn cho thấy nhiều hứa hẹn về tăng trưởng. Điều quan trọng là IPEF vẫn cởi mở, bao trùm và linh hoạt. IPEF tạo điều kiện cho các thành viên tiếp tục làm việc với nhiều đối tác khác, trong các vòng hợp tác chồng chéo và để tư cách thành viên mở rộng cho những nước khác tham gia sau này, cũng như khi họ sẵn sàng làm như vậy”.

Điểm cần lưu ý ở đây là tính linh hoạt và giữ cánh cửa mở cho hành viên khác tham gia trong tương lai và điều này có thể cho thấy một dấu hiệu rõ ràng đối với Trung Quốc.

Malaysia

Thủ tướng Malaysia Datuk Seri Ismail Sabri Yaakob dường như cũng tin tưởng rằng IPEF giúp tăng cường hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và ASEAN. Thủ tướng khẳng định rằng: “Sáng kiến thương mại mới cung cấp một cấu trúc tổng thể để giải quyết các vấn đề thương mại với các nước đối tác”.

Ông nói thêm: “Malaysia sẵn sàng thảo luận các vấn đề liên quan thông qua IPEF để đảm bảo rằng các thành viên có thể tối ưu hóa các lợi ích kinh tế và chiến lược như đã nêu trong khuôn khổ”. Theo Thủ tướng Malaysia, các lĩnh vực y tế, điện và điện tử cũng như nền kinh tế kỹ thuật số dự kiến sẽ được hưởng lợi từ sáng kiến thương mại.

Philippines

Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp [DTI] Philippines Ramon M Lopez nhắc lại: “Philippines thừa nhận sự liên kết chung của các chủ đề rộng lớn của IPEF trong việc thúc đẩy khả năng phục hồi, tính bền vững, tính bao trùm và khả năng cạnh tranh cũng như các ưu tiên kinh tế và phát triển của Philippines. Philippines coi IPEF là sự bổ sung cho các nỗ lực cá nhân và tập thể hướng tới phục hồi toàn diện và sự hỗ trợ của Mỹ với ASEAN trong việc theo đuổi các sáng kiến của IPEF sẽ rất quan trọng”.

Vì vậy, với Philippines, phục hồi và phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong chương trình nghị sự.

Thái Lan

Thái Lan tham gia vào 4 lĩnh vực trong khuôn khổ IPEF: Thương mại, chuỗi cung ứng, cơ sở hạ tầng và khử carbon, thuế và chống tham nhũng. Thái Lan tỏ ra cực kỳ thận trọng khi tham gia các cuộc đàm phán thương mại tự do với phương Tây, vì khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội dân sự vẫn phản đối mạnh mẽ việc Thái Lan tham gia bất kỳ thỏa thuận thương mại tự do nào do phương Tây khởi xướng. Nhưng do đây không phải là một FTA, Thái Lan dường như muốn tham gia vào sáng kiến này.

Điều có vẻ rõ ràng vào lúc này là các nước Đông Nam Á vốn luôn áp dụng chiến lược phòng ngừa rủi ro đã đồng ý tham gia sáng kiến. Do đó, Mỹ có rất nhiều thứ để chứng minh rằng đây không phải là một kênh “chỉ để ngoại giao” giống các sáng kiến trước đây, như "Xây dựng thế giới tốt đẹp hơn" [B3W].

Việt Nam

Giới phân tích Việt Nam nhận định, với tư cách là một trong bốn trụ cột của IPEF, năng lượng xanh là ngành được đánh giá có tiềm năng đáng kể tại Việt Nam. Với những đặc điểm thuận lợi về địa lý, Việt Nam được dự báo trở thành điểm đến tiếp theo để đầu tư vào năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng Mặt Trời và điện gió.

IPEF được cho là sẽ thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ lên cấp độ cao hơn, dựa trên mối quan hệ tích cực và xuất khẩu ngày càng tăng.

Nguồn: Báo Thế giới & Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề