Vận dụng phương pháp cách mạng của Đảng trong bối cảnh hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế trong thời kỳ mới

[ĐCSVN] - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế - tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một bộ phận rất quan trọng và đặc sắc trong hệ thống các quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt đội danh dự Quân đội Liên Xô trong lễ đón đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam thăm chính thức Liên Xô ngày 12/7/1955. [Nguồn: Hochiminh.vn]

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam, người anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, danh nhân văn hóa kiệt xuất thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người đã để lại cho Đảng ta và dân tộc ta những di sản vô giá, đó là sự nghiệp giành độc lập cho dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, là bạn với các quốc gia trên thế giới vì hòa bình độc lập, tiến bộ xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế - Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh là một bộ phận rất quan trọng và đặc sắc trong hệ thống các quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Là người khai sinh ra nền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh hình thành và phát triển gắn liền với toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Trước hết, tư tưởng đối ngoại và đoàn kết quốc tế của Người đã thể hiện nổi bật trong hệ thống các tác phẩm báo chí, các bức thư, các lời kêu gọi, các tác phẩm chính luận của Người. Các quan điểm đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển, hoàn thiện được thể hiện tập trung trong “Đường cách mệnh” [1927], Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt [1930], Chương trình 10 điểm của mặt trận Việt Minh [1944], Tuyên ngôn Độc lập [2/9/1945], thể hiện tập trung nhất trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong văn kiện Đại hội, Nghị quyết của Trung ương, nghị quyết của Bộ Chính trị từ năm 1930 đến nay.

Nhân dân Ba Lan nồng nhiệt đón chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 7/1957 [Ảnh tư liệu]

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế

Tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, chúng ta không chỉ dừng ở việc nghiên cứu trước tác của Người trong toàn tập Hồ Chí Minh, Văn kiện Đảng toàn tập, mà một phương pháp rất quan trọng là chúng ta phải tìm hiểu, nghiên cứu các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và trực tiếp thực hiện các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế của Người. Jean Lacouture [Giăng Lacutuya] một nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp đã có một nhận định rất sâu sắc: “Qua lăng kính tư tưởng của vị nguyên Tổng Bí thư Đảng cộng sản Đông Dương, kế đó là Đảng Lao động Việt Nam xuất hiện một hệ thống học thuyết hình thành bởi những hành động hơn bởi những từ ngữ.”[1]

Giáo sư Trần Văn Giàu đã khẳng định sự đúng đắn trong phương pháp tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh từ hành động: “Cụ Hồ là người chứng minh sự vận động bằng đi đứng”, thể hiện lý thuyết bằng hành động: “Xét cho cùng thì hành động, hành động trước sau như một, lắm khi còn trung thành, chân thật hơn là lời nói và câu văn”[2].

Tìm hiểu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tiếp cận từ các hoạt động trực tiếp của Người từ khi ra đi tìm đường cứu nước, trong thời kỳ hoạt động ở Pháp, Nga, Anh, Trung Quốc… [1911-1941] Bác đã có hàng loạt các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế. Đó là các hoạt động tìm hiểu các dân tộc bị áp bức, bóc lột ở các thuộc địa, tìm hiểu các lực lượng tiến bộ trên thế giới, kể cả ở “mẫu quốc” chống lại chủ nghĩa thực dân, đế quốc…; tìm hiểu các thế lực phản động hiếu chiến trong giới cầm quyền của các nước đế quốc, nhất là đế quốc Pháp để hiểu chúng và phân hóa chúng; các hoạt động tuyên truyền, vận động tập hợp lực lượng quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam.

Trong thời kỳ ở Pháp và Nga, các hoạt động đối ngoại của Bác Hồ và các đồng chí của Người đã tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, của Hội liên hiệp các tổ chức thuộc địa, của Quốc tế cộng sản; các hoạt động thiết lập các mối quan hệ với các lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng. Thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc, bằng các hoạt động ngoại giao khôn khéo, Bác và các đồng chí của mình đã lợi dụng được chính quyền Quốc dân đảng Trung Quốc, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nên đã tổ chức ở Côn Minh “Việt Nam dân chúng hưởng ứng Trung Quốc khẳng định hậu vận hội”, tạo thế hợp pháp cho các hoạt động cách mạng của ta. Tranh thủ chính quyền của Tưởng Giới Thạch để chúng ta lập “Việt Nam độc lập đồng minh hội Hải ngoại biện sự xứ” là cơ quan đại diện của mặt trận Việt Minh ở nước ngoài nhằm duy trì các quan hệ với quốc dân Đảng Trung Quốc và làm nơi liên lạc quốc tế của ta. Với cơ quan đại diện này, cách mạng Việt Nam đã bắt liên lạc được với các lực lượng cách mạng ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.

Trình bày một số vấn đề trên đây giúp chúng ta đi tới một nhận thức: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế hình thành và phát triển gắn chặt với toàn bộ hơn 60 năm hoạt động cách mạng của Người. Do đó khi nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, chúng ta phải tiếp cận từ các bài viết, bài nói của Người, từ các văn kiện về đường lối, chính sách đối ngoại, đoàn kết quốc tế của Đảng và nhà nước ta, từ các tác phẩm của các học trò xuất sắc của Bác, từ các chiến sĩ cộng sản quốc tế, từ các chính khách, các nhân sĩ tri thức và bạn bè quốc tế viết và nói về Bác; và rất coi trọng tiếp cận các hoạt động trực tiếp của Bác khi Người tiến hành các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế. Do đó tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về thế giới, về thời đại, về chiến lược sách lược, về nghệ thuật ứng xử trong quan hệ quốc tế nhằm phục vụ thắng lợi sự nghiệp cách mạng trong từng thời kỳ tiến lên giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, là bạn với mọi quốc gia vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đón Bác Hồ thăm hữu nghị Trung Quốc, ngày 25/6/1955 [Ảnh tư liệu]

Phong cách nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế - tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh được thể hiện thông qua hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp, phong cách nghệ thuật ngoại giao sau:

- Quan điểm cơ bản – nền tảng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tất cả hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết trước hết. Tất cả phải nhằm mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Không có gì quý hơn độc lập tự do!

- Không ngừng nâng cao thực lực của cách mạng để nâng cao sức mạnh và hiệu quả của hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”. Tư tưởng ngoại giao rất quan trọng này đã xác định vị trí và mối quan hệ giữa xây dựng thực lực của cách mạng, xây dựng và phát huy sức mạnh của dân tộc với sức mạnh và hiệu quả của hoạt động ngoại giao. Trong mối quan hệ này, hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế là rất quan trọng, còn xây dựng thực lực cách mạng có ý nghĩa quyết định.

- Quan điểm coi ngoại giao là một mặt trận, mặt trận ngoại giao cần và có thể triển khai trên khắp thế giới và ngay tại hậu phương của đối phương, đối tượng do đó phải chủ động tiến công ngoại giao: “Tiến công ngoại giao là một tiến công quan trọng có ý nghĩa chiến lược”[3]. Tiến công ở đây là phải chủ động tiến công, phải chủ động lấy cái chính nghĩa, lấy cả nghĩa cả tình [Nghĩa, lý ở đây là chân lý, lẽ phải, là pháp lý, là sự thật…; tình ở đây là khát vọng hòa bình là tinh thần hòa hiếu, hòa giải, khoan dung…] để tiến công, để thuyết phục, để cảm hóa, để tranh thủ, lôi kéo, để tập hợp. Do đó chiến lược ngoại giao phải dựa trên bối cảnh quốc tế, nắm vững đối tác, đối tượng, dự báo đúng các xu hướng phát triển, các quy luật vận động của thế giới, chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn, các khu vực, các tổ chức quốc tế, dự báo thời cơ để quyết định các chiến dịch tiến công ngoại giao. Cần xác định kịp thời từng nội dung, từng chính sách ứng xử linh hoạt, khôn khéo để đạt hiệu quả cao.

- Nguyên tắc định hướng mọi hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế là: Kiên định vững chắc về mục tiêu chiến lược đồng thời linh hoạt mềm dẻo về sách lược. Nguyên tắc ở đây cần kiên định đó là mục tiêu giành và giữ vững độc lập cho dân tộc, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ quốc gia [cả vùng đất, vùng trời, vùng biển], đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết trước khi tiến hành các hoạt động đối ngoại. Phải rất năng động, mềm dẻo trong thực hiện các phương châm, chính sách ngoại giao, biết nhân nhượng, thỏa hiệp có nguyên tắc, biết lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ của đối tượng để lôi kéo, phân hóa, cô lập tối đa đối tượng. Biết vận động thuyết phục, cảm hóa các Đảng phái, các tầng lớp nhân dân các nước đồng tình ủng hộ sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp kháng chiến, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện đúng đắn và hiệu quả nguyên tắc nêu trên khi tiến hành các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải vận dụng nhuần nhuyễn phương châm: biết mình, biết người, biết thời, biết thế, biết tiến, biết thoái, biết nhu, biết cương, biết dừng và biết biến!

- Trong hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với hợp tác quốc tế sẽ kết hợp tối ưu sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Đây là mối quan hệ cơ bản có tầm quan trọng hàng đầu trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Ngoại giao độc lập, tự chủ tự cường là một chuẩn mực đảm bảo quyền độc lập thực sự của một quốc gia. Độc lập tự chủ tự cường là “cái gốc”, “cái điểm mấu chốt” của mọi chủ trương, chính sách, là phương thức khơi dậy mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập tự chủ trong ngoại giao không chỉ dừng lại ở việc chủ động hoạch định chính sách, biện pháp mà điều quan trọng hơn phải biết chủ động khai thác nội lực trên tinh thần tự lực, tự cường. Mặt khác, tự lực tự cường không đồng nghĩa với khép kín, đóng cửa, cô lập mà phải chủ động tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác quốc tế. Bác Hồ từng chỉ rõ một trong những nguyên nhân suy yếu của các dân tộc phương Đông trong lịch sử là sự cô lập, là chính sách "bế quan, tỏa cảng”. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Bác đã chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, tự cường đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã được lịch sử hơn 90 năm của cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm. Đảng ta khẳng định đây là bài học kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Xây dựng, phát triển và phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao Việt Nam là quan điểm tư tưởng rất quan trọng trong phương pháp cách mạng, phương pháp nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhân sĩ trí thức Mỹ phản đối chiến tranh ở Việt Nam,năm 1967. [Ảnh tư liệu]

Ngoại giao phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc

Ngoại giao là một mặt trận đấu tranh cực kỳ quan trọng, là một bộ phận không thể tách rời của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp là phương pháp cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao Việt Nam là một bộ phận quan trọng của phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Trong suốt 58 năm hoạt động cách mạng [1911-1969], Bác Hồ đã trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển và phát huy sức mạnh của ngoại giao nhân dân, đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao hiện đại Việt Nam. Nhận thức sâu sắc tư tưởng về phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, khi tiến hành các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải tiến hành đồng thời hoạt động của các “binh chủng” ngoại giao, các hình thức ngoại giao, phối hợp chặt chẽ các binh chủng, các lực lượng ngoại giao: ngoại giao Nhà nước [Quốc hội, Chính phủ], ngoại giao Đảng [với các Đảng cộng sản, công nhân, các đảng cầm quyền, các đảng đối lập]; ngoại giao nhân dân [với các đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ, các cá nhân…], ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế, ngoại giao quốc phòng, an ninh… chủ động hội nhập quốc tế.

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, với tư cách là Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo công cuộc kháng chiến kiến quốc, đồng thời Người rất coi trọng lãnh đạo chỉ đạo, tổ chức các hoạt động đối ngoại, vận động các nước lớn, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng… công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thiết lập quan hệ ngoại giao với họ. Bác Hồ rất quan tâm chỉ đạo Việt Nam tham gia nhiều tổ chức quốc tế và khu vực.

35 năm qua, dưới ánh sáng soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã phát huy sức mạnh tổng hợp của đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân, ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế, ngoại giao quốc phòng… làm tốt vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ động tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới.

Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới yêu cầu mới nặng nề phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Để góp phần cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành thắng lợi mục tiêu Đại hội Đảng lần thứ XIII đề ra,ngoại giao Việt Nam trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả cao đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Ngoại giaoViệt Nam luôn bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng hợp tác cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện sâu rộng. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế./.

[1] Tư tưởng Hồ Chí Minh và thời đại. Ban khoa học xã hội Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Xuất bản 1992. Trang 11.

[2] Sách đã dẫn. Trang 11

[3] Bác Hồ trong trái tim các nhà ngoại giao. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội 1999. Trang 213

PGS.TS Đào Duy Quát
​Nguyên Phó Trưởng ban thường trực, Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

[ĐCSVN] - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga [1917], đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó [địa chủ] mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3/1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5/1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Video liên quan

Chủ Đề