Vai trò của giả thuyết trong nghiên cứu khoa học

Câu hỏi và Giả thuyết nghiên cứu

Một đề cương nghiên cứu thường bao gồm:

Đặt vấn đề > Ý nghĩa của đề tài > Tổng quan nghiên cứu > Đối tượng và Khách thể nghiên cứu > Phạm vi [không gian, thời gian, nội dung nghiên cứu] > Câu hỏi nghiên cứu > Giả thuyết nghiên cứu > Phương pháp nghiên cứu > Khung phân tích.

Ở bài viết này, mình sẽ chia sẻ cho các bạn một số nội dung liên quan tới câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu. Đây là thông tin tối quan trọng trong nghiên cứu khoa học, song lại thường xuyên bị xem nhẹ khi xây dựng đề cương nghiên cứu

6. Câu hỏi nghiên cứu là gì ?

Câu hỏi nghiên cứu [research question] là trạng thái nghi vấn về vấn đề nghiên cứu, nhất thời chưa có lời giải đáp. Có thể thấy, điều duy nhất cần làm với câu hỏi nghiên cứu chính là: trả lời nó

Bạn cần hiểu ràng, bản chất của nghiên cứu khoa học là việc bắt đầu từ sự tò mò quan sát sau đó đặt ra các câu hỏi và đi tìm câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi đó. Tuy rằng câu hỏi nghiên cứu đã được manh nha hình thành từ lúc bạn xác định vấn đề nghiên cứu hay quan sát nhưng đôi khi chỉ mới tồn tại ở dạng quan niệm hoặc khái niệm chưa rõ ràng.

Để hình thành nên câu hỏi nghiên cứu, bạn cần phát biểu một cách gãy gọn về việc nghiên cứu của bạn sẽ đi trả lời cho câu hỏi nào. Bạn nên tránh việc đưa ra một câu hỏi quá lớn, hoặc thiếu tự tin mà đưa ra câu hỏi quá manh mún. Thay vào đó, hãy tách câu hỏi lớn ra thành từ 2 - 3 câu hỏi nhỏ, đủ chi tiết cho các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu. Theo kinh nghiệm, việc đi tìm câu trả lời cho từng câu hỏi sẽ là nội dung phân tích được trình bày gọn trong mỗi chương của báo cáo nghiên cứu; còn đề mục của chương chính là trạng thái không nghi vấn của chính câu hỏi đó.

Ví dụ:
Câu hỏi:
Hiện tượng xăm mình của giới trẻ Việt Nam hiện nay biểu hiện qua các chiều cạnh nào? Trả lời: hiện tượng xăm mình của giới trẻ Việt Nam có thể được biểu hiện của các chiều cạnh cụ thể như: số lượng hình xăm, vị trí xăm và thời điểm xăm. Triển khai trong báo cáo: Chương 2: Thực trạng xăm mình của giới trẻ Việt Nam hiện nay. 2.1. Số lượng hình xăm; 2.2. Vị trí xăm; 2.3. Thời điểm xăm

Câu hỏi nghiên cứu có vai trò quan trọng trong việc xác định đích đến của nghiên cứu. Thiếu câu hỏi nghiên cứu, bạn sẽ khó lòng xác định được nội dung cụ thể cần thực hiện và dễ dàng lạc lối sau một thời gian triển khai. Tương tự như vấn đề nghiên cứu, hãy dành cho mình một khoảng thời gian đủ để đưa ra các chiều cạnh cần khai thác trong mỗi vấn đề thay vì lao đầu vào làm khảo sát

Xin được trích dẫn câu nói của Bernard Marr, nhà khoa học dữ liệu lớn nổi tiếng trong thế kỷ XXI: "Đừng bắt đầu bằng dữ liệu, hãy bắt đầu bằng câu hỏi". Điều này có nghĩa rằng các nghiên cứu nên được định hướng bởi hệ thống các câu hỏi, kế đến đi tìm dữ liệu phù hợp để trả lời và cần chắc chắn rằng câu trả lời hoàn toàn tương thích và logic với câu hỏi, kể cả khi đáp án là một con số 0 tròn trĩnh.

7. Giả thuyết nghiên cứu

Nếu câu hỏi nghiên cứu là trạng thái nghi vấn về vấn đề nghiên cứu, thì giả thuyết nghiên cứu [research hypothesis] là câu trả lời tạm thời cho câu hỏi nghiên cứu. Điều duy nhất ta cần làm với giả thuyết nghiên cứu là đi tìm bằng chứng để chấp nhận [accept] hay bác bỏ nó [reject].

Giả thuyết nghiên cứu là một vấn đề trừu tượng dễ làm nản lòng những người đang tập tành làm nghiên cứu khoa học. Nếu nhìn nhận mọi chuyện theo một góc nhìn bình dân hơn, bạn có thể nhận ra việc chúng ta sử dụng giả thuyết hằng ngày nhưng không phải khi nào cũng để ý. Hãy tạm quên đi sự khô khan của khoa học và quay lại với các tiểu thuyết ngôn tình.

---

Thử liên tưởng tới việc một cô gái tự hỏi, ví dụ: “Anh ấy có yêu mình không nhỉ?”. Sau đó cầm bông hoa trên tay và ngắt từng cánh hoa, cùng câu nói: “Yêu” , “Không yêu”, “Yêu” , “Không yêu”...

Các bạn có thể thấy, việc cô gái đặt nghi vấn về tình cảm của chàng trai giành cho mình - chính là câu hỏi nghiên cứu. Câu trả lời cho câu hỏi này có thể diễn ra hai khả năng: Hoặc, bị từ chối tình cảm [Không yêu] hoặc là được đáp lại tình cảm ấy [Có yêu]. Cả hai khả năng này đều chưa xảy ra trong thực tế, nên chỉ là câu trả lời tạm thời cho câu hỏi nghiên cứu. Nói một cách cơ học - đây chính là giả thuyết nghiên cứu.

Hãy làm rõ hơn về điều này. Một giả thuyết thường được phát biểu theo hai dạng, "giả thuyết không" [null hypothesis, ký hiệu là H0] và "giả thuyết đối" [alternative hypothesis, ký hiệu là H1]. Giả thuyết không phát biểu về hiện trạng không tồn tại của hiện tượng, trong khi đối thuyết là giả thuyết ngược lại với giả thuyết không

Quay trở lại với câu chuyện của cô gái, các giả thuyết có thể được phát niểu như sau:

  • Giả thuyết H0 = cô gái bị từ chàng trai chối tính cảm [không yêu]
  • Giả thuyết H1 = cô gái nhận được tình cảm đáp lại từ chàng trai [có yêu]

Công việc của nhà nghiên cứu lúc này là đi tìm bằng chứng để có thể bác bỏ hoặc chấp nhận các khả năng có thể xảy ra nhằm trả lời câu hỏi ban đầu. Để kiểm chứng được các khả năng này [kiểm chứng giả thuyết], cô gái quyết định đi hỏi thẳng chàng trai hoặc gạ chuyện vu vơ xem thử tình cảm của anh chàng giành cho mình như thế nào - đây chính là hoạt động nghiên cứu.

Quá trình thu thập và phân tích dữ liệu cho ra kết quả sơ bộ:

Tình huống 1: Giả sử, chàng trai có các biểu hiện đại loại như tiến đên ôm hôn cô gái này nồng nhiệt, gật đầu đồng ý, cười hạnh phúc... ngụ ý “anh cũng yêu em” và cô gái này cũng hiểu được tín hiệu đó - bạn có thể chấp nhận giả thuyết H1, bác bỏ giả thuyết H0.

=> Trả lời câu hỏi nghiên cứu: “Chàng trai có tình cảm với cô gái”.

Tình huống 2: Giả sử, chàng trai này không hề có các biểu hiện trên, thậm chi còn có các biểu hiện như cao chạy xa bay, hay một đi không trở lại - ngụ ý “anh không yêu em” và cô gái này cũng hiểu được tín hiệu đó - bạn có thể chấp nhận giả thuyết H0, bác bỏ giả thuyết H1.

=> Trả lời câu hỏi nghiên cứu: “Chàng trai không có tình cảm với cô gái”.

Vấn đề nghiên cứu xem như đã được giải quyết !

---

Tất nhiên trên đây chỉ là câu chuyện vui giúp bạn hình dung được giả thuyết nghiên cứu. Trong thực tế nghiên cứu khoa học, các bạn sẽ cần phát biểu giả thuyết gãy gọn, rõ ràng, khúc chiết hơn. Bài viết này chỉ kỳ vọng các bạn có thể hình dung được giả thuyết nghiên cứu là gì.

Cũng lưu ý với các bạn rằng, giả thuyết nghiên cứu [research hypothesis] có một chút khác biệt với giả thuyết thống kê [statistical hypothesis].

Giả thuyết nghiên cứu rộng hơn giả thuyết thống kê và là câu trả lời tạm thời cho cả nghiên cứu tịnh tính lẫn định lượng. Trong khi giả thuyết thống kê dựa mức ý nghĩa thống kê [statistical significance] để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết nên thường được sử dụng như công cụ chủ lực trong nghiên cứu định lượng.

Quan điểm cho rằng nghiên cứu định tính chỉ có câu hỏi nghiên cứu; nghiên cứu định lượng chỉ có giả thuyết nghiên cứu; còn nghiên cứu hỗn hợp thì có cả hai là chưa thỏa đáng. Vì bản chất của nghiên cứu là trả lời câu hỏi thông qua việc đặt câu hỏi và kiểm định câu trả lời. Vậy nên câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu là thành phần không thể thiếu trong mọi nghiên cứu.

Kết luận

Hãy chắc chắc rằng bạn sẽ trả lời câu hỏi và kiểm định giả thuyết trước khi khép lại nghiên cứu của mình. Câu trả lời cho hai phần này không chỉ dược trình bày trong phần nội dung chính mà còn được nhắc lại một cách rõ ràng ở phần kết luận. Đừng quên rằng bản chất sâu sa của nghiên cứu không phải là việc đi tìm câu trả lời đúng / sai mà tìm bằng chứng để chấp nhận / hay bác bỏ một giả thuyết khoa học.

Hẹn gặp lại các bạn ở bài viết tới !

---

Tài liệu tham khảo chính:

  1. Gordon Mace & Francois Petry [2013], “Cẩm nang xây dựng dự án nghiên cứu trong khoa học xã hội”, NXB Tri thức
  2. Michel Beaud [2014], “Nghệ thuật viết luận văn”, NXB Tri thức
  3. Nguyễn Xuân Nghĩa [2010], “Phương pháp & kĩ thuật trong nghiên cứu xã hội”, NXB Phương Đông
  4. Nguyễn Văn Tuấn [2018], “Phân tích dữ liệu với R”, NXB Tổng hợp TP. HCM
  5. Nguyễn Văn Tuấn [2018], “Đi vào nghiên cứu khoa học”, NXB Tổng hợp TP. HCM
  6. Phan Văn Quyết & Nguyễn Quý Thanh [2001], “Phương pháp nghiên cứu Xã hội học”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội

bởi quản trị viên | Ngày đăng: 24-07-2018

1. Tầm quan trọng của lý thuyết nghiên cứu đối với một đề tài khoa học

Trong nghiên cứu khoa học, lý thuyết nghiên cứu là nền tảng vô cùng quan trọng bởi “lý thuyết là kinh nghiệm, kiến thức, tri thức, trí tuệ của các thế hệ tích lũy lại, cung cấp cho người nghiên cứu cơ sở kiến thức để lập luận và kiến giải các vấn đề nghiên cứu” [5]. Vì lẽ đó, sẽ không quá nếu nói hệ thống lý thuyết nghiên cứu chính là “quỹ đạo” của nhà nghiên cứu. Và để kết quả nghiên cứu đảm bảo đạt những giá trị khoa học cần thiết, thì quá trình triển khai nghiên cứu, nhà nghiên cứu không thể đi chệch cái “quỹ đạo” đó.

Không chỉ gọi là “quỹ đạo”, mà hệ thống lý thuyết còn có thể được xem là “chìa khóa” để nhà nghiên cứu trả lời các câu hỏi nghiên cứu trên nền tảng khoa học và lý luận. Khi có được lý thuyết nghiên cứu phù hợp, nhà nghiên cứu sẽ thuận tiện trong việc xây dựng cấu trúc của đề tài, hướng giải quyết vấn đề nghiên cứu cũng như việc đặt ra các giả thuyết nghiên cứu phù hợp.

Như vậy, vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khoa học là cung cấp các khái niệm, khung lý thuyết để nhà nghiên cứu kiến giải câu hỏi nghiên cứu từ cơ sở khoa học một cách tường minh, thuyết phục. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên đặt ra đối với những ai khi bắt đầu vào con đường nghiên cứu khoa học là nghiên cứu hệ thống lý thuyết, lý luận nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học mà họ quan tâm.

2. Những khó khăn trong việc tiếp cận, áp dụng các lý thuyết nghiên cứu trong đề tài khoa học

- Khó khăn trong việc tiếp cận lý thuyết nghiên cứu

Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, có thể kể đến các lý thuyết nghiên cứu phổ biến hiện nay như thuyết Tiến hóa thế kỷ 19 [bao gồm thuyết Tiến hóa đơn tuyến của Lewis Henry Morgan, Edward Tylor và Tiến hóa đa tuyến của Herbert Spencer]; thuyết Nhân học văn hóa Mỹ nửa đầu thế kỷ XX với các đại diện như Franz Boas, Margaret Mead, Ruth Benedict; Nhân học xã hội Anh nửa đầu thế kỷ XX với các đại diện Reginald Radcliffe-Brown, Bronislaw Malinowski; thuyết Lựa chọn duy lý với các đại diện Fredrik Barth, Penelope Brown; thuyết Tân tiến hoá và cách tiếp cận duy vật với các đại diện Leslie White, Julian Steward;… Mỗi lý thuyết sẽ là công cụ phù hợp để giải quyết một, hoặc một số vấn đề nghiên cứu nào đó.

- Khó khăn trong việc áp dụng lý thuyết nghiên cứu

 Hiện nay, việc tiếp cận một cách đầy đủ, nguyên bản những lý thuyết này của giảng viên khối nghệ thuật không đơn giản mà nguyên nhân phần lớn là khả năng ngoại ngữ của giảng viên khối nghệ thuật còn hạn chế do trước đây điều kiện tiếp xúc, đọc sách, nghiên cứu với giảng viên, giáo sư nước ngoài chưa cao Vì vậy, nhiều giảng viên khối nghệ thuật thường tìm hiểu lý thuyết qua các bản dịch, hoặc qua các công trình mà các tác giả có sử dụng các lý thuyết đó. Trong nghiên cứu khoa học, việc áp dụng lý thuyết vào công trình nghiên cứu là điều kiện bắt buộc. Khả năng lựa chọn, kỹ năng áp dụng các lý thuyết vào công trình nghiên cứu phụ thuộc vào trình độ, nền tảng lý luận của giảng viên. Trong điều kiện cũng như yêu cầu của nhà trường, một số giảng viên khối nghệ thuật gặp khá nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu nghiên cứu. Khó khăn trước hết là việc chọn lựa các lý thuyết nghiên cứu phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài. Các trường hợp thường xảy ra là: hoặc giảng viên chọn lý thuyết nghiên cứu chưa phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài; hoặc giảng viên chọn nhiều lý thuyết nghiên cứu cho một đề tài. Những trường hợp đó đều ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu chung của đề tài.

Trong trường hợp chọn được lý thuyết nghiên cứu phù hợp, thì giảng viên khối nghệ thuật lại gặp khó khăn về kỹ năng ứng dụng lý thuyết nghiên cứu đó để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Rõ ràng, để có thể áp dụng một cách hiệu quả, thuần thục các lý thuyết nghiên cứu trong đề tài, nhà nghiên cứu phải trải qua quá trình rèn luyện trong thực tiễn nghiên cứu, phải có khả năng phân tích, đánh giá vấn đề được nghiên cứu, từ đó nhận diện được mức độ, phạm vi áp dụng lý thuyết nghiên cứu trong đề tài. Điều này là một trong những thách thức mà mỗi giảng viên khối nghệ thuật rất muốn có cơ hội, điều kiện tiếp cận nền giáo dục thế giới để học tập áp dụng trong môi trường đào tạo tại cơ sở mình giảng dạy. Hiện nay với chính sách mở cửa, các cơ quan quản lý nhà nước  tổ chức chương trình học tập ngắn hạn, dài hạn để bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, tiếp cận công nghệ nghiên cứu khoa học mới nhất của thế giới để giúp các thầy cô lĩnh hội và có góc nhìn tiếp cận những nội dung lý thuyết khách quan, phong phú cho sự lựa chọn, từ đó giúp việc sử dụng các lý thuyết vào trong nghiên cứu của mình đáp ứng mục tiêu nhu cầu xã hội, vì vậy việc đăng ký học tập là trách nhiệm của mỗi giảng viên khối nghệ thuật để nâng cao năng lực chuyên môn, phát huy tính sáng tạo trong công việc đặc thù.

3. Thay lời kết

Tóm lại, trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực, tìm hiểu và ứng dụng lý thuyết nghiên cứu để đi tìm lời giải cho các câu hỏi nghiên cứu, giải quyết các vấn đề mà công trình nghiên cứu đặt ra là một yêu cầu mang tính tất yếu của một nền khoa học phát triển bền vững. Vì vậy thực tế hiện nay, việc phối hợp với các chuyên gia trao đổi kinh nghiệm tại nước ngoài hoặc tại cơ sở như để các giảng viên đến dự giờ, trao đổi khoa học và nghiệp vụ tại các Khoa cùng ngành là việc cần thiết và có lộ trình thời gian liên tục để các giảng viên khối nghệ thuật tiếp tục được tiếp cận và vận dụng lý thuyết trong công trình của mình một cách khoa học, có chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu đào tạo theo nhu cầu xã hội hiên nay.

Lê Thị Vương Nguyệt - Khoa QLVH-NT

Tài liệu tham khảo

1.    Nguyễn Chí Bền [2006], Văn hóa Việt Nam – mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

2.    Charles Harrison, Dr Paul J Wood, Jason Gaiger biên soạn [1991], Art in Theory 1648-1815: An Anthology of Changing Ideas , Publisher: Wiley-Blackwell.

3.    Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam [2011], Nghiên cứu văn hóa – lý thuyết và thực hành [bản dịch của Đặng Tuyết Anh từ công trình của Chris Barker], NXB. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

4.    Kristine Stiles, Peter Selz [1996], Theories and Documents of Contemporary Art: A Source Book of  Artists’ Writing, University of California Press.

Bùi Thị Thanh Mai, Vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam, đăng trên //www.academia.edu, cập nhật 

Video liên quan

Chủ Đề