Vị trí pháp lý của các cơ quan nhà nước

Địa vị pháp lý là gì? Địa vị pháp lý của cơ quan quản lý hành chính nhà nước? Các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước là các cơ quan chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật hành chính.

Vị trí pháp lý của các cơ quan nhà nước
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật hành chính, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Địa vị pháp lý là gì?

Địa vị pháp lý là Vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định pháp luật. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật.

Xem thêm: Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính

Đơn thư Tố cáo? Quy trình, thủ tục giải quyết?

 Địa vị pháp lý của cơ quan quản lý hành chính nhà nước

Các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước là các cơ quan chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật hành chính. Là một bộ phận hợp thành của bộ máy Nhà nước, cơ quan quản lý Nhà nước có những đặc điểm chung của cơ quan hành chính Nhà nước đó là:

a. Là một tổ chức (tập hợp những con người)

b. Có tính độc lập tương đối về tổ chức – cơ cấu

c. Có thẩm quyền do pháp luật quy định.

Ngoài các đặc điểm chung của cơ quan Nhà nước, cơ quan quản lý Nhà nước có đặc điểm riêng, quyết định bởi chính bản chất của hoạt động chấp hành và điều hành. Các đặc điểm riêng cơ bản của địa vị pháp lý của cơ quan quản lý Nhà nước là:

1. Nhìn tổng thể, bộ máy hành chính Nhà nước là bộ máy chấp hành của các cơ quan quyền lực Nhà nước. Các cơ quan đầu não của bộ máy hành chính do các cơ quan quyền lực Nhà nước thành lập (Chính phủ, Bộ và các cơ quan, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan khác thuộc Chính phủ, UBND các cấp). Do đó, chúng trực thuộc, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực Nhà nước tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước cơ quan đó. Có những cơ quan quản lý Nhà nước không do các cơ quan quyền lực Nhà nước trực tiếp lập ra mà do các cơ quan quản lý cấp trên thành lập, nhưng về nguyên tắc cũng chịu sự giám sát, lãnh đạo của các cơ quan quyền lực tương ứng.

2. Các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành tức là hoạt động mang tính dưới luật – hoạt động tiến hành trên cơ sở và để thi hành luật. Đó là hình thức chủ yếu để đưa các đạo luật và các văn bản pháp luật khác … của các cơ quan quyền lực Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống.

3. Thẩm quyền của các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành, chủ yếu được quy định trong các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước hoặc các điều lệ, quy chế…

Những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự mà cơ quan quản lý Nhà nước có thể tham gia tương tự như tất cả các chủ thể khác của phá luật dân sự không phải là yếu tố của thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, của các cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm hoạt động thường xuyên hàng ngày một cách chủ động và sáng tạo để đáp ứng nhu cầu diễn biến nhanh chóng, phức tạp và đa dạng của hoạt động quản lý.

4. Tất cả các cơ quan quản lý Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau (quan hệ trực thuộc trên – dưới, trực thuộc ngang, quan hệ chéo) tạo thành một hệ thống thống nhất có trung tâm chỉ đạo là Chính phủ đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chấp hành và điều hành một cách mau lẹ, nhất quán và hiệu quả.

5. Hoạt động chấp hành và điều hành của bộ máy quản lý hoàn toàn khác với hoạt động kiểm sát và hoạt động xét xử của toà án. Tuy nhiên, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện; nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật; hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng kiến thức ý kiến của chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo; bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: .

Vị trí pháp lý của các cơ quan nhà nước

Cơ quan Hiến định độc lập

Tính độc lập của Thanh tra Quốc hội được nhấn mạnh trong mối quan hệ với các cơ quan trong các nhánh hành pháp và tư pháp. Như đã phân tích ở hoàn cảnh ra đời Thanh tra Quốc hội cổ điển, tính độc lập của Thanh tra Quốc hội là một yêu cầu khách quan nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động cho Thanh tra Quốc hội. Thực tế, ở Thụy Điển, Quốc hội muốn củng cố và mở rộng quyền lực để cân bằng với quyền lực của Hoàng gia vốn vẫn còn mạnh, do đó, Quốc hội phải kiểm soát được các nhánh quyền lực còn lại, đặc biệt là nhánh hành pháp khi nhà Vua vẫn có vai trò rất lớn ở nhánh quyền lực này. Bên cạnh đó, Thanh tra Quốc hội mặc dù được Quốc hội bầu và có mối quan hệ gắn bó với Quốc hội nhưng để việc giám sát được hiệu quả, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Thanh tra Quốc hội cũng có tính độc lập tương đối với Quốc hội.

Vị trí pháp lý của các cơ quan nhà nước

Chức năng giám sát tòa án và các cơ quan hành chính

Thanh tra Quốc hội có chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật của tòa án và của các cơ quan hành chính. Đây là điểm tương đối đặc thù của Thanh tra Quốc hội Thụy Điển và Phần Lan so với các nước trên thế giới. Theo quy định tại Đạo luật Nghị viện năm 1810 của Thụy Điển, thẩm quyền của Thanh tra Quốc hội là “giám sát việc tuân theo pháp luật và các quy tắc được áp dụng cho Tòa án và cơ quan hành chính cũng như nhân viên của họ”; chức năng giám sát được thực hiện “trong phạm vi chức năng đại diện của Quốc hội”, theo hướng dẫn của Quốc hội. Trong đó, Thanh tra quân sự (The Military Ombudsman) sẽ giám sát việc tuân theo các quy định pháp luật hành chính trong quân đội, còn Thanh tra dân sự (The Civil Ombudsman) giám sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và các cơ quan hành chính cũng như nhân viên của họ.

Hiện nay, pháp luật Thụy Điển vẫn kế thừa nội dung quy định phạm vi đối tượng chịu sự giám sát của Thanh tra Quốc hội và được quy định rõ hơn trong Đạo luật hướng dẫn hoạt động của Thanh tra Quốc hội tại Điều 2 nhiệm vụ của Thanh tra, theo đó, Thanh tra Quốc hội có quyền giám sát: (1) Các quan chức trung ương và các thành phố, (2) Cán bộ và nhân viên khác của các cơ quan này, (3) Các cá nhân mà công việc hay nhiệm vụ của họ có liên quan đến việc thực thi quyền hành công Cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị doanh nghiệp công (public enterprises), trong quá trình hoạt động thông qua cơ quan của doanh nghiệp công, Chính phủ có ảnh hưởng quyết định. Trường hợp các sĩ quan trong lực lượng vũ trang cấp trung úy hoặc cao hơn, và các cấp bậc tương ứng.

Cùng với đó là liệt kê những chủ thể không thuộc thẩm quyền giám sát của Thanh tra Quốc hội, gồm: (1) Các thành viên của Quốc hội, (2) Ban hành chính của Quốc hội, Ban bầu cử của Quốc hội, Ban khiếu nại của Quốc hội và Ban thư ký của Quốc hội, (3) Hội đồng quản trị của Ngân hàng Trung ương Thụy Điển (Riksbank), các thành viên Ban chấp hành của Riksbank, ngoại trừ khi họ tham gia trong việc thực hiện quyền hạn của Riksbank để đưa ra các quyết định phù hợp với Đạo luật về Quy chế Tiền tệ và Tín dụng, (4) Các thành viên của Chính phủ (các bộ trưởng), (5) Thanh tra công lý và các thành viên của Hội đồng giám mục của quận và thành phố.                                                          

Tuy nhiên, theo pháp luật hiện hành, mặc dù Thanh tra Quốc hội không có thẩm quyền giám sát các bộ trưởng nhưng “Thanh tra Quốc hội có nghĩa vụ bắt đầu và khởi kiện các thủ tục tố tụng mà Ủy ban Hiến pháp đã quyết định chống lại Bộ trưởng, phù hợp với mục 12.3 Luật công cụ của Chính phủ, cũng như các thủ tục pháp lý để chống lại các quan chức trong Quốc hội hay các cơ quan của Quốc hội theo quyết định của Các ủy ban của Quốc hội theo quy định pháp luật” (Điều 10 Luật hướng dẫn hoạt động của Thanh tra Quốc hội).

Ngoài ra, Luật hướng dẫn hoạt động Thanh tra Quốc hội cũng đã có những điều khoản quy định về thẩm quyền của thanh tra đối với hoạt động của tòa án. Theo đó, Thanh tra Quốc hội phải “bảo đảm rằng các tòa án và cơ quan công quyền trong quá trình hoạt động của họ phải tuân theo các quy định của Luật công cụ của Chính phủ về tính khách quan và công bằng”. Đồng thời, Luật cũng nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ quyền cơ bản và tự do của công dân không bị xâm phạm bởi hành chính công. Ở Phần Lan, Thanh tra Quốc hội Phần Lan là cơ quan hiến định độc lập, được thành lập bởi Quốc hội nhằm thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lực nhà nước, giám sát việc thực hiện các quyền, tự do cơ bản của con người. Thanh tra Quốc hội Phần Lan có nhiệm vụ giám sát tính hợp pháp trong hoạt động của các cơ quan công quyền và các công chức trong bộ máy nhà nước bao gồm: Chính phủ, người đứng đầu Chính phủ, các bộ trưởng, Tòa án các cấp… Việc giám sát nhằm bảo đảm rằng các cơ quan và cán bộ công chức tuân thủ pháp luật một cách triệt để và thực hiện đúng đắn nhiệm vụ của mình. Khác với Thụy Điển, đối tượng chịu sự giám sát của Thanh tra Quốc hội Phần Lan có thể bao gồm cả Tổng thống và các Bộ trưởng, thậm chí, quyền giám sát của Thanh tra Quốc hội còn mở rộng đến những lĩnh vực hay những cá nhân khác khi họ đang thực hiện các nhiệm vụ có tính chất công (ví dụ như các nhân viên hoạt động trong nhà thờ, các quỹ trợ cấp thất nghiệp, lương hưu hay các dịch vụ phúc lợi xã hội, bảo hiểm...).