Tục quyền là gì

Toàn bộ những hoạt động sống của con người đã được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng, hình thành nên phong tục. Vậy, phong tục là gì? Vai trò của phong tục, tập quán trong đời sống xã hội như thế nào?

1. Phong tục là gì?

Phong tục là toàn bộ những hoạt động trong sinh hoạt của con người được hình thành và tạo lập trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất.

Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương tầng lớp xã hội hay thậm chỉ một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão… Hệ thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm, hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con người, mà với cư dân nông nghiệp là từ đất gieo hạt, cấy hái đến thu hoạch, với ngư dân là theo mùa đánh bắt cá,… Hệ thống các phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm như phong tục mùa xuân, mùa hè, mùa thu, mùa đông. Phong tục là một bộ phận của văn hóa, có vai trò quan trọng trong việc hình thành truyền thống của một dân tộc, một địa phương, nó ảnh hưởng, thậm chí chế định nhiều ứng xử của cá nhân trong cộng đồng. Phong trào được tuân thủ theo quy định của luật tục hay hương ước. Người vi phạm có thể bị phạt vạ. Cùng với sự phát triển của xã hội, một số phong trào không còn phù hợp với thời đại mới, bị đào thải, trong khi một số phong trào mới được hình thành.

Ở Việt Nam, cuộc vận động xây dựng gia đình, làng xóm, phường, khu dân cư văn hóa mới nhằm loại trừ các phong trào lỗi thời, duy trì và phát triển các phong trào tốt đẹp, bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực trong việc xây dựng đời sống văn hóa mới của các tầng lớp nhân dân. Những phong tục ở Việt Nam rất đa dạng, có thể kể đến như: các phong tục cưới hỏi như bánh phu thê, tục thách cưới, các thủ tục của cô dâu trước khi về nhà chồng, lễ xin dâu, mẹ cô dâu không đi đưa dâu, phù dâu, thủ tục khi đàn bà tái giá,… Các phong tục sinh dưỡng như dạy con từ thuở bào thai, tục xin quần áo cũ của trẻ sơ sinh, “con so về nhà mạ, con rạ về nhà chồng”, con mới đẻ không đặt tên chính, tuổi trong khai sinh không đúng với tuổi thực,… Các phong tục về giao thiệp như “lời chào cao hơn mâm cỗ”, “tóc thề”, tục bán mở hàng, tục nhuộm răng, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. đạo thầy trò,… Các phong tục về đạo hiếu như tục khao lão, yến lão, “ruộng hương hỏa”, tộc trưởng, bàn thờ vọng, “hợp tự”, gia phả,… Các phong tục về lễ tang như “thọ mai gia lễ”, “ba cha tám mẹ”, “chúc thư”, “cư tang”, “mũ đai gai chuối và chống gậy”, “năm hạng tang phục”, cha mẹ không đưa tang con, các phong tục khi đám tang trong ngày tết, đi đường gặp đám tang, tục hú hồn trước khi nhập quan, lễ  an táng, lễ ba ngày, lễ cúng cơm trong trăm ngày, tục đốt vàng mã, chiêu hồn nạp táng, hình nhân thế mạng,…

2. Phong tục trong tiếng Anh là gì?

Phong tục trong tiếng Anh là:  “Custom“.

3. Vai trò của phong tục, tập quán trong đời sống xã hội

Phong tục mang lại nhiều ý nghĩa đối với đời sống xã hội và đối với chế độ quản lý của Nhà nước:

– Phong tục làm cho sắc thái văn hóa trở nên đa dạng, phong tục giúp chúng ta phân biệt được cộng đồng này, dân tộc này, nước này khác với cộng đồng khác, dân tộc khác, nước khác. Sống đúng với phong tục của nước mình, dân tộc mình mới là sống đúng với truyền thống. Phong tục Việt Nam nói chung và các phong tục của dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam nói riêng là một đề tài vô tận, bởi nước ta có 54 dân tộc với rất nhiều phong tục, nghi lễ văn hóa khác nhau. Có thể nói, phong tục là nét đặc trưng của một quốc gia, một dân tộc, thậm chí là một làng, một xã, một thôn, một gia đình,…

– Phong tục là một trong những “thiết chế” tự sinh nhằm giúp cho hệ thống những người có cùng phong tục hình thành nên cùng một thói quen, một lối sống được xem là nền nếp, đạo đức, văn minh, tiến bộ. Phong tục được hình thành từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự duy trì về những giá trị tốt đẹp, để những thói quen tốt được không bị mai mọt mà được lưu giữ và phát triển ngàn năm. Chính vì lẽ đó mà phong tục ngày càng phát triển, không chỉ giới hạn trong một phạm vi cộng đồng dân cư cụ thể mà có còn lan truyền và được tiếp thu từ thôn này sang thôn khác, xã này sang xã khác, huyện này sang huyện khác, tỉnh, thành phố này sang tỉnh, thành phố khác, từ miền này sang miền khác,… mở rộng phạm vi lên đến cả nước, tạo nên những giá trị tốt đẹp khẳng định giá trị của Việt Nam trên cả trường quốc tế, là một trong những giá trị mà không phải quốc gia nào cũng đạt được, kể cả các cường quốc phát triển trên thế giới.

– Việc duy trì các nếp sống để trở thành phong tục là một điều mang ý nghĩa cả về mặt ý thức lẫn tâm linh. Đối với một số phong tục như lì xì đầu năm, xin chữ hay chúc tế, phong tục thờ cúng gia tiên, phong tục “Lễ ba ngày”, phong tục an táng người chết, phong tục về cưới hỏi,… tất cả đều là niềm tin của người dân dành cho những tín ngưỡng, những lưu truyền của cha ông ta từ ngàn đời cho đến nay. Đồng thời, việc duy trì những phong tục thường niên này tạo niềm tin cho những người thực hiện rằng sẽ có được những điều tốt lành, sẽ được ông bà trên cao ủng hộ, được mọi người yêu mến và học hỏi, từ đó, tạo nên một niềm tin nội tâm mãnh liệt, tạo thành động lực cho từng người luôn tin vào những điều tốt đẹp, luôn tin vào cuộc sống, có ý chí vươn lên, không bao giờ từ bỏ và cũng không để bản thân vướng vào những điều đen tối.

– Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới hiện nay, không chỉ đơn thuần dựa vào ý nghĩ chủ quan mà phải biết vận dụng thuần phong mỹ tục vào nếp sống, nếp suy nghĩ, hành động, cách đối nhân xử thế, hợp với trào lưu tiến hóa. Có những phong tục cổ truyền xuất xứ từ kinh nghiệm thực tiễn trong cuộc sống thời xưa, đến nay không hợp thời nữa, trở thành đồi phong bại tục, ta cũng cần nghiên cứu để biết nguyên do, từ đó mới vận dụng cho thích hợp với hiện tại và tương lai, hoặc tìm những phong tục hay để bổ kết mà loại trừ dần những cái dở. Chính đặc tính này của phong tục mà những giá trị tốt đẹp luôn được lưu giữ và truyền lại, còn những điều không còn phù hợp với thời đại nữa như phong tục nhuộm răng, phong tục rải tiền vàng mã, phong tục cướp vợ ở các đồng bào dân tộc thiểu số, phong tục về ma chay cưới hỏi ở một số đồng bào vùng sâu vùng xa,… đều bị loại trừ hoặc được cải tiến thành những cái tốt đẹp hơn.

– Phong tục cũng góp phần không nhỏ trong ổn định trật tự xã hội, đóng góp một phần lớn trong việc quản lý và quán triệt đời sống xã hội của những người đứng đầu trong một nhóm cộng đồng dân cư. Việc hình thành phong tục đã là một yếu tố tiên quyết để những người trong cùng một cộng đồng dân cư thống nhất với nhau về tư tưởng, cùng nhau hành động theo một hướng, tạo nên sự ổn định nhất định trong đời sống. Từ đó, những người đứng đầu là những người có trách nhiệm quản lý một cộng đồng dân cư có thể dựa theo những phong tục đó để có những quyết sách quản lý phù hợp, cũng có những ý tưởng dựa trên niềm tin của cộng đồng dân cư vào những phong tục đó để ổn định trật tư xã hội một cách tốt nhất, ngày càng đưa cộng đồng dân cư đó hướng đến những điều tốt đẹp, văn minh, tiến bộ, bài trừ những hủ tục lạc hậu, không còn phù hợp với thời đại, đem lại những điều không tốt đẹp, gây ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, phong cách, lối sống, sức khỏe của con người.

Với hơn 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, do đó phong tục Việt Nam vô cùng đa dạng và phong phú. Một phần do dân tộc Kinh chiếm đại đa số, một phần công tác tuyên truyền phổ biến chưa được đẩy mạnh do đó, đa phần chúng ta chỉ biết tới những phong tục tập quán của người Kinh là chính. Tuy nhiên nếu quý khách muốn tìm hiểu về phong tục tập quán của những dân tộc khác thì có thể nghiên cứu qua rất nhiều tài liệu công phu được bán tại các nhà sách lớn. Bên cạnh đó, để nghiên cứu kỹ hơn về các phong tục ở Việt Nam, các bạn có thể tìm hiểu thông qua “100 Điều nên biết về phong tục tập quán Việt Nam”.

Lấy ví dụ về áp dụng tập quán pháp trong đó có tình tiết hai bên tranh chấp ở hai địa phương khác nhau ở hai địa phương đều có tập quán để áp dụng. Phân tích điều kiện để áp dụng tập quán đó.

1. Tập quán pháp là gì?

Tập quán pháp là tập quán được pháp luật thừa nhận có giá trị pháp lý, trở thành những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Đây được xem như một nguồn bổ trợ, nhất là khi nhiều quan hệ xã hội chưa được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật. 

Trong Bộ luật dân sự 2015, Nhà nước ta đã thừa nhận một số tập quán. Việc thừa nhận này trước hết thông qua một quy định mang tính nguyên tắc thể hiện tại Điều 5: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định”

Thứ tự ưu tiên và điều kiện để áp dụng tập quán pháp:

– Giữa các bên không có thỏa thuận

– Không có pháp luật điều chỉnh trực tiếp

– Có tập quán áp dụng

– Tập quán không trái với với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

2. Tập quán điều chỉnh một số quan hệ nhân thân:

–  Đối với quyền có họ, tên: trong số những quyền nhân thân được BLDS năm 2015 ghi nhận, bảo vệ thì quyền xác định dân tộc là quyền có sự tham gia điều chỉnh của tập quán pháp. Theo khoản 2 Điều 26 BLDS 2015: ” Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ.” Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp  liên quan đến việc xác định họ cho cá nhân khi có yêu cầu, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền dân sự của cá nhân cụ thể trong trường hợp này – quyền họ, tên.

–  Quyền xác định, xác định lại dân tộc:

Xem thêm: Áp dụng tập quán theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình

Khoản 1 Điều 28 BLDS 2015 quy định: “Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn”.

Quy định này không chỉ rõ thứ tự ưu tiên xác định dân tộc theo tập quan trước hay theo thỏa thuận trước dẫn đến có những trường hợp tranh chấp xảy ra rất khó giải quyết.

3. Áp dụng tập quán trong một số vấn đề liên quan đến giao dịch dân sự:

Giải thích giao dịch dân sự [bao gồm cả hợp đồng dân sự] theo Điều 121:

“Giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:

a] Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;

b] Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;

c] Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập”

Như vậy, tập quán nơi giao dịch được xác lập nếu được lựa chọn để giải thích giao dịch dân sự thì đó chính là tập quán pháp

Xem thêm: Điều kiện áp dụng tập quán pháp trong Luật dân sự Việt Nam

Tập quán còn được sử dụng để xác định nghĩa vụ bảo đảm giá trị sử dụng tài sản thuê trong giao dịch thuê tài sản. “Bên cho thuê phải bảo đảm tài sản thuê trong tình trạng như đã thỏa thuận, phù hợp với mục đích thuê trong suốt thời gian cho thuê; phải sửa chữa những hư hỏng, khuyết tật của tài sản thuê, trừ hư hỏng nhỏ mà theo tập quán bên thuê phải tự sửa chữa”.

4. Tập quán trong việc xác định quyền sở hữu, quyền định đoạt tài sản:

Tập quán pháp còn được sử dụng để xác định quyền sở hữu chung, hình thành quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung của cộng đồng. Việc xác lập quyền sở hữu chung có thể được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật và cũng có thể được hình thành theo tập quán [Điều 208 BLDS năm 2015].

Việc quy định về áp dụng tập quán trong việc xác định nghĩa vụ của người hưởng dụng tài sản là quy định mới phù hợp và tương thích với việc ghi nhận thêm một quyền khác đối với tài sản đó là quyền hưởng dụng tài sản.

5. Áp dụng tập  quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và thừa kế:

Quy định về áp dụng tập quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trong việc thanh toán và phân chia di sản thừa kế  vấn được BLDS 2015. Theo đó, khoản 4 Điều 603 quy định về bồi thường do súc vật gây ra có quy định: “Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Liên quan đến vấn đề thừa kế, Điều 658 quy định thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ và các khoản chi phí, tại khoản 1 quy định chi phí đầu tiên được ưu tiên thanh toán chính là chi phí hơp lý theo tập quán cho việc mai táng.

6. Áp dụng tập quán quốc tế:

Tương tự với phần tập quán trong nước, phần áp dụng tập quán quốc tế trong BLDS 2015 đã được tách biệt khỏi phần áp dụng pháp luật nước ngoài trở thành một quy định độc lập và nội dung của quy định này được điều chỉnh cho phù hợp với luật quốc tế. Điều 666 BLDS 2015 quy định các bên được lựa chọn tập quán quốc tế để áp dụng trong trường hợp điều ước quốc tế hoặc luật Việt Nam có quy định  cho lựa chọn tập quán quốc tế. Nếu hậu quả của việc áp dụng tập quán đó trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.

Thay đổi này của BLDS 2015 đã thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với các chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Kể cả trong trường hợp có luật để áp dụng nhưng các bên lựa chọn tập quán quốc tế  để áp dụng thì lựa chọn của các bên vẫn được tôn trọng và tập quán quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng.

Nguyên tắc áp dụng tập quán pháp:

– Tập quán phải rõ ràng để xác định được quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự

Xem thêm: Quy định về văn bản quy phạm pháp luật

– Tập quán phải là thói quen được hình thành, thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong đời sống xã hội

– Tập quán được áp dụng trong trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định

– Tập quán được áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

Trong trường hợp, tập quán pháp trong đó có tình tiết hai bên tranh chấp thuộc hai địa phương khác nhau đều có tập quán để áp dụng thì tập quán trong trường hợp này được áp dụng như sau:

Ví dụ trường hợp trâu bò thả rông thuộc sở hữu của ai?

Ở khu vực miền núi phía bắc Tây Nguyên đối với trâu bò thả rông. Người được trâu bò thả rông sau một thời gian không phải là người được xác lập quyền sở hữu đối với trâu bò này mà người sở hữu thực sự của nó là người đã thả rông nó vì tập quán những nơi này là thả rông trâu bò, việc áp dụng tập quán này hoàn toàn phù hợp với địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu của vùng núi mùa khô lạnh, trâu bò không có thức ăn thì thả rông cho trâu bò tự tìm thức ăn, đến mùa ấm áp có thức ăn thì trâu bò về lại chuồng trại ban đầu của nó. Ở địa phương khác, việc xác định chủ sở hữu đối với trâu bò được xác định sở hữu cho người bắt được trâu bò trong một thời hạn nhất định. Như vậy, ở hai địa phương khác nhau, việc xác định chủ sở hữu đối với trâu, bò thả rông bị lạc áp dụng tập quán khác nhau. Do đó, khi phát sinh tranh chấp việc lựa chọn tập quán ở địa phương nào áp dụng để giải quyết tranh chấp còn nhiều vướng mắc.

Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài:1900.6568

– Có tập quán được cộng đồng thừa nhận như chuẩn mực ứng xử trong các trường hợp đó. Do các phong tục tập quán rất phong phú đa dạng và có sự khác biệt giữa các vùng miền, dòng họ, gia đình, dân tộc; nên khi áp dụng tập quán thì phải áp dụng những tập quán được đông đảo mọi người trong cộng đồng và khu vực thừa nhận. Không được phép áp dụng tập quán của địa phương này cho địa phương khác hay của dòng họ, gia đình này cho dòng họ và gia đình khác.

Theo đó, việc áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp ví dụ trên phải thỏa mãn những điều kiện trên.

Điều 231 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc: 

“1. Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 06 tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia súc thả rông theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc được sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia súc.

2. Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia súc bị thất lạc thì phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được gia súc. Trong thời gian nuôi giữ gia súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa số gia súc sinh ra hoặc 50% giá trị số gia súc sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc”.

Tập quán được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tồn tại lâu dài trong đời sống xã hội, vì vậy, không phải tập quán nào cũng còn phù hợp để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong thời kỳ hiện nay. Vì vậy, việc xác định rõ nguyên tắc áp dụng tập quán trong điều chỉnh các quan xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng rất quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của những tập quán tiến bộ và loại bỏ dần và tiến tới loại bỏ hoàn toàn những tập quán lạc hậu không còn phù hợp để áp dụng trong điều kiện hiện nay.

Video liên quan

Chủ Đề