Văn kiện Đại hội 13 về khoa học, công nghệ

Mục tiêu tổng quát mà Nghị quyết Đại hội đề ra là đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với các mục tiêu cụ thể như sau:

- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030

Báo cáo chính trị của Đại hội XIII đã xác định 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 20212030, trong đó, định hướng thứ [3] về nguồn nhân lực và KHCN, định hướng thứ [8] về hợp tác quốc tế như sau:

- Định hướng thứ 3: Tạo đột phát trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.

- Định hướng thứ 8: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.

Các chủ trương, nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược

Báo cáo chính trị Đại hội XIII cũng đề ra 12 chủ trương lớn, trong đó có chủ trương thứ [4] liên quan đến KHCN, đó là: "Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh KHCN".

Báo cáo chính trị xác định 3 đột phá chiến lược, trong đó có đột phá thứ [2] về nguồn nhân lực và phát triển KHCN: "Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh KHCN, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".

Báo cáo chính trị chỉ rõ 5 quan điểm phát triển, trong đó quan điểm đầu tiên là về KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số:

Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh…

TÁC ĐỘNG CỦA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII ĐỐI VỚI NGÀNH CƠ YẾU

Một trong những điều được nhấn mạnh và nhắc lại nhiều lần nhất trong Nghị quyết đại hội lần này là cụm từ “KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số” [đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng; phát triển mạnh mẽ KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số]. Quan điểm này là đổi mới so với các nhiệm vụ trọng tâm và ba đột phá chiến lược trong Nghị quyết đại hội lần thứ XII năm 2016 của Đảng [hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ].

Trong các đột phá chiến lược cũng nêu rõ quan điểm: "Phát triển mạnh mẽ KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới; hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và thích ứng, chống chịu của nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo".

Báo cáo chính trị xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong đó nhiệm vụ thứ [3] liên quan đến hợp tác quốc tế và các lực lượng an ninh - quốc phòng, đó là: "Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước".

Như vậy, Đảng ta tiếp tục đổi mới tư duy, xác định muốn phát triển nhanh và bền vững phải dựa chủ yếu vào KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số [Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư].

Hiện nay, ngành Cơ yếu Việt Nam đang triển khai chiến lược phát triển đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045. Một số quan điểm, định hướng lớn như sau:

- Kiện toàn tổ chức lực lượng cơ yếu theo hướng tập trung, thống nhất, bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt và sự quản lý thống nhất của Nhà nước.

- Việc xây dựng, phát triển ngành Cơ yếu Việt Nam phải thể chế hóa được quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển công tác cơ yếu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; phù hợp với tính chất của ngành khoa học - kỹ thuật cơ mật đặc biệt thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia, là nhiệm vụ chiến lược, thường xuyên, lâu dài của các cấp ủy, tổ chức đảng, các bộ, ban, ngành, địa phương và cả hệ thống chính trị.

- Sáng tạo, tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh trí tuệ tổng hợp; xác định khoa học và công nghệ mật mã, đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá trong chính sách phát triển Ngành Cơ yếu; kịp thời cập nhật và đón bắt về xu hướng kỹ thuật và ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại; tận dụng những lợi thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để có cách tiếp cận, đi tắt, đón đầu một cách hợp lý trong phát triển hạ tầng thông tin mật mã quốc gia. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đào tạo với các nước có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại trên cơ sở bảo đảm tính độc lập, tự chủ, chặt chẽ về nguyên tắc và tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.

- Việc xây dựng tiềm lực, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại phải đồng bộ với xây dựng nguồn nhân lực có cơ cấu, trình độ tương ứng với sự phát triển của hệ thống kỹ thuật mật mã và hệ thống tổ chức lực lượng cơ yếu; hiện đại hóa và tự động hóa hệ thống kỹ thuật mật mã quốc gia phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ…

- Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tập trung ưu tiên các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, bảo đảm phù hợp với nguồn lực nhằm tạo bước đột phá để nâng cao tiềm lực về khoa học - công nghệ mật mã đủ năng lực phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động thu tin, thám mã của các thế lực thù địch trong tình hình mới.

Có thể nói, quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong chiến lược phát triển ngành Cơ yếu Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quan điểm, chủ trương lớn của Đảng được xác định trong Nghị quyết đại hội XIII.

Trong giai đoạn tới, các chiến lược, chính sách sẽ thay đổi để phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học và công nghệ. Đây là thời cơ và thuận lợi khi mà các ngành, các cấp đồng loạt triển khai thực hiện Nghị quyết XIII sẽ tạo ra những cơ chế, chính sách mới có tính đột phá, là tiền đề quan trọng để xây dựng ngành Cơ yếu Việt Nam cách mạng, chính quy, tiến thẳng lên hiện đại.

[ĐHXII] - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm phát triển đất nước trong giai đoạn mới, Nghị quyết Đại hội đã đề cập đến nhiều vấn đề rộng lớn, toàn diện, trong nhiều lĩnh vực, ngoài sự kế thừa quan điểm của các Đại hội trước, còn có những bổ sung, phát triển quan trọng, trong đó có tư duy lý luận mới về khoa học, công nghệ

Cụ thể, trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, lần đầu tiên khoa học, công nghệ được đưa vào một mục riêng [mục VI- Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ][1], không gộp vào với các vấn đề khác như: Giáo dục đào tạo, văn hóa, môi trường như trong các Văn kiện Đại hội trước. Việc trình bày thành một mục riêng đã cho thấy tầm quan trọng của khoa học, công nghệ và nhận thức mới của Đảng ta về phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

 

Vấn đề khoa học, công nghệ luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, coi là quốc sách hàng đầu [Trong ảnh: Lễ khai trương Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

- Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ]

Trong tiêu đề mục cũng như trong phần nội dung Văn kiện, Đảng ta thường xuyên sử dụng cụm từ “khoa học, công nghệ” thay cho “khoa học và công nghệ” như trong các văn kiện Đại hội trước. Thay từ “và” bằng dấu phẩy trong cụm từ khoa học, công nghệ không chỉ đơn thuần là cách diễn đạt mà nó cho thấy tư duy của Đảng coi khoa học, công nghệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau và đôi khi rất khó để tách bạch giữa “khoa học” và “công nghệ”.

Về nội dung của Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chứa đựng những nhận thức mới về phát triển khoa học, công nghệ:

Thứ nhất

, trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”.[1] Các Văn kiện Đại hội trước, Đảng ta đã khẳng định khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, tuy nhiên, hoạt động khoa học, công nghệ nước ta thời gian qua vẫn chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học, công nghệ chưa được chú trọng; đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học, công nghệ còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học, công nghệ chậm được đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý...

Trong Văn kiện Đại hội XII, khi thêm vào hai chữ “thực sự” trước cụm từ “là quốc sách hàng đầu”, Đảng ta muốn nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ của đất nước lên một tầm cao mới, khắc phục những yếu kém trong thời gian qua, coi đây là công việc trọng yếu và thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

 Khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu” cũng có nghĩa là mọi chủ trương, chính sách phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa vào khoa học, công nghệ và thực hiện bằng khoa học, công nghệ; khoa học, công nghệ phải đứng hàng thứ nhất và đi trước một bước trong mọi chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.”[2]

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã chỉ ra các nhân tố tạo thành động lực: hài hòa lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy nhân tố con người, vai trò của khoa học - công nghệ... tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập. Như vậy, có nhiều nhân tố tạo thành động lực trong quá trình đổi mới và hội nhập, tuy nhiên, tại Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ ra và khẳng định khoa học, công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới ... lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”.[3] Đây là sự đánh giá đúng đắn, khách quan, khoa học vai trò của khoa học, công nghệ trên quan điểm, lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta.

Bởi vì, chỉ có đánh giá đúng đắn vai trò của khoa học, công nghệ mới có chính sách đầu tư đúng đắn và phát huy tác dụng của nó một cách hiệu quả. Khi coi khoa học, công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại tức là Đảng ta đã khẳng định vai trò to lớn của khoa học, công nghệ trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức, quản lý, phân công lao động xã hội và tăng năng suất lao động. Đồng thời, đó là sự phát triển của các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm cho nền sản xuất tiến từ thủ công lên cơ khí hoá, tự động hoá, tin học hoá… Từ đó đặt ra nhiệm vụ cấp thiết đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phải làm cho khoa học, công nghệ thật sự trở thành động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta.[4]

Trong bối cảnh môi trường quốc tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, công nghệ được xem là công cụ chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững, là bí quyết để mỗi quốc gia phát triển và khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Thực tế này đang đặt ra yêu cầu bức thiết về đổi mới, phát triển công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhận thức được yêu cầu này, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và chính sách lớn nhằm phát triển công nghệ như: Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhiệm vụ đến năm 2000, Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010, Luật Khoa học và công nghệ, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 và Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Đây là những chính sách, chủ trương lớn về lĩnh vực công nghệ, tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển rất nhanh của lĩnh vực công nghệ trên thế giới, tại Văn kiện Đại hội XII lần này, Đảng đã khẳng định phải: “Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Đây là một định hướng phát triển lớn và mới về phát triển công nghệ của đất nước trong thời gian tới. 

Phải khẳng định rằng, đây là lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng chiến lược phát triển công nghệ quốc gia. Khi chiến lược này được xây dựng và triển khai trong thực tiễn sẽ tạo ra động lực lớn kích thích thích quá trình đổi mới công nghệ hiện vẫn còn đang rất chậm đổi mới; từ chiến lược này sẽ định hướng cho các chương trình trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hóa, công nghệ cơ khí - chế tạo máy... và chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.

Cũng cần thấy rằng, trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng đã chỉ ra định hướng “chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Đây là tư duy mới và là sự “dũng cảm” nhìn thẳng vào sự thật của Đảng, bởi vì trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các quốc gia và các doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và khoa học và công nghệ, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối phần lớn thị trường công nghệ tiên tiến.

Nếu theo tư duy cũ chỉ biết dựa vào năng lực nội sinh của đội ngũ cán bộ khoa học trong nước thì chắc chắn chúng ta sẽ ngày càng tụt hậu xa hơn về công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới. Chính vì thế, tư duy mới của Đảng là chúng ta phải có “chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Đây là cách làm nhanh nhất, ít tốn kém nhất và hiệu quả nhất đối với nước ta hiện na,y bởi vì phần lớn các hãng công nghệ lớn trên thế giới đã, đang và sẽ có cơ sở sản xuất ở Việt Nam như: Intel, Microsoft, Samsung, Panasonic, Canon... và họ rất muốn các doanh nghiệp nước ta cùng hợp tác kinh doanh, sản xuất. Khi hợp tác kinh doanh, sản xuất cùng các doanh nghiệp FDI này, chúng ta sẽ được họ chuyển giao công nghệ theo hướng cả hai bên cùng có lợi, và như vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều công sức, tiền bạc để nghiên cứu cơ bản và ứng dụng về công nghệ.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng chứa đựng nhiều điểm mới rất phong phú, toàn diện và sâu sắc, trong đó có nội dung phát triển khoa học, công nghệ, làm cơ sở cho quá trình hoạch định chủ trương, đường lối lãnh đạo sự nghiệp đổi mới giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo.

Dưới ánh sáng Văn kiện Đại hội XII của Đảng, nắm bắt và tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, chúng ta tin tưởng rằng, Việt Nam có thể đi tắt, đón đầu, phát triển khoa học, công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước, thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./. 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 119.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 120

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 90

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 121.

Video liên quan

Chủ Đề