Warranty expense là gì
Chuẩn mực kế toán chia các chi phí bảo hành sản phẩm, hàng hóa thành hai loại: Show Assurance-type warranties có thể hiểu là phương thức bảo hành tiêu chuẩn hay bảo hành theo luật định (sau đây gọi là phương thức bảo hành tiêu chuẩn). Phương thức bảo hành này đảm bảo sản phẩm, hàng hóa được bán cho khách hàng hoạt động theo đúng các tiêu chuẩn kỹ thuật được quy định tại hợp đồng mua bán. Ví dụ: trong thời gian bảo hành, nếu khách hàng phát hiện sản phẩm có lỗi từ nhà sản xuất thì doanh nghiệp sẽ có nghĩa vụ sửa chữa hoặc đổi mới sản phẩm cho khách hàng. Service-type warranties có thể hiểu như một phương thức bảo hành dịch vụ, tức là khách hàng trả một khoản phí cho doanh nghiệp để đổi lấy các dịch vụ bảo hành ngoài phương thức bảo hành tiêu chuẩn (sau đây gọi là phương thức bảo hành dịch vụ). Khi này, doanh nghiệp sẽ có thêm các nghĩa vụ đối với khách hàng theo quy định của hợp đồng, ngoài nghĩa vụ đảm bảo doanh nghiệp không bán cho khách hàng các sản phẩm lỗi. Một số ví dụ của phương thức bảo hành dịch vụ bao gồm: tăng thêm thời hạn bảo hành so với phương thức bảo hành tiêu chuẩn, bảo hành sản phẩm ngay cả khi lỗi phát sinh từ phía người dùng, 1. Tại sao lại có sự phân biệt kế toán giữa hai phương thức bảo hànhĐoạn trích sau giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quyết định của Hội đồng soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) về vấn đề này: BC369 In the Discussion Paper, the boards proposed accounting for all warranties consistently because a unifying feature of all warranties is that an entity promises to stand ready to replace or repair the product in accordance with the terms and conditions of the warranty. The Discussion Paper proposed that a promise to stand ready would provide a customer with a service of warranty coverage, which would have been a performance obligation to which revenue would be attributed. However, most respondents to the Discussion Paper stated that the accounting for warranties should reflect the fact that some product warranties are different from others. Some warranties protect the customer from defects that exist when the product is transferred to the customer and other warranties protect the customer from faults that arise after the product has been transferred to the customer. Those respondents commented that the customer does not receive a separate service if the warranty only protects the customer from the product defects that were present at the time of sale. Consequently, any subsequent repairs or replacements to remedy those defects are additional costs of providing the product and, therefore, relate to an entitys past performance. BC370 In the light of that feedback, the boards decided to account for some warranties differently from others. The boards considered distinguishing warranties on the basis of when the fault in the products arises; however, respondents explained that such a distinction was not operational. Therefore, the boards decided to distinguish warranties on the basis of whether the warranty provides the customer with a service in addition to the assurance that the related product complies with the agreed-upon specifications. Specifically, the boards decided that when the warranty provides a service (ie a service-type warranty), the warranty should be accounted for as a performance obligation. 2. Kế toán cho phương thức bảo hành dịch vụPhương thức bảo hành dịch vụ được kế toán như một nghĩa vụ thực hiện hợp đồng riêng biệt, không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có bán các gọi dịch vụ này một cách độc lập hoặc gói dịch vụ này có nằm trong thỏa thuận riêng với khách hàng hay không: BC371 For some types of warranties, an entity either sells separately or negotiates separately with a customer so that the customer can choose whether to purchase the warranty coverage. That fact provides objective evidence that the promised warranty provides a service to the customer in addition to the promised product. Consequently, the boards decided that this type of promised warranty is a performance obligation in accordance with paragraphs 2230 of IFRS 15. BC372 The boards decided that warranties that are not sold separately by the entity, or negotiated separately with the customer, should also be identified as performance obligations if the facts and circumstances suggest that the warranty (or a part of the warranty) provides a service to the customer, in addition to the assurance that the entitys past performance was as specified in the contract. Ví dụ 1: Xác định chi phí bảo hành tiêu chuẩn hay dịch vụ Mặc dù gói bảo hành không được Công ty A bán riêng cho khách hàng, tính chất của gói bảo hành bao gồm: cho thấy Công ty A đang cung cấp cho khách hàng các dịch vụ, ngoài việc đảm bảo hàng hóa do Công ty A sản xuất đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và không bị hỏng hóc khi bán cho khách hàng. Vì vậy, đây là phương thức bảo hành dịch vụ. Kế toán Công ty A cần xác định giá bán độc lập của dịch vụ này và kế toán các nghĩa vụ bảo hành như một nghĩa vụ thực hiện hợp đồng riêng biệt. Ví dụ 2: Doanh nghiệp có thể phát sinh đồng thời chi phí bảo hành tiêu chuẩn và dịch vụ Trong năm 20X8, Công ty A nhận được 100 máy do khách hàng gửi về bảo hành, trong đó: Ví dụ 3: Ví dụ về kế toán bảo hành dịch vụ Ngày 08/08/20X9, khách hàng mua đồng thời sản phẩm X và gói bảo hành vàng với số tiền 21 triệu đồng, trong đó: giá bán máy X là 20 triệu đồng và giá bán của gói bảo hành là 1 triệu đồng. Việc kế toán được thực hiện như sau: Xác định nghĩa vụ thực hiện hợp đồng: Xác định giá giao dịch: Phân bổ giá giao dịch cho các nghĩa vụ thực hiện hợp đồng: Ghi nhận doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ: + Tại ngày 08/08/20X9, Công ty chuyển giao sản phẩm cho khách hàng và đồng thời ghi nhận doanh thu bán hàng: + Hàng tháng, Công ty ghi nhận doanh thu từ dịch vụ bảo hành theo phương pháp đường thẳng (phân bổ trong 12 tháng), ghi: 3. Kế toán cho phương thức bảo hành tiêu chuẩnVề mặt nguyên tắc, khi phát sinh các chi phí bảo hành tiêu chuẩn, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp chưa thực hiện được lời hứa của mình về việc cung cấp cho khách hàng các sản phẩm theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và không phát sinh các lỗi của nhà cung cấp trong quá trình sử dụng. Vì vậy, trong trường hợp này, doanh nghiệp chưa đủ điều kiện ghi nhận doanh thu do chưa hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng đối với khách hàng. Tuy nhiên, việc ghi nhận kế toán như trên, theo Hội đồng soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế sẽ tạo ra những sự phức tạp nhất định cũng như không mang lại được nhiều thông tin hữu ích cho người sử dụng báo cáo tài chính. Vì vậy, hội đồng soạn thảo chuẩn mực lựa chọn áp dụng mô hình dự phòng phải trả đối với các khoản chi phí bảo hành tiêu chuẩn: BC374 The boards considered whether an assurance-type warranty should be accountedfor as either of the following: BC375 The proposals in the 2010 Exposure Draft would have required an entity thatprovides an assurance-type warranty to a customer to assess whether it hadsatisfied its performance obligation to transfer the product specified in thecontract. The entity would have been required to determine the likelihood ofthe existence of defective products that it had sold to customers and theirquantity and, as a consequence, not recognise revenue to the extent that thoseperformance obligations were not satisfied. An advantage of that proposalwould have been that an entity would not have recognised the entire transactionprice as revenue when the product transferred to the customer, because aportion of the transaction price would not have been recognised as revenueuntil the entity had repaired or replaced the products that were expected to bedefective. However, the boards decided not to retain that proposal, mainly forthe following practical reasons: BC376 Accordingly, the boards decided that an entity should recognise anassurance-type warranty as a separate liability to replace or repair a defectiveproduct. Consequently, an entity should recognise a warranty liability andcorresponding expense when it transfers the product to the customer and theliability should be measured in accordance with IAS 37. In contrast to the accounting for service-type warranties, an entity should notattribute any of the transaction price (and therefore revenue) to anassurance-type warranty. Some warranties may include both assurance featuresand service features. The boards decided that if an entity cannot reasonablyaccount for those assurance features of the warranty separately from the servicefeatures, the entity should be allowed to account for the warranties together as asingle performance obligation. That accounting ensures that the entity does notoverstate the recognition of revenue at the time that the product transfers to thecustomer and also relieves the entity from identifying and accounting separatelyfor the two components of the warranty coverage. Ví dụ 4: Ví dụ về kế toán bảo hành tiêu chuẩn Dựa trên các dữ liệu lịch sử trong quá khứ, Công ty A ước tính trong số 100.000 sản phẩm X bán ra, có khoảng 5.000 sản phẩm bị hỏng hóc nhẹ với chi phí sửa chữa khoảng 2 triệu đồng/sản phẩm và khoảng 10.000 sản phẩm bị lỗi nặng với chi phí sửa chữa khoảng 5 triệu đồng/sản phẩm. Như vậy, tổng chi phí bảo hành ước tính phát sinh từ số sản phẩm trên là: Công ty A ghi nhận doanh thu và giá vốn bán hàng trong năm 20X8: Đồng thời, Công ty A ghi nhận dự phòng phải trả về chi phí bảo hành tại ngày 31/12/20X8 như sau: Một vấn đề quan trọng trong kế toán chi phí bảo hành tiêu chuẩn đó là việc xác định doanh nghiệp có phát sinh nghĩa vụ về chi phí bảo hành hay không. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp chỉ là đơn vị trung gian đứng ra làm việc với khách hàng thay nhà cung cấp để quá trình bảo hành hàng hóa được thuận tiện. Hàng hóa sau đó được gửi trực tiếp cho nhà cung cấp để bảo hành, và nếu nhà cung cấp từ chối bảo hành thì doanh nghiệp cũng không có bất kỳ một nghĩa vụ nào khác đối với khách hàng. Trong trường hợp này, doanh nghiệp chỉ đóng vai trò là trung gian, còn nghĩa vụ bảo hành chính thuộc về nhà sản xuất, và vì vậy, doanh nghiệp không ghi nhận nghĩa vụ bảo hành hàng hóa trong trường hợp này. Một trường hợp khác, doanh nghiệp có nghĩa vụ bảo hành hàng hóa đối với khách hàng, trong đó, một phần hoặc toàn bộ chi phí bảo hành sẽ được hoàn lại bởi nhà cung cấp. Lúc này, doanh nghiệp ghi nhận toàn bộ nghĩa vụ liên quan tới dự phòng phải trả về chi phí bảo hành, đồng thời ghi nhận một tài sản liên quan tới quyền thu hồi chi phí bảo hành từ nhà cung cấp (reimbursement right). Các khóa học do chúng tôi cung cấp 750.000 Phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ gián tiếpTìm hiểu thêm 500.000 Phương pháp vốn hóa chi phí lãi vayTìm hiểu thêm Bài viết cùng chủ đề:
Share via:
|