Ái luyến sinh sầu ưu nghĩa là gì

TÌM HIỂU KINH PHÁP CÚ [DHAMMAPADA] 
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương Xuất Bản - 2006

ÁI DỤC 

 Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dụclòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục:

 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta.

 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại.

 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thútài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.

 Kinh Pháp Cú chỉ rõ cho thấy ái dục là nguồn gốc của mọi sự đau khổ trong đời, là sức mạnh thúc đẩy con người tìm sự thỏa mãn lòng ham muốn ích kỷ bằng mọi cách, ngay cả bằng sự thiệt hại hoặc đau khổ của người khác. Ái dụccạm bẫy nguy hiểm nhất, vì khi được toại nguyện thời nó đem lại cảm giác thỏa mãn cho con người và do đó lòng ái dục của con người cứ tăng thêm mãi. Đức Phật nhận định rằng những điều mà người thế gian gọi là sung sướng, hạnh phúc thời chỉ được xây dựng mong manh trên một số điều kiện. Khi những điều kiện ấy đầy đủ thì người đời gọi là được sung sướng, có hạnh phúc. Nhưng với hạnh phúc họ đang có trong tay họ cũng không cảm thấy được thoả mãn trọn vẹnvĩnh viễn. Nguyên do là vì lòng dạ con người vốn thay đổi và lúc nào cũng muốn được thêm, thêm mãi. Khi chưa đạt được tất cả những điều họ ước ao thì họ có cảm tưởng là vẫn còn thiếu thốn, và lòng họ băn khoăn, day dứt, mong cầu. Hạnh phúc thật sự không cần thiết phải có liên hệ đến điều kiện vật chất bên ngoài, mà hoàn toàn tùy thuộc vào nội tâm của con người. Tất cả giáo lý của Đạo Phật đều quy tụ vào một điểm thực tế là muốn tìm an lạc vĩnh cửu, con người cần phải biết làm cách nào để thắng được lòng ái dục

 Một khi đã nói đến ái, nhất là ái dục, thời đây là cả một đề tài muôn điệu. Đã là con người, thật khó mà thoát ly được ái dục.Vì vậy ta không gì lạ khi thấy Đức Phật đã dành nhiều câu khuyên dạy về ái dục. Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy: 

[Pháp Cú 359] Cỏ hoang làm hại ruộng vườn

Ái dục gây hại nhiều hơn cho người,


Ai lìa ái dục được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.

 Một nữ thí chủ rất nổi tiếng, có đứa cháu thân yêu vừa qua đời. Bà thương tiếc và khóc lóc thảm thiết. Khi bà đến chùa, Đức Phật an ủi bà và dạy rằng: “Mỗi ngày có biết bao nhiêu người chết. Nếu bà xem mỗi người đã qua đời là một người thân mà bà than khóc như thương tiếc một đứa cháu bà thì có lẽ chẳng có lúc nào mà bà ngưng chảy nước mắt. Ưu sầusợ hãi sinh ra do sự quá luyến ái, quá trìu mến đó”. Người dứt được say đắm trong tình cảm sẽ không bị ràng buộc và khỏi lo phiền:

 [Pháp Cú 213]
Khởi từ luyến ái sinh ra
Chứa chan hãi sợ, chan hòa lo âu
Mến thương, luyến ái lìa mau
Chẳng còn lo sợ, ưu sầu tiêu tan.

 Để giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang giành nhau nước dưới con sông làm ranh giới Đức Phật dạy không nên tham ái và nên diệt trừ dục vọng:

[Pháp Cú 199]
Ở ngay giữa đám nhân sinh
Mặc người tham ái, nếu mình thảnh thơi
Sống không dục vọng như người
Thật là sung sướng, cuộc đời thơm hương.

 Khi nhắc đến một vị Tỳ kheo vô lễ, mặc dầu thông suốt giáo pháp nhưng lòng còn chứa đầy ái dụcngã mạn. Ỷ mình có sức học cao nên thầy luôn khinh rẻ các vị khác. Tuy có công chỉ dạy giáo lý cho các Tỳ kheo khác nhưng thái độ khinh mạn của thầy đã gây nhiều khó khăn trong việc truyền bá chánh pháp. Vì tội ác này thầy phải sa vào địa ngục, khi mãn hạn thầy chỉ được tái sinh thành con cá vàng, tuy có thân hình đẹp đẽ nhưng miệng lại thở ra mùi hôi thối. Đức Phật dạy rằng nếu không kiềm chế thời ái dục sẽ tăng mãi:

[Pháp Cú 334]
Sống đời say đắm buông lung
Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh Giống như giữa chốn rừng xanh

Dây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,


Đời người tiếp nối miên man Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng

Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.

 Người nuôi dưỡng ái dục thời sầu muộn mãi gia tăng. Trái lại người dập tắt ái dục thời sầu muộn không còn: 

[Pháp Cú 335]
Nếu mà ở cõi trần gian
Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh
Thời bao sầu khổ tăng nhanh Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.

[Pháp Cú 336]


Đời này nếu bản thân ta
Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng
Thời bao sầu khổ lìa tan
Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.

 Hãy dập tắt ái dục từ gốc rễ như là nhổ rễ cỏ hoang. Đức Phật dạy bao giờ còn ái dục là còn đau khổ:

 [Pháp Cú 337]
Điều Như Lai dạy các ngươi: “Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này Nhổ cho sạch gốc rễ ngay

Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn

Như là nhổ rễ cỏ hoang

Chớ nên để lũ Ma quân dục tình


Quẩn quanh phá hoại tâm mình
Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau”.

 Trong lúc đi dài theo đường, Đức Phật trông thấy một con heo nái. Ngài thuật lại rằng trong những kiếp quá khứ của nó, con heo từng là một chị gà thường đứng bên hông chùa nghe giảng kinh nên được tái sinh làm một nàng công chúa. Một hôm công chúa quán tưởng đến tấm thân vô thường nên phát tâm tu hành, mãn đời được sinh lên cõi trời. Hưởng hết phước, vì nghiệp báo ở những tiền kiếp nên lại tái sinh dưới hình dạng con heo nái này. Ngài dạy rằng gốc ái dục mà nhổ chưa hết rễ thời tâm còn bị ràng buộc, còn chịu đau khổ dây dưa, sầu muộn còn phát sinh trở đi trở lại triền miên:

[Pháp Cú 338]  Đốn cây mà chẳng chịu đào Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu Thì cây lại mọc ra mau,

Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây

Đoạn cho căn gốc sạch ngay

Nếu không khổ não mãi quay trở về.

 Ái dục nhận chìm người tham ái. Nếu bên trong kẻ nào ba mươi sáu dòng ái dục còn tuôn chảy mạnh mẽ, tâm tham ái sẽ cuồn cuộn lôi cuốn kẻ si mê ấy đi như một luồng thác lũ:

[Pháp Cú 339]
Người ham ái dục luôn luôn Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.

Những người ái dục dâng tràn trong tâm


Bị dòng ái dục cuốn phăng.

 Hãy dùng trí tuệ để dập tắt ái dục. Dòng ái dục tràn ngập khắp nơi như dây leo dại. Loài dây leo ái dục đâm chồi và bám vững . Hãy dùng trí tuệ bứng tận gốc rễ:

[Pháp Cú 340]
Dòng sông ái dục dâng tràn Như dây leo dại mọc lan khắp miền, Thấy dây leo mới nhô lên

Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau


Diệt trừ tận gốc thật sâu.

 Luyến ái dục lạc dẫn đến sinh hoại, khó thoát khỏi trầm luân. Tưởng lầm rằng đó là hạnh phúc nên mãi quẩn quanh trong sinh tử luân hồi

[Pháp Cú 341]
Người đời ái dục thích ham Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô Ngụp chìm biển dục vô bờ

Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công


Vẫn còn trong chốn trầm luân
Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.

 Bị ái dục ràng buộc sẽ đi đến sầu muộn và chịu đau khổ triền miên lâu dài. Kinh hoàng như thỏ nằm trong lưới bẫy, bị trói buộc và siết chặt:

[Pháp Cú 342]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Não phiền, ái dục chẳng lìa cho mau


Khổ đau càng chịu dài lâu.

 Người chìm đắm trong ái dục khác nào sống trong lưới bẫy của mọi sự ô nhiễm. Đức Phật nhấn mạnh rằng người tu hànhý nguyện thành đạt trạng thái không dục vọng phải xa lìa ái dục để sống trong sạch:

[Pháp Cú 343]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau


Niết Bàn giải thoát xa đâu. 

 Một chàng thanh niên có niềm tin vững chắc, xuất gia thành Tỳ kheo. Một hôm trong khi đi khất thực tại nhà người chú làm thợ vàng, thấy nhiều đồ trang sức đẹp mắt chàng sinh lòng tham luyến, bị dục lạc quyến rũ, chàng hoàn tục. Sau kết bạn với bọn cướp. Bị bắt và bị đưa ra hành hình. Trên đường đi chàng gặp lại thầy cũ của mình. Thầy khuyên chàng nên thiền định ngay. Chàng nghe lời. Gương mặt trở nên bình thản, đắc đạo quả. Không lo sợ bị tử hình. Đao phủ ngạc nhiên trình vua. Vua ra lệnh tha cho chàng. Đức Phật nhân đó dạy là khi đã được giải thoát không nên tự trói lại: 

[Pháp Cú 344]
Người lìa ái dục, xuất gia Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu Để rồi một sớm quay đầu

Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,


Kẻ hoàn tục đáng xót xa
Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.

 Ba mươi vị Tỳ kheo đi ngang qua khám đường thấy các phạm nhân bị trói buộc bằng dây xích. Các thầy bạch hỏi Đức Phật xem có loại dây trói buộc nào bền chắc hơn những sợi xích ấy không. Đức Phật giải đáp rằng theo lời các bậc thiện trí thời lòng luyến ái vợ con gia đình, lòng tham cầu giàu sang phú quý là sợi dây ngàn lần bền chắc hơn:

 [Pháp Cú 345]
Với người trí tuệ mở mang
Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì: Dây gai, cây, sắt sá chi

Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!


Riêng lòng luyến ái khát khao
Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,
Trói này sao gỡ cho ra!

 Đức Phật dạy thêm “Trói buộc ấy thật bền chắc. Nó trì xuống, mềm mỏng, nhưng rất khó tháo gỡ. Hãy tuyệt trừ ái dục, đừng dính líu, đừng luyến tiếc”:

[Pháp Cú 346] Những người có trí nói rằng:

“Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm!”


Dây tuy mềm mại, êm đềm
Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta
Khó mà tháo gỡ cho ra
Thế nên người trí lìa xa dục tình
Cắt dây luyến ái cho nhanh
Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.

 Người tham ái bị kẹt trong lưới tham như con nhện vướng vào lưới của mình. Tuy ái dục chinh phụcràng buộc con người chặt chẽ như vậy, nhưng với con ngườiý chí, có nghị lực, vẫn có thể đối trị được dục ái đó để mà được giải thoát và không còn sầu muộn. Một bà hoàng hậu đắm say trong sắc đẹp lộng lẫy của chính bà. Một hôm bà tới viếng rừng Trúc Lâm lúc Đức Phật đang giảng Pháp. Đức Phật tạo một phương cách làm cho bà nhìn thấy một cô gái tuyệt đẹp, trẻ trung, bỗng cô dần dần trở nên già lụ khụ, cuối cùng cô chỉ còn là một túi da bọc xương. Do đó bà bừng ngộ ra rằng sắc đẹp thể chấtkhông thật, nhận thức ra tính cách vô thường tạm bợ của đời sống. Để khuyên bà, Đức Phật dạy:

 [Pháp Cú 347]
Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau Lọt vòng dây trói trước sau Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng. Ai mà dứt mọi buộc ràng

Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.

 Một vị tăng sĩ trẻ tuổi bị một thiếu phụ đem lòng thương và quyến rũ. Thầy vấn vương nên không vui với đời sống xuất gia, thân hình càng ngày càng tiều tụy. Một hôm các bạn đồng tu đem thầy đến bạch với Đức Phật. Đức Phật thuật lại một diễn biến trong kiếp sống quá khứ của thầy: “Trong dĩ vãng thầy từng là một người thiện xạ trẻ, tài ba, bắn cung rất giỏi. Một lần chàng đang chiến đấu với bọn cướp thời vợ chàng phản bội nên chàng bị giết chết. Vợ theo tên cướp đầu đảng. Kiếp này vợ chàng chính là thiếu phụ đang tìm cách quyến rũ chàng hoàn tục, muốn hại chàng thêm một lần nữa”. Rồi Đức Phật khuyên:

 [Pháp Cú 349] Người nào bị khuấy động nhiều Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương

Thường ham dục lạc vô cùng,


Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều Tự mình một sớm một chiều

Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.

 Người biết khắc phục được những tư tưởng bất thiện, biết tham thiền suy niệm về tánh cách ô trược của thể xác, luôn luôn giữ chánh niệm, đó là người sẽ dứt bỏ được lòng luyến ái đeo níu theo xác thân, chấm dứt được ái dục. Người ấy sẽ phá vỡ vòng ràng buộc của Ma vương, của những cám dỗ xúi bẩy làm chuyện không tốt lành:

[Pháp Cú 350] Ai vui vì chẳng còn vương

Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,


Xác thân bất tịnh suy tư
Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
Sẽ trừ ái dục vây quanh
Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.

 Một vị Tỳ kheo trẻ tuổi, không biết tri túc, muốn rời bỏ đời sống xuất gia, ước mơ trở về thọ lãnh chút ít tài sản của cha chết đi để lại. Vì tâm tư bị giằng co giữa hai ý định, tiếp tục tu hành hay hoàn tục, nên vị Tỳ kheo trẻ tuổi sinh ra bất mãn, mất cả sự hăng hái học tập, biếng ăn uống thành ra gầy yếu. Các bạn đồng tu thấy thế nên dẫn vị Tỳ kheo trẻ đến yết kiến Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng dục lạc không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Hạnh phúc vật chất chỉ là sự thỏa mãn của một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa đạt được nó thì nó đã vội lìa bỏ ta. Không bao giờ ta cho là đủ:

[Pháp Cú 186 - 187] Dù cho mưa xuống bạc vàng

Cũng đâu thỏa mãn lòng tham con người

Người hiền trí biết rõ thôi

Dục tình vui ít để rồi khổ thêm,


Cõi trời cao ngất từng trên
Dục tình dù có, chớ nên ham cầu, Người con Phật hiểu pháp mầu

Chỉ mong tham ái được mau diệt trừ

 Không nên hiểu lầmĐức Phật có ý phủ nhận tình cảm của con người khi theo đuổi một số lý tưởng tinh thần cao thượng. Đức Phật không khuyên chúng ta dẹp bỏ hoàn toàn tình cảm lành mạnh của con người. Ngài chỉ có ý muốn nhắc nhở chúng ta là không nên chú tâm quyến luyếngắn bó vào những thú vui vật chất. Điều làm trở ngại quan trọng nhất cho việc phát triển tâm linh chính là cái tâm ý thiết tha gắn bó, nhớ tưởng đến những vật, những việc hay những ngoại cảnh có sức tạo niềm khoái lạc và thích thú theo lòng ham muốn ích kỷ của con người mà thôi. 

Page 2

TÌM HIỂU KINH PHÁP CÚ [DHAMMAPADA] 
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương Xuất Bản - 2006

ÁI DỤC 

 Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dụclòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục:

 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta.

 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại.

 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thútài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.

 Kinh Pháp Cú chỉ rõ cho thấy ái dục là nguồn gốc của mọi sự đau khổ trong đời, là sức mạnh thúc đẩy con người tìm sự thỏa mãn lòng ham muốn ích kỷ bằng mọi cách, ngay cả bằng sự thiệt hại hoặc đau khổ của người khác. Ái dụccạm bẫy nguy hiểm nhất, vì khi được toại nguyện thời nó đem lại cảm giác thỏa mãn cho con người và do đó lòng ái dục của con người cứ tăng thêm mãi. Đức Phật nhận định rằng những điều mà người thế gian gọi là sung sướng, hạnh phúc thời chỉ được xây dựng mong manh trên một số điều kiện. Khi những điều kiện ấy đầy đủ thì người đời gọi là được sung sướng, có hạnh phúc. Nhưng với hạnh phúc họ đang có trong tay họ cũng không cảm thấy được thoả mãn trọn vẹnvĩnh viễn. Nguyên do là vì lòng dạ con người vốn thay đổi và lúc nào cũng muốn được thêm, thêm mãi. Khi chưa đạt được tất cả những điều họ ước ao thì họ có cảm tưởng là vẫn còn thiếu thốn, và lòng họ băn khoăn, day dứt, mong cầu. Hạnh phúc thật sự không cần thiết phải có liên hệ đến điều kiện vật chất bên ngoài, mà hoàn toàn tùy thuộc vào nội tâm của con người. Tất cả giáo lý của Đạo Phật đều quy tụ vào một điểm thực tế là muốn tìm an lạc vĩnh cửu, con người cần phải biết làm cách nào để thắng được lòng ái dục

 Một khi đã nói đến ái, nhất là ái dục, thời đây là cả một đề tài muôn điệu. Đã là con người, thật khó mà thoát ly được ái dục.Vì vậy ta không gì lạ khi thấy Đức Phật đã dành nhiều câu khuyên dạy về ái dục. Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy: 

[Pháp Cú 359] Cỏ hoang làm hại ruộng vườn

Ái dục gây hại nhiều hơn cho người,


Ai lìa ái dục được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.

 Một nữ thí chủ rất nổi tiếng, có đứa cháu thân yêu vừa qua đời. Bà thương tiếc và khóc lóc thảm thiết. Khi bà đến chùa, Đức Phật an ủi bà và dạy rằng: “Mỗi ngày có biết bao nhiêu người chết. Nếu bà xem mỗi người đã qua đời là một người thân mà bà than khóc như thương tiếc một đứa cháu bà thì có lẽ chẳng có lúc nào mà bà ngưng chảy nước mắt. Ưu sầusợ hãi sinh ra do sự quá luyến ái, quá trìu mến đó”. Người dứt được say đắm trong tình cảm sẽ không bị ràng buộc và khỏi lo phiền:

 [Pháp Cú 213]
Khởi từ luyến ái sinh ra
Chứa chan hãi sợ, chan hòa lo âu
Mến thương, luyến ái lìa mau
Chẳng còn lo sợ, ưu sầu tiêu tan.

 Để giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang giành nhau nước dưới con sông làm ranh giới Đức Phật dạy không nên tham ái và nên diệt trừ dục vọng:

[Pháp Cú 199]
Ở ngay giữa đám nhân sinh
Mặc người tham ái, nếu mình thảnh thơi
Sống không dục vọng như người
Thật là sung sướng, cuộc đời thơm hương.

 Khi nhắc đến một vị Tỳ kheo vô lễ, mặc dầu thông suốt giáo pháp nhưng lòng còn chứa đầy ái dụcngã mạn. Ỷ mình có sức học cao nên thầy luôn khinh rẻ các vị khác. Tuy có công chỉ dạy giáo lý cho các Tỳ kheo khác nhưng thái độ khinh mạn của thầy đã gây nhiều khó khăn trong việc truyền bá chánh pháp. Vì tội ác này thầy phải sa vào địa ngục, khi mãn hạn thầy chỉ được tái sinh thành con cá vàng, tuy có thân hình đẹp đẽ nhưng miệng lại thở ra mùi hôi thối. Đức Phật dạy rằng nếu không kiềm chế thời ái dục sẽ tăng mãi:

[Pháp Cú 334]
Sống đời say đắm buông lung
Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh Giống như giữa chốn rừng xanh

Dây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,


Đời người tiếp nối miên man Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng

Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.

 Người nuôi dưỡng ái dục thời sầu muộn mãi gia tăng. Trái lại người dập tắt ái dục thời sầu muộn không còn: 

[Pháp Cú 335]
Nếu mà ở cõi trần gian
Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh
Thời bao sầu khổ tăng nhanh Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.

[Pháp Cú 336]


Đời này nếu bản thân ta
Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng
Thời bao sầu khổ lìa tan
Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.

 Hãy dập tắt ái dục từ gốc rễ như là nhổ rễ cỏ hoang. Đức Phật dạy bao giờ còn ái dục là còn đau khổ:

 [Pháp Cú 337]
Điều Như Lai dạy các ngươi: “Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này Nhổ cho sạch gốc rễ ngay

Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn

Như là nhổ rễ cỏ hoang

Chớ nên để lũ Ma quân dục tình


Quẩn quanh phá hoại tâm mình
Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau”.

 Trong lúc đi dài theo đường, Đức Phật trông thấy một con heo nái. Ngài thuật lại rằng trong những kiếp quá khứ của nó, con heo từng là một chị gà thường đứng bên hông chùa nghe giảng kinh nên được tái sinh làm một nàng công chúa. Một hôm công chúa quán tưởng đến tấm thân vô thường nên phát tâm tu hành, mãn đời được sinh lên cõi trời. Hưởng hết phước, vì nghiệp báo ở những tiền kiếp nên lại tái sinh dưới hình dạng con heo nái này. Ngài dạy rằng gốc ái dục mà nhổ chưa hết rễ thời tâm còn bị ràng buộc, còn chịu đau khổ dây dưa, sầu muộn còn phát sinh trở đi trở lại triền miên:

[Pháp Cú 338]  Đốn cây mà chẳng chịu đào Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu Thì cây lại mọc ra mau,

Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây

Đoạn cho căn gốc sạch ngay

Nếu không khổ não mãi quay trở về.

 Ái dục nhận chìm người tham ái. Nếu bên trong kẻ nào ba mươi sáu dòng ái dục còn tuôn chảy mạnh mẽ, tâm tham ái sẽ cuồn cuộn lôi cuốn kẻ si mê ấy đi như một luồng thác lũ:

[Pháp Cú 339]
Người ham ái dục luôn luôn Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.

Những người ái dục dâng tràn trong tâm


Bị dòng ái dục cuốn phăng.

 Hãy dùng trí tuệ để dập tắt ái dục. Dòng ái dục tràn ngập khắp nơi như dây leo dại. Loài dây leo ái dục đâm chồi và bám vững . Hãy dùng trí tuệ bứng tận gốc rễ:

[Pháp Cú 340]
Dòng sông ái dục dâng tràn Như dây leo dại mọc lan khắp miền, Thấy dây leo mới nhô lên

Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau


Diệt trừ tận gốc thật sâu.

 Luyến ái dục lạc dẫn đến sinh hoại, khó thoát khỏi trầm luân. Tưởng lầm rằng đó là hạnh phúc nên mãi quẩn quanh trong sinh tử luân hồi

[Pháp Cú 341]
Người đời ái dục thích ham Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô Ngụp chìm biển dục vô bờ

Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công


Vẫn còn trong chốn trầm luân
Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.

 Bị ái dục ràng buộc sẽ đi đến sầu muộn và chịu đau khổ triền miên lâu dài. Kinh hoàng như thỏ nằm trong lưới bẫy, bị trói buộc và siết chặt:

[Pháp Cú 342]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Não phiền, ái dục chẳng lìa cho mau


Khổ đau càng chịu dài lâu.

 Người chìm đắm trong ái dục khác nào sống trong lưới bẫy của mọi sự ô nhiễm. Đức Phật nhấn mạnh rằng người tu hànhý nguyện thành đạt trạng thái không dục vọng phải xa lìa ái dục để sống trong sạch:

[Pháp Cú 343]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau


Niết Bàn giải thoát xa đâu. 

 Một chàng thanh niên có niềm tin vững chắc, xuất gia thành Tỳ kheo. Một hôm trong khi đi khất thực tại nhà người chú làm thợ vàng, thấy nhiều đồ trang sức đẹp mắt chàng sinh lòng tham luyến, bị dục lạc quyến rũ, chàng hoàn tục. Sau kết bạn với bọn cướp. Bị bắt và bị đưa ra hành hình. Trên đường đi chàng gặp lại thầy cũ của mình. Thầy khuyên chàng nên thiền định ngay. Chàng nghe lời. Gương mặt trở nên bình thản, đắc đạo quả. Không lo sợ bị tử hình. Đao phủ ngạc nhiên trình vua. Vua ra lệnh tha cho chàng. Đức Phật nhân đó dạy là khi đã được giải thoát không nên tự trói lại: 

[Pháp Cú 344]
Người lìa ái dục, xuất gia Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu Để rồi một sớm quay đầu

Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,


Kẻ hoàn tục đáng xót xa
Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.

 Ba mươi vị Tỳ kheo đi ngang qua khám đường thấy các phạm nhân bị trói buộc bằng dây xích. Các thầy bạch hỏi Đức Phật xem có loại dây trói buộc nào bền chắc hơn những sợi xích ấy không. Đức Phật giải đáp rằng theo lời các bậc thiện trí thời lòng luyến ái vợ con gia đình, lòng tham cầu giàu sang phú quý là sợi dây ngàn lần bền chắc hơn:

 [Pháp Cú 345]
Với người trí tuệ mở mang
Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì: Dây gai, cây, sắt sá chi

Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!


Riêng lòng luyến ái khát khao
Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,
Trói này sao gỡ cho ra!

 Đức Phật dạy thêm “Trói buộc ấy thật bền chắc. Nó trì xuống, mềm mỏng, nhưng rất khó tháo gỡ. Hãy tuyệt trừ ái dục, đừng dính líu, đừng luyến tiếc”:

[Pháp Cú 346] Những người có trí nói rằng:

“Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm!”


Dây tuy mềm mại, êm đềm
Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta
Khó mà tháo gỡ cho ra
Thế nên người trí lìa xa dục tình
Cắt dây luyến ái cho nhanh
Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.

 Người tham ái bị kẹt trong lưới tham như con nhện vướng vào lưới của mình. Tuy ái dục chinh phụcràng buộc con người chặt chẽ như vậy, nhưng với con ngườiý chí, có nghị lực, vẫn có thể đối trị được dục ái đó để mà được giải thoát và không còn sầu muộn. Một bà hoàng hậu đắm say trong sắc đẹp lộng lẫy của chính bà. Một hôm bà tới viếng rừng Trúc Lâm lúc Đức Phật đang giảng Pháp. Đức Phật tạo một phương cách làm cho bà nhìn thấy một cô gái tuyệt đẹp, trẻ trung, bỗng cô dần dần trở nên già lụ khụ, cuối cùng cô chỉ còn là một túi da bọc xương. Do đó bà bừng ngộ ra rằng sắc đẹp thể chấtkhông thật, nhận thức ra tính cách vô thường tạm bợ của đời sống. Để khuyên bà, Đức Phật dạy:

 [Pháp Cú 347]
Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau Lọt vòng dây trói trước sau Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng. Ai mà dứt mọi buộc ràng

Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.

 Một vị tăng sĩ trẻ tuổi bị một thiếu phụ đem lòng thương và quyến rũ. Thầy vấn vương nên không vui với đời sống xuất gia, thân hình càng ngày càng tiều tụy. Một hôm các bạn đồng tu đem thầy đến bạch với Đức Phật. Đức Phật thuật lại một diễn biến trong kiếp sống quá khứ của thầy: “Trong dĩ vãng thầy từng là một người thiện xạ trẻ, tài ba, bắn cung rất giỏi. Một lần chàng đang chiến đấu với bọn cướp thời vợ chàng phản bội nên chàng bị giết chết. Vợ theo tên cướp đầu đảng. Kiếp này vợ chàng chính là thiếu phụ đang tìm cách quyến rũ chàng hoàn tục, muốn hại chàng thêm một lần nữa”. Rồi Đức Phật khuyên:

 [Pháp Cú 349] Người nào bị khuấy động nhiều Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương

Thường ham dục lạc vô cùng,


Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều Tự mình một sớm một chiều

Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.

 Người biết khắc phục được những tư tưởng bất thiện, biết tham thiền suy niệm về tánh cách ô trược của thể xác, luôn luôn giữ chánh niệm, đó là người sẽ dứt bỏ được lòng luyến ái đeo níu theo xác thân, chấm dứt được ái dục. Người ấy sẽ phá vỡ vòng ràng buộc của Ma vương, của những cám dỗ xúi bẩy làm chuyện không tốt lành:

[Pháp Cú 350] Ai vui vì chẳng còn vương

Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,


Xác thân bất tịnh suy tư
Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
Sẽ trừ ái dục vây quanh
Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.

 Một vị Tỳ kheo trẻ tuổi, không biết tri túc, muốn rời bỏ đời sống xuất gia, ước mơ trở về thọ lãnh chút ít tài sản của cha chết đi để lại. Vì tâm tư bị giằng co giữa hai ý định, tiếp tục tu hành hay hoàn tục, nên vị Tỳ kheo trẻ tuổi sinh ra bất mãn, mất cả sự hăng hái học tập, biếng ăn uống thành ra gầy yếu. Các bạn đồng tu thấy thế nên dẫn vị Tỳ kheo trẻ đến yết kiến Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng dục lạc không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Hạnh phúc vật chất chỉ là sự thỏa mãn của một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa đạt được nó thì nó đã vội lìa bỏ ta. Không bao giờ ta cho là đủ:

[Pháp Cú 186 - 187] Dù cho mưa xuống bạc vàng

Cũng đâu thỏa mãn lòng tham con người

Người hiền trí biết rõ thôi

Dục tình vui ít để rồi khổ thêm,


Cõi trời cao ngất từng trên
Dục tình dù có, chớ nên ham cầu, Người con Phật hiểu pháp mầu

Chỉ mong tham ái được mau diệt trừ

 Không nên hiểu lầmĐức Phật có ý phủ nhận tình cảm của con người khi theo đuổi một số lý tưởng tinh thần cao thượng. Đức Phật không khuyên chúng ta dẹp bỏ hoàn toàn tình cảm lành mạnh của con người. Ngài chỉ có ý muốn nhắc nhở chúng ta là không nên chú tâm quyến luyếngắn bó vào những thú vui vật chất. Điều làm trở ngại quan trọng nhất cho việc phát triển tâm linh chính là cái tâm ý thiết tha gắn bó, nhớ tưởng đến những vật, những việc hay những ngoại cảnh có sức tạo niềm khoái lạc và thích thú theo lòng ham muốn ích kỷ của con người mà thôi. 

Page 3

TÌM HIỂU KINH PHÁP CÚ [DHAMMAPADA] 
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương Xuất Bản - 2006

ÁI DỤC 

 Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dụclòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục:

 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta.

 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại.

 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thútài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.

 Kinh Pháp Cú chỉ rõ cho thấy ái dục là nguồn gốc của mọi sự đau khổ trong đời, là sức mạnh thúc đẩy con người tìm sự thỏa mãn lòng ham muốn ích kỷ bằng mọi cách, ngay cả bằng sự thiệt hại hoặc đau khổ của người khác. Ái dụccạm bẫy nguy hiểm nhất, vì khi được toại nguyện thời nó đem lại cảm giác thỏa mãn cho con người và do đó lòng ái dục của con người cứ tăng thêm mãi. Đức Phật nhận định rằng những điều mà người thế gian gọi là sung sướng, hạnh phúc thời chỉ được xây dựng mong manh trên một số điều kiện. Khi những điều kiện ấy đầy đủ thì người đời gọi là được sung sướng, có hạnh phúc. Nhưng với hạnh phúc họ đang có trong tay họ cũng không cảm thấy được thoả mãn trọn vẹnvĩnh viễn. Nguyên do là vì lòng dạ con người vốn thay đổi và lúc nào cũng muốn được thêm, thêm mãi. Khi chưa đạt được tất cả những điều họ ước ao thì họ có cảm tưởng là vẫn còn thiếu thốn, và lòng họ băn khoăn, day dứt, mong cầu. Hạnh phúc thật sự không cần thiết phải có liên hệ đến điều kiện vật chất bên ngoài, mà hoàn toàn tùy thuộc vào nội tâm của con người. Tất cả giáo lý của Đạo Phật đều quy tụ vào một điểm thực tế là muốn tìm an lạc vĩnh cửu, con người cần phải biết làm cách nào để thắng được lòng ái dục

 Một khi đã nói đến ái, nhất là ái dục, thời đây là cả một đề tài muôn điệu. Đã là con người, thật khó mà thoát ly được ái dục.Vì vậy ta không gì lạ khi thấy Đức Phật đã dành nhiều câu khuyên dạy về ái dục. Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy: 

[Pháp Cú 359] Cỏ hoang làm hại ruộng vườn

Ái dục gây hại nhiều hơn cho người,


Ai lìa ái dục được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.

 Một nữ thí chủ rất nổi tiếng, có đứa cháu thân yêu vừa qua đời. Bà thương tiếc và khóc lóc thảm thiết. Khi bà đến chùa, Đức Phật an ủi bà và dạy rằng: “Mỗi ngày có biết bao nhiêu người chết. Nếu bà xem mỗi người đã qua đời là một người thân mà bà than khóc như thương tiếc một đứa cháu bà thì có lẽ chẳng có lúc nào mà bà ngưng chảy nước mắt. Ưu sầusợ hãi sinh ra do sự quá luyến ái, quá trìu mến đó”. Người dứt được say đắm trong tình cảm sẽ không bị ràng buộc và khỏi lo phiền:

 [Pháp Cú 213]
Khởi từ luyến ái sinh ra
Chứa chan hãi sợ, chan hòa lo âu
Mến thương, luyến ái lìa mau
Chẳng còn lo sợ, ưu sầu tiêu tan.

 Để giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang giành nhau nước dưới con sông làm ranh giới Đức Phật dạy không nên tham ái và nên diệt trừ dục vọng:

[Pháp Cú 199]
Ở ngay giữa đám nhân sinh
Mặc người tham ái, nếu mình thảnh thơi
Sống không dục vọng như người
Thật là sung sướng, cuộc đời thơm hương.

 Khi nhắc đến một vị Tỳ kheo vô lễ, mặc dầu thông suốt giáo pháp nhưng lòng còn chứa đầy ái dụcngã mạn. Ỷ mình có sức học cao nên thầy luôn khinh rẻ các vị khác. Tuy có công chỉ dạy giáo lý cho các Tỳ kheo khác nhưng thái độ khinh mạn của thầy đã gây nhiều khó khăn trong việc truyền bá chánh pháp. Vì tội ác này thầy phải sa vào địa ngục, khi mãn hạn thầy chỉ được tái sinh thành con cá vàng, tuy có thân hình đẹp đẽ nhưng miệng lại thở ra mùi hôi thối. Đức Phật dạy rằng nếu không kiềm chế thời ái dục sẽ tăng mãi:

[Pháp Cú 334]
Sống đời say đắm buông lung
Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh Giống như giữa chốn rừng xanh

Dây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,


Đời người tiếp nối miên man Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng

Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.

 Người nuôi dưỡng ái dục thời sầu muộn mãi gia tăng. Trái lại người dập tắt ái dục thời sầu muộn không còn: 

[Pháp Cú 335]
Nếu mà ở cõi trần gian
Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh
Thời bao sầu khổ tăng nhanh Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.

[Pháp Cú 336]


Đời này nếu bản thân ta
Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng
Thời bao sầu khổ lìa tan
Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.

 Hãy dập tắt ái dục từ gốc rễ như là nhổ rễ cỏ hoang. Đức Phật dạy bao giờ còn ái dục là còn đau khổ:

 [Pháp Cú 337]
Điều Như Lai dạy các ngươi: “Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này Nhổ cho sạch gốc rễ ngay

Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn

Như là nhổ rễ cỏ hoang

Chớ nên để lũ Ma quân dục tình


Quẩn quanh phá hoại tâm mình
Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau”.

 Trong lúc đi dài theo đường, Đức Phật trông thấy một con heo nái. Ngài thuật lại rằng trong những kiếp quá khứ của nó, con heo từng là một chị gà thường đứng bên hông chùa nghe giảng kinh nên được tái sinh làm một nàng công chúa. Một hôm công chúa quán tưởng đến tấm thân vô thường nên phát tâm tu hành, mãn đời được sinh lên cõi trời. Hưởng hết phước, vì nghiệp báo ở những tiền kiếp nên lại tái sinh dưới hình dạng con heo nái này. Ngài dạy rằng gốc ái dục mà nhổ chưa hết rễ thời tâm còn bị ràng buộc, còn chịu đau khổ dây dưa, sầu muộn còn phát sinh trở đi trở lại triền miên:

[Pháp Cú 338]  Đốn cây mà chẳng chịu đào Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu Thì cây lại mọc ra mau,

Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây

Đoạn cho căn gốc sạch ngay

Nếu không khổ não mãi quay trở về.

 Ái dục nhận chìm người tham ái. Nếu bên trong kẻ nào ba mươi sáu dòng ái dục còn tuôn chảy mạnh mẽ, tâm tham ái sẽ cuồn cuộn lôi cuốn kẻ si mê ấy đi như một luồng thác lũ:

[Pháp Cú 339]
Người ham ái dục luôn luôn Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.

Những người ái dục dâng tràn trong tâm


Bị dòng ái dục cuốn phăng.

 Hãy dùng trí tuệ để dập tắt ái dục. Dòng ái dục tràn ngập khắp nơi như dây leo dại. Loài dây leo ái dục đâm chồi và bám vững . Hãy dùng trí tuệ bứng tận gốc rễ:

[Pháp Cú 340]
Dòng sông ái dục dâng tràn Như dây leo dại mọc lan khắp miền, Thấy dây leo mới nhô lên

Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau


Diệt trừ tận gốc thật sâu.

 Luyến ái dục lạc dẫn đến sinh hoại, khó thoát khỏi trầm luân. Tưởng lầm rằng đó là hạnh phúc nên mãi quẩn quanh trong sinh tử luân hồi

[Pháp Cú 341]
Người đời ái dục thích ham Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô Ngụp chìm biển dục vô bờ

Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công


Vẫn còn trong chốn trầm luân
Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.

 Bị ái dục ràng buộc sẽ đi đến sầu muộn và chịu đau khổ triền miên lâu dài. Kinh hoàng như thỏ nằm trong lưới bẫy, bị trói buộc và siết chặt:

[Pháp Cú 342]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Não phiền, ái dục chẳng lìa cho mau


Khổ đau càng chịu dài lâu.

 Người chìm đắm trong ái dục khác nào sống trong lưới bẫy của mọi sự ô nhiễm. Đức Phật nhấn mạnh rằng người tu hànhý nguyện thành đạt trạng thái không dục vọng phải xa lìa ái dục để sống trong sạch:

[Pháp Cú 343]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau


Niết Bàn giải thoát xa đâu. 

 Một chàng thanh niên có niềm tin vững chắc, xuất gia thành Tỳ kheo. Một hôm trong khi đi khất thực tại nhà người chú làm thợ vàng, thấy nhiều đồ trang sức đẹp mắt chàng sinh lòng tham luyến, bị dục lạc quyến rũ, chàng hoàn tục. Sau kết bạn với bọn cướp. Bị bắt và bị đưa ra hành hình. Trên đường đi chàng gặp lại thầy cũ của mình. Thầy khuyên chàng nên thiền định ngay. Chàng nghe lời. Gương mặt trở nên bình thản, đắc đạo quả. Không lo sợ bị tử hình. Đao phủ ngạc nhiên trình vua. Vua ra lệnh tha cho chàng. Đức Phật nhân đó dạy là khi đã được giải thoát không nên tự trói lại: 

[Pháp Cú 344]
Người lìa ái dục, xuất gia Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu Để rồi một sớm quay đầu

Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,


Kẻ hoàn tục đáng xót xa
Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.

 Ba mươi vị Tỳ kheo đi ngang qua khám đường thấy các phạm nhân bị trói buộc bằng dây xích. Các thầy bạch hỏi Đức Phật xem có loại dây trói buộc nào bền chắc hơn những sợi xích ấy không. Đức Phật giải đáp rằng theo lời các bậc thiện trí thời lòng luyến ái vợ con gia đình, lòng tham cầu giàu sang phú quý là sợi dây ngàn lần bền chắc hơn:

 [Pháp Cú 345]
Với người trí tuệ mở mang
Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì: Dây gai, cây, sắt sá chi

Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!


Riêng lòng luyến ái khát khao
Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,
Trói này sao gỡ cho ra!

 Đức Phật dạy thêm “Trói buộc ấy thật bền chắc. Nó trì xuống, mềm mỏng, nhưng rất khó tháo gỡ. Hãy tuyệt trừ ái dục, đừng dính líu, đừng luyến tiếc”:

[Pháp Cú 346] Những người có trí nói rằng:

“Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm!”


Dây tuy mềm mại, êm đềm
Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta
Khó mà tháo gỡ cho ra
Thế nên người trí lìa xa dục tình
Cắt dây luyến ái cho nhanh
Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.

 Người tham ái bị kẹt trong lưới tham như con nhện vướng vào lưới của mình. Tuy ái dục chinh phụcràng buộc con người chặt chẽ như vậy, nhưng với con ngườiý chí, có nghị lực, vẫn có thể đối trị được dục ái đó để mà được giải thoát và không còn sầu muộn. Một bà hoàng hậu đắm say trong sắc đẹp lộng lẫy của chính bà. Một hôm bà tới viếng rừng Trúc Lâm lúc Đức Phật đang giảng Pháp. Đức Phật tạo một phương cách làm cho bà nhìn thấy một cô gái tuyệt đẹp, trẻ trung, bỗng cô dần dần trở nên già lụ khụ, cuối cùng cô chỉ còn là một túi da bọc xương. Do đó bà bừng ngộ ra rằng sắc đẹp thể chấtkhông thật, nhận thức ra tính cách vô thường tạm bợ của đời sống. Để khuyên bà, Đức Phật dạy:

 [Pháp Cú 347]
Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau Lọt vòng dây trói trước sau Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng. Ai mà dứt mọi buộc ràng

Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.

 Một vị tăng sĩ trẻ tuổi bị một thiếu phụ đem lòng thương và quyến rũ. Thầy vấn vương nên không vui với đời sống xuất gia, thân hình càng ngày càng tiều tụy. Một hôm các bạn đồng tu đem thầy đến bạch với Đức Phật. Đức Phật thuật lại một diễn biến trong kiếp sống quá khứ của thầy: “Trong dĩ vãng thầy từng là một người thiện xạ trẻ, tài ba, bắn cung rất giỏi. Một lần chàng đang chiến đấu với bọn cướp thời vợ chàng phản bội nên chàng bị giết chết. Vợ theo tên cướp đầu đảng. Kiếp này vợ chàng chính là thiếu phụ đang tìm cách quyến rũ chàng hoàn tục, muốn hại chàng thêm một lần nữa”. Rồi Đức Phật khuyên:

 [Pháp Cú 349] Người nào bị khuấy động nhiều Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương

Thường ham dục lạc vô cùng,


Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều Tự mình một sớm một chiều

Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.

 Người biết khắc phục được những tư tưởng bất thiện, biết tham thiền suy niệm về tánh cách ô trược của thể xác, luôn luôn giữ chánh niệm, đó là người sẽ dứt bỏ được lòng luyến ái đeo níu theo xác thân, chấm dứt được ái dục. Người ấy sẽ phá vỡ vòng ràng buộc của Ma vương, của những cám dỗ xúi bẩy làm chuyện không tốt lành:

[Pháp Cú 350] Ai vui vì chẳng còn vương

Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,


Xác thân bất tịnh suy tư
Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
Sẽ trừ ái dục vây quanh
Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.

 Một vị Tỳ kheo trẻ tuổi, không biết tri túc, muốn rời bỏ đời sống xuất gia, ước mơ trở về thọ lãnh chút ít tài sản của cha chết đi để lại. Vì tâm tư bị giằng co giữa hai ý định, tiếp tục tu hành hay hoàn tục, nên vị Tỳ kheo trẻ tuổi sinh ra bất mãn, mất cả sự hăng hái học tập, biếng ăn uống thành ra gầy yếu. Các bạn đồng tu thấy thế nên dẫn vị Tỳ kheo trẻ đến yết kiến Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng dục lạc không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Hạnh phúc vật chất chỉ là sự thỏa mãn của một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa đạt được nó thì nó đã vội lìa bỏ ta. Không bao giờ ta cho là đủ:

[Pháp Cú 186 - 187] Dù cho mưa xuống bạc vàng

Cũng đâu thỏa mãn lòng tham con người

Người hiền trí biết rõ thôi

Dục tình vui ít để rồi khổ thêm,


Cõi trời cao ngất từng trên
Dục tình dù có, chớ nên ham cầu, Người con Phật hiểu pháp mầu

Chỉ mong tham ái được mau diệt trừ

 Không nên hiểu lầmĐức Phật có ý phủ nhận tình cảm của con người khi theo đuổi một số lý tưởng tinh thần cao thượng. Đức Phật không khuyên chúng ta dẹp bỏ hoàn toàn tình cảm lành mạnh của con người. Ngài chỉ có ý muốn nhắc nhở chúng ta là không nên chú tâm quyến luyếngắn bó vào những thú vui vật chất. Điều làm trở ngại quan trọng nhất cho việc phát triển tâm linh chính là cái tâm ý thiết tha gắn bó, nhớ tưởng đến những vật, những việc hay những ngoại cảnh có sức tạo niềm khoái lạc và thích thú theo lòng ham muốn ích kỷ của con người mà thôi. 

Page 4

TÌM HIỂU KINH PHÁP CÚ [DHAMMAPADA] 
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương Xuất Bản - 2006

ÁI DỤC 

 Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dụclòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục:

 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta.

 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại.

 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thútài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.

 Kinh Pháp Cú chỉ rõ cho thấy ái dục là nguồn gốc của mọi sự đau khổ trong đời, là sức mạnh thúc đẩy con người tìm sự thỏa mãn lòng ham muốn ích kỷ bằng mọi cách, ngay cả bằng sự thiệt hại hoặc đau khổ của người khác. Ái dụccạm bẫy nguy hiểm nhất, vì khi được toại nguyện thời nó đem lại cảm giác thỏa mãn cho con người và do đó lòng ái dục của con người cứ tăng thêm mãi. Đức Phật nhận định rằng những điều mà người thế gian gọi là sung sướng, hạnh phúc thời chỉ được xây dựng mong manh trên một số điều kiện. Khi những điều kiện ấy đầy đủ thì người đời gọi là được sung sướng, có hạnh phúc. Nhưng với hạnh phúc họ đang có trong tay họ cũng không cảm thấy được thoả mãn trọn vẹnvĩnh viễn. Nguyên do là vì lòng dạ con người vốn thay đổi và lúc nào cũng muốn được thêm, thêm mãi. Khi chưa đạt được tất cả những điều họ ước ao thì họ có cảm tưởng là vẫn còn thiếu thốn, và lòng họ băn khoăn, day dứt, mong cầu. Hạnh phúc thật sự không cần thiết phải có liên hệ đến điều kiện vật chất bên ngoài, mà hoàn toàn tùy thuộc vào nội tâm của con người. Tất cả giáo lý của Đạo Phật đều quy tụ vào một điểm thực tế là muốn tìm an lạc vĩnh cửu, con người cần phải biết làm cách nào để thắng được lòng ái dục

 Một khi đã nói đến ái, nhất là ái dục, thời đây là cả một đề tài muôn điệu. Đã là con người, thật khó mà thoát ly được ái dục.Vì vậy ta không gì lạ khi thấy Đức Phật đã dành nhiều câu khuyên dạy về ái dục. Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy: 

[Pháp Cú 359] Cỏ hoang làm hại ruộng vườn

Ái dục gây hại nhiều hơn cho người,


Ai lìa ái dục được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.

 Một nữ thí chủ rất nổi tiếng, có đứa cháu thân yêu vừa qua đời. Bà thương tiếc và khóc lóc thảm thiết. Khi bà đến chùa, Đức Phật an ủi bà và dạy rằng: “Mỗi ngày có biết bao nhiêu người chết. Nếu bà xem mỗi người đã qua đời là một người thân mà bà than khóc như thương tiếc một đứa cháu bà thì có lẽ chẳng có lúc nào mà bà ngưng chảy nước mắt. Ưu sầusợ hãi sinh ra do sự quá luyến ái, quá trìu mến đó”. Người dứt được say đắm trong tình cảm sẽ không bị ràng buộc và khỏi lo phiền:

 [Pháp Cú 213]
Khởi từ luyến ái sinh ra
Chứa chan hãi sợ, chan hòa lo âu
Mến thương, luyến ái lìa mau
Chẳng còn lo sợ, ưu sầu tiêu tan.

 Để giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang giành nhau nước dưới con sông làm ranh giới Đức Phật dạy không nên tham ái và nên diệt trừ dục vọng:

[Pháp Cú 199]
Ở ngay giữa đám nhân sinh
Mặc người tham ái, nếu mình thảnh thơi
Sống không dục vọng như người
Thật là sung sướng, cuộc đời thơm hương.

 Khi nhắc đến một vị Tỳ kheo vô lễ, mặc dầu thông suốt giáo pháp nhưng lòng còn chứa đầy ái dụcngã mạn. Ỷ mình có sức học cao nên thầy luôn khinh rẻ các vị khác. Tuy có công chỉ dạy giáo lý cho các Tỳ kheo khác nhưng thái độ khinh mạn của thầy đã gây nhiều khó khăn trong việc truyền bá chánh pháp. Vì tội ác này thầy phải sa vào địa ngục, khi mãn hạn thầy chỉ được tái sinh thành con cá vàng, tuy có thân hình đẹp đẽ nhưng miệng lại thở ra mùi hôi thối. Đức Phật dạy rằng nếu không kiềm chế thời ái dục sẽ tăng mãi:

[Pháp Cú 334]
Sống đời say đắm buông lung
Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh Giống như giữa chốn rừng xanh

Dây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,


Đời người tiếp nối miên man Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng

Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.

 Người nuôi dưỡng ái dục thời sầu muộn mãi gia tăng. Trái lại người dập tắt ái dục thời sầu muộn không còn: 

[Pháp Cú 335]
Nếu mà ở cõi trần gian
Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh
Thời bao sầu khổ tăng nhanh Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.

[Pháp Cú 336]


Đời này nếu bản thân ta
Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng
Thời bao sầu khổ lìa tan
Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.

 Hãy dập tắt ái dục từ gốc rễ như là nhổ rễ cỏ hoang. Đức Phật dạy bao giờ còn ái dục là còn đau khổ:

 [Pháp Cú 337]
Điều Như Lai dạy các ngươi: “Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này Nhổ cho sạch gốc rễ ngay

Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn

Như là nhổ rễ cỏ hoang

Chớ nên để lũ Ma quân dục tình


Quẩn quanh phá hoại tâm mình
Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau”.

 Trong lúc đi dài theo đường, Đức Phật trông thấy một con heo nái. Ngài thuật lại rằng trong những kiếp quá khứ của nó, con heo từng là một chị gà thường đứng bên hông chùa nghe giảng kinh nên được tái sinh làm một nàng công chúa. Một hôm công chúa quán tưởng đến tấm thân vô thường nên phát tâm tu hành, mãn đời được sinh lên cõi trời. Hưởng hết phước, vì nghiệp báo ở những tiền kiếp nên lại tái sinh dưới hình dạng con heo nái này. Ngài dạy rằng gốc ái dục mà nhổ chưa hết rễ thời tâm còn bị ràng buộc, còn chịu đau khổ dây dưa, sầu muộn còn phát sinh trở đi trở lại triền miên:

[Pháp Cú 338]  Đốn cây mà chẳng chịu đào Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu Thì cây lại mọc ra mau,

Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây

Đoạn cho căn gốc sạch ngay

Nếu không khổ não mãi quay trở về.

 Ái dục nhận chìm người tham ái. Nếu bên trong kẻ nào ba mươi sáu dòng ái dục còn tuôn chảy mạnh mẽ, tâm tham ái sẽ cuồn cuộn lôi cuốn kẻ si mê ấy đi như một luồng thác lũ:

[Pháp Cú 339]
Người ham ái dục luôn luôn Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.

Những người ái dục dâng tràn trong tâm


Bị dòng ái dục cuốn phăng.

 Hãy dùng trí tuệ để dập tắt ái dục. Dòng ái dục tràn ngập khắp nơi như dây leo dại. Loài dây leo ái dục đâm chồi và bám vững . Hãy dùng trí tuệ bứng tận gốc rễ:

[Pháp Cú 340]
Dòng sông ái dục dâng tràn Như dây leo dại mọc lan khắp miền, Thấy dây leo mới nhô lên

Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau


Diệt trừ tận gốc thật sâu.

 Luyến ái dục lạc dẫn đến sinh hoại, khó thoát khỏi trầm luân. Tưởng lầm rằng đó là hạnh phúc nên mãi quẩn quanh trong sinh tử luân hồi

[Pháp Cú 341]
Người đời ái dục thích ham Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô Ngụp chìm biển dục vô bờ

Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công


Vẫn còn trong chốn trầm luân
Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.

 Bị ái dục ràng buộc sẽ đi đến sầu muộn và chịu đau khổ triền miên lâu dài. Kinh hoàng như thỏ nằm trong lưới bẫy, bị trói buộc và siết chặt:

[Pháp Cú 342]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Não phiền, ái dục chẳng lìa cho mau


Khổ đau càng chịu dài lâu.

 Người chìm đắm trong ái dục khác nào sống trong lưới bẫy của mọi sự ô nhiễm. Đức Phật nhấn mạnh rằng người tu hànhý nguyện thành đạt trạng thái không dục vọng phải xa lìa ái dục để sống trong sạch:

[Pháp Cú 343]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau


Niết Bàn giải thoát xa đâu. 

 Một chàng thanh niên có niềm tin vững chắc, xuất gia thành Tỳ kheo. Một hôm trong khi đi khất thực tại nhà người chú làm thợ vàng, thấy nhiều đồ trang sức đẹp mắt chàng sinh lòng tham luyến, bị dục lạc quyến rũ, chàng hoàn tục. Sau kết bạn với bọn cướp. Bị bắt và bị đưa ra hành hình. Trên đường đi chàng gặp lại thầy cũ của mình. Thầy khuyên chàng nên thiền định ngay. Chàng nghe lời. Gương mặt trở nên bình thản, đắc đạo quả. Không lo sợ bị tử hình. Đao phủ ngạc nhiên trình vua. Vua ra lệnh tha cho chàng. Đức Phật nhân đó dạy là khi đã được giải thoát không nên tự trói lại: 

[Pháp Cú 344]
Người lìa ái dục, xuất gia Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu Để rồi một sớm quay đầu

Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,


Kẻ hoàn tục đáng xót xa
Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.

 Ba mươi vị Tỳ kheo đi ngang qua khám đường thấy các phạm nhân bị trói buộc bằng dây xích. Các thầy bạch hỏi Đức Phật xem có loại dây trói buộc nào bền chắc hơn những sợi xích ấy không. Đức Phật giải đáp rằng theo lời các bậc thiện trí thời lòng luyến ái vợ con gia đình, lòng tham cầu giàu sang phú quý là sợi dây ngàn lần bền chắc hơn:

 [Pháp Cú 345]
Với người trí tuệ mở mang
Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì: Dây gai, cây, sắt sá chi

Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!


Riêng lòng luyến ái khát khao
Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,
Trói này sao gỡ cho ra!

 Đức Phật dạy thêm “Trói buộc ấy thật bền chắc. Nó trì xuống, mềm mỏng, nhưng rất khó tháo gỡ. Hãy tuyệt trừ ái dục, đừng dính líu, đừng luyến tiếc”:

[Pháp Cú 346] Những người có trí nói rằng:

“Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm!”


Dây tuy mềm mại, êm đềm
Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta
Khó mà tháo gỡ cho ra
Thế nên người trí lìa xa dục tình
Cắt dây luyến ái cho nhanh
Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.

 Người tham ái bị kẹt trong lưới tham như con nhện vướng vào lưới của mình. Tuy ái dục chinh phụcràng buộc con người chặt chẽ như vậy, nhưng với con ngườiý chí, có nghị lực, vẫn có thể đối trị được dục ái đó để mà được giải thoát và không còn sầu muộn. Một bà hoàng hậu đắm say trong sắc đẹp lộng lẫy của chính bà. Một hôm bà tới viếng rừng Trúc Lâm lúc Đức Phật đang giảng Pháp. Đức Phật tạo một phương cách làm cho bà nhìn thấy một cô gái tuyệt đẹp, trẻ trung, bỗng cô dần dần trở nên già lụ khụ, cuối cùng cô chỉ còn là một túi da bọc xương. Do đó bà bừng ngộ ra rằng sắc đẹp thể chấtkhông thật, nhận thức ra tính cách vô thường tạm bợ của đời sống. Để khuyên bà, Đức Phật dạy:

 [Pháp Cú 347]
Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau Lọt vòng dây trói trước sau Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng. Ai mà dứt mọi buộc ràng

Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.

 Một vị tăng sĩ trẻ tuổi bị một thiếu phụ đem lòng thương và quyến rũ. Thầy vấn vương nên không vui với đời sống xuất gia, thân hình càng ngày càng tiều tụy. Một hôm các bạn đồng tu đem thầy đến bạch với Đức Phật. Đức Phật thuật lại một diễn biến trong kiếp sống quá khứ của thầy: “Trong dĩ vãng thầy từng là một người thiện xạ trẻ, tài ba, bắn cung rất giỏi. Một lần chàng đang chiến đấu với bọn cướp thời vợ chàng phản bội nên chàng bị giết chết. Vợ theo tên cướp đầu đảng. Kiếp này vợ chàng chính là thiếu phụ đang tìm cách quyến rũ chàng hoàn tục, muốn hại chàng thêm một lần nữa”. Rồi Đức Phật khuyên:

 [Pháp Cú 349] Người nào bị khuấy động nhiều Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương

Thường ham dục lạc vô cùng,


Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều Tự mình một sớm một chiều

Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.

 Người biết khắc phục được những tư tưởng bất thiện, biết tham thiền suy niệm về tánh cách ô trược của thể xác, luôn luôn giữ chánh niệm, đó là người sẽ dứt bỏ được lòng luyến ái đeo níu theo xác thân, chấm dứt được ái dục. Người ấy sẽ phá vỡ vòng ràng buộc của Ma vương, của những cám dỗ xúi bẩy làm chuyện không tốt lành:

[Pháp Cú 350] Ai vui vì chẳng còn vương

Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,


Xác thân bất tịnh suy tư
Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
Sẽ trừ ái dục vây quanh
Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.

 Một vị Tỳ kheo trẻ tuổi, không biết tri túc, muốn rời bỏ đời sống xuất gia, ước mơ trở về thọ lãnh chút ít tài sản của cha chết đi để lại. Vì tâm tư bị giằng co giữa hai ý định, tiếp tục tu hành hay hoàn tục, nên vị Tỳ kheo trẻ tuổi sinh ra bất mãn, mất cả sự hăng hái học tập, biếng ăn uống thành ra gầy yếu. Các bạn đồng tu thấy thế nên dẫn vị Tỳ kheo trẻ đến yết kiến Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng dục lạc không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Hạnh phúc vật chất chỉ là sự thỏa mãn của một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa đạt được nó thì nó đã vội lìa bỏ ta. Không bao giờ ta cho là đủ:

[Pháp Cú 186 - 187] Dù cho mưa xuống bạc vàng

Cũng đâu thỏa mãn lòng tham con người

Người hiền trí biết rõ thôi

Dục tình vui ít để rồi khổ thêm,


Cõi trời cao ngất từng trên
Dục tình dù có, chớ nên ham cầu, Người con Phật hiểu pháp mầu

Chỉ mong tham ái được mau diệt trừ

 Không nên hiểu lầmĐức Phật có ý phủ nhận tình cảm của con người khi theo đuổi một số lý tưởng tinh thần cao thượng. Đức Phật không khuyên chúng ta dẹp bỏ hoàn toàn tình cảm lành mạnh của con người. Ngài chỉ có ý muốn nhắc nhở chúng ta là không nên chú tâm quyến luyếngắn bó vào những thú vui vật chất. Điều làm trở ngại quan trọng nhất cho việc phát triển tâm linh chính là cái tâm ý thiết tha gắn bó, nhớ tưởng đến những vật, những việc hay những ngoại cảnh có sức tạo niềm khoái lạc và thích thú theo lòng ham muốn ích kỷ của con người mà thôi. 

Page 5

TÌM HIỂU KINH PHÁP CÚ [DHAMMAPADA] 
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương Xuất Bản - 2006

ÁI DỤC 

 Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dụclòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục:

 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta.

 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại.

 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thútài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.

 Kinh Pháp Cú chỉ rõ cho thấy ái dục là nguồn gốc của mọi sự đau khổ trong đời, là sức mạnh thúc đẩy con người tìm sự thỏa mãn lòng ham muốn ích kỷ bằng mọi cách, ngay cả bằng sự thiệt hại hoặc đau khổ của người khác. Ái dụccạm bẫy nguy hiểm nhất, vì khi được toại nguyện thời nó đem lại cảm giác thỏa mãn cho con người và do đó lòng ái dục của con người cứ tăng thêm mãi. Đức Phật nhận định rằng những điều mà người thế gian gọi là sung sướng, hạnh phúc thời chỉ được xây dựng mong manh trên một số điều kiện. Khi những điều kiện ấy đầy đủ thì người đời gọi là được sung sướng, có hạnh phúc. Nhưng với hạnh phúc họ đang có trong tay họ cũng không cảm thấy được thoả mãn trọn vẹnvĩnh viễn. Nguyên do là vì lòng dạ con người vốn thay đổi và lúc nào cũng muốn được thêm, thêm mãi. Khi chưa đạt được tất cả những điều họ ước ao thì họ có cảm tưởng là vẫn còn thiếu thốn, và lòng họ băn khoăn, day dứt, mong cầu. Hạnh phúc thật sự không cần thiết phải có liên hệ đến điều kiện vật chất bên ngoài, mà hoàn toàn tùy thuộc vào nội tâm của con người. Tất cả giáo lý của Đạo Phật đều quy tụ vào một điểm thực tế là muốn tìm an lạc vĩnh cửu, con người cần phải biết làm cách nào để thắng được lòng ái dục

 Một khi đã nói đến ái, nhất là ái dục, thời đây là cả một đề tài muôn điệu. Đã là con người, thật khó mà thoát ly được ái dục.Vì vậy ta không gì lạ khi thấy Đức Phật đã dành nhiều câu khuyên dạy về ái dục. Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy: 

[Pháp Cú 359] Cỏ hoang làm hại ruộng vườn

Ái dục gây hại nhiều hơn cho người,


Ai lìa ái dục được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.

 Một nữ thí chủ rất nổi tiếng, có đứa cháu thân yêu vừa qua đời. Bà thương tiếc và khóc lóc thảm thiết. Khi bà đến chùa, Đức Phật an ủi bà và dạy rằng: “Mỗi ngày có biết bao nhiêu người chết. Nếu bà xem mỗi người đã qua đời là một người thân mà bà than khóc như thương tiếc một đứa cháu bà thì có lẽ chẳng có lúc nào mà bà ngưng chảy nước mắt. Ưu sầusợ hãi sinh ra do sự quá luyến ái, quá trìu mến đó”. Người dứt được say đắm trong tình cảm sẽ không bị ràng buộc và khỏi lo phiền:

 [Pháp Cú 213]
Khởi từ luyến ái sinh ra
Chứa chan hãi sợ, chan hòa lo âu
Mến thương, luyến ái lìa mau
Chẳng còn lo sợ, ưu sầu tiêu tan.

 Để giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang giành nhau nước dưới con sông làm ranh giới Đức Phật dạy không nên tham ái và nên diệt trừ dục vọng:

[Pháp Cú 199]
Ở ngay giữa đám nhân sinh
Mặc người tham ái, nếu mình thảnh thơi
Sống không dục vọng như người
Thật là sung sướng, cuộc đời thơm hương.

 Khi nhắc đến một vị Tỳ kheo vô lễ, mặc dầu thông suốt giáo pháp nhưng lòng còn chứa đầy ái dụcngã mạn. Ỷ mình có sức học cao nên thầy luôn khinh rẻ các vị khác. Tuy có công chỉ dạy giáo lý cho các Tỳ kheo khác nhưng thái độ khinh mạn của thầy đã gây nhiều khó khăn trong việc truyền bá chánh pháp. Vì tội ác này thầy phải sa vào địa ngục, khi mãn hạn thầy chỉ được tái sinh thành con cá vàng, tuy có thân hình đẹp đẽ nhưng miệng lại thở ra mùi hôi thối. Đức Phật dạy rằng nếu không kiềm chế thời ái dục sẽ tăng mãi:

[Pháp Cú 334]
Sống đời say đắm buông lung
Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh Giống như giữa chốn rừng xanh

Dây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,


Đời người tiếp nối miên man Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng

Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.

 Người nuôi dưỡng ái dục thời sầu muộn mãi gia tăng. Trái lại người dập tắt ái dục thời sầu muộn không còn: 

[Pháp Cú 335]
Nếu mà ở cõi trần gian
Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh
Thời bao sầu khổ tăng nhanh Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.

[Pháp Cú 336]


Đời này nếu bản thân ta
Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng
Thời bao sầu khổ lìa tan
Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.

 Hãy dập tắt ái dục từ gốc rễ như là nhổ rễ cỏ hoang. Đức Phật dạy bao giờ còn ái dục là còn đau khổ:

 [Pháp Cú 337]
Điều Như Lai dạy các ngươi: “Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này Nhổ cho sạch gốc rễ ngay

Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn

Như là nhổ rễ cỏ hoang

Chớ nên để lũ Ma quân dục tình


Quẩn quanh phá hoại tâm mình
Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau”.

 Trong lúc đi dài theo đường, Đức Phật trông thấy một con heo nái. Ngài thuật lại rằng trong những kiếp quá khứ của nó, con heo từng là một chị gà thường đứng bên hông chùa nghe giảng kinh nên được tái sinh làm một nàng công chúa. Một hôm công chúa quán tưởng đến tấm thân vô thường nên phát tâm tu hành, mãn đời được sinh lên cõi trời. Hưởng hết phước, vì nghiệp báo ở những tiền kiếp nên lại tái sinh dưới hình dạng con heo nái này. Ngài dạy rằng gốc ái dục mà nhổ chưa hết rễ thời tâm còn bị ràng buộc, còn chịu đau khổ dây dưa, sầu muộn còn phát sinh trở đi trở lại triền miên:

[Pháp Cú 338]  Đốn cây mà chẳng chịu đào Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu Thì cây lại mọc ra mau,

Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây

Đoạn cho căn gốc sạch ngay

Nếu không khổ não mãi quay trở về.

 Ái dục nhận chìm người tham ái. Nếu bên trong kẻ nào ba mươi sáu dòng ái dục còn tuôn chảy mạnh mẽ, tâm tham ái sẽ cuồn cuộn lôi cuốn kẻ si mê ấy đi như một luồng thác lũ:

[Pháp Cú 339]
Người ham ái dục luôn luôn Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.

Những người ái dục dâng tràn trong tâm


Bị dòng ái dục cuốn phăng.

 Hãy dùng trí tuệ để dập tắt ái dục. Dòng ái dục tràn ngập khắp nơi như dây leo dại. Loài dây leo ái dục đâm chồi và bám vững . Hãy dùng trí tuệ bứng tận gốc rễ:

[Pháp Cú 340]
Dòng sông ái dục dâng tràn Như dây leo dại mọc lan khắp miền, Thấy dây leo mới nhô lên

Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau


Diệt trừ tận gốc thật sâu.

 Luyến ái dục lạc dẫn đến sinh hoại, khó thoát khỏi trầm luân. Tưởng lầm rằng đó là hạnh phúc nên mãi quẩn quanh trong sinh tử luân hồi

[Pháp Cú 341]
Người đời ái dục thích ham Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô Ngụp chìm biển dục vô bờ

Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công


Vẫn còn trong chốn trầm luân
Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.

 Bị ái dục ràng buộc sẽ đi đến sầu muộn và chịu đau khổ triền miên lâu dài. Kinh hoàng như thỏ nằm trong lưới bẫy, bị trói buộc và siết chặt:

[Pháp Cú 342]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Não phiền, ái dục chẳng lìa cho mau


Khổ đau càng chịu dài lâu.

 Người chìm đắm trong ái dục khác nào sống trong lưới bẫy của mọi sự ô nhiễm. Đức Phật nhấn mạnh rằng người tu hànhý nguyện thành đạt trạng thái không dục vọng phải xa lìa ái dục để sống trong sạch:

[Pháp Cú 343]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau


Niết Bàn giải thoát xa đâu. 

 Một chàng thanh niên có niềm tin vững chắc, xuất gia thành Tỳ kheo. Một hôm trong khi đi khất thực tại nhà người chú làm thợ vàng, thấy nhiều đồ trang sức đẹp mắt chàng sinh lòng tham luyến, bị dục lạc quyến rũ, chàng hoàn tục. Sau kết bạn với bọn cướp. Bị bắt và bị đưa ra hành hình. Trên đường đi chàng gặp lại thầy cũ của mình. Thầy khuyên chàng nên thiền định ngay. Chàng nghe lời. Gương mặt trở nên bình thản, đắc đạo quả. Không lo sợ bị tử hình. Đao phủ ngạc nhiên trình vua. Vua ra lệnh tha cho chàng. Đức Phật nhân đó dạy là khi đã được giải thoát không nên tự trói lại: 

[Pháp Cú 344]
Người lìa ái dục, xuất gia Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu Để rồi một sớm quay đầu

Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,


Kẻ hoàn tục đáng xót xa
Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.

 Ba mươi vị Tỳ kheo đi ngang qua khám đường thấy các phạm nhân bị trói buộc bằng dây xích. Các thầy bạch hỏi Đức Phật xem có loại dây trói buộc nào bền chắc hơn những sợi xích ấy không. Đức Phật giải đáp rằng theo lời các bậc thiện trí thời lòng luyến ái vợ con gia đình, lòng tham cầu giàu sang phú quý là sợi dây ngàn lần bền chắc hơn:

 [Pháp Cú 345]
Với người trí tuệ mở mang
Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì: Dây gai, cây, sắt sá chi

Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!


Riêng lòng luyến ái khát khao
Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,
Trói này sao gỡ cho ra!

 Đức Phật dạy thêm “Trói buộc ấy thật bền chắc. Nó trì xuống, mềm mỏng, nhưng rất khó tháo gỡ. Hãy tuyệt trừ ái dục, đừng dính líu, đừng luyến tiếc”:

[Pháp Cú 346] Những người có trí nói rằng:

“Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm!”


Dây tuy mềm mại, êm đềm
Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta
Khó mà tháo gỡ cho ra
Thế nên người trí lìa xa dục tình
Cắt dây luyến ái cho nhanh
Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.

 Người tham ái bị kẹt trong lưới tham như con nhện vướng vào lưới của mình. Tuy ái dục chinh phụcràng buộc con người chặt chẽ như vậy, nhưng với con ngườiý chí, có nghị lực, vẫn có thể đối trị được dục ái đó để mà được giải thoát và không còn sầu muộn. Một bà hoàng hậu đắm say trong sắc đẹp lộng lẫy của chính bà. Một hôm bà tới viếng rừng Trúc Lâm lúc Đức Phật đang giảng Pháp. Đức Phật tạo một phương cách làm cho bà nhìn thấy một cô gái tuyệt đẹp, trẻ trung, bỗng cô dần dần trở nên già lụ khụ, cuối cùng cô chỉ còn là một túi da bọc xương. Do đó bà bừng ngộ ra rằng sắc đẹp thể chấtkhông thật, nhận thức ra tính cách vô thường tạm bợ của đời sống. Để khuyên bà, Đức Phật dạy:

 [Pháp Cú 347]
Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau Lọt vòng dây trói trước sau Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng. Ai mà dứt mọi buộc ràng

Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.

 Một vị tăng sĩ trẻ tuổi bị một thiếu phụ đem lòng thương và quyến rũ. Thầy vấn vương nên không vui với đời sống xuất gia, thân hình càng ngày càng tiều tụy. Một hôm các bạn đồng tu đem thầy đến bạch với Đức Phật. Đức Phật thuật lại một diễn biến trong kiếp sống quá khứ của thầy: “Trong dĩ vãng thầy từng là một người thiện xạ trẻ, tài ba, bắn cung rất giỏi. Một lần chàng đang chiến đấu với bọn cướp thời vợ chàng phản bội nên chàng bị giết chết. Vợ theo tên cướp đầu đảng. Kiếp này vợ chàng chính là thiếu phụ đang tìm cách quyến rũ chàng hoàn tục, muốn hại chàng thêm một lần nữa”. Rồi Đức Phật khuyên:

 [Pháp Cú 349] Người nào bị khuấy động nhiều Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương

Thường ham dục lạc vô cùng,


Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều Tự mình một sớm một chiều

Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.

 Người biết khắc phục được những tư tưởng bất thiện, biết tham thiền suy niệm về tánh cách ô trược của thể xác, luôn luôn giữ chánh niệm, đó là người sẽ dứt bỏ được lòng luyến ái đeo níu theo xác thân, chấm dứt được ái dục. Người ấy sẽ phá vỡ vòng ràng buộc của Ma vương, của những cám dỗ xúi bẩy làm chuyện không tốt lành:

[Pháp Cú 350] Ai vui vì chẳng còn vương

Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,


Xác thân bất tịnh suy tư
Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
Sẽ trừ ái dục vây quanh
Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.

 Một vị Tỳ kheo trẻ tuổi, không biết tri túc, muốn rời bỏ đời sống xuất gia, ước mơ trở về thọ lãnh chút ít tài sản của cha chết đi để lại. Vì tâm tư bị giằng co giữa hai ý định, tiếp tục tu hành hay hoàn tục, nên vị Tỳ kheo trẻ tuổi sinh ra bất mãn, mất cả sự hăng hái học tập, biếng ăn uống thành ra gầy yếu. Các bạn đồng tu thấy thế nên dẫn vị Tỳ kheo trẻ đến yết kiến Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng dục lạc không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Hạnh phúc vật chất chỉ là sự thỏa mãn của một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa đạt được nó thì nó đã vội lìa bỏ ta. Không bao giờ ta cho là đủ:

[Pháp Cú 186 - 187] Dù cho mưa xuống bạc vàng

Cũng đâu thỏa mãn lòng tham con người

Người hiền trí biết rõ thôi

Dục tình vui ít để rồi khổ thêm,


Cõi trời cao ngất từng trên
Dục tình dù có, chớ nên ham cầu, Người con Phật hiểu pháp mầu

Chỉ mong tham ái được mau diệt trừ

 Không nên hiểu lầmĐức Phật có ý phủ nhận tình cảm của con người khi theo đuổi một số lý tưởng tinh thần cao thượng. Đức Phật không khuyên chúng ta dẹp bỏ hoàn toàn tình cảm lành mạnh của con người. Ngài chỉ có ý muốn nhắc nhở chúng ta là không nên chú tâm quyến luyếngắn bó vào những thú vui vật chất. Điều làm trở ngại quan trọng nhất cho việc phát triển tâm linh chính là cái tâm ý thiết tha gắn bó, nhớ tưởng đến những vật, những việc hay những ngoại cảnh có sức tạo niềm khoái lạc và thích thú theo lòng ham muốn ích kỷ của con người mà thôi. 

Page 6

TÌM HIỂU KINH PHÁP CÚ [DHAMMAPADA] 
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương Xuất Bản - 2006

ÁI DỤC 

 Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dụclòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục:

 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta.

 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại.

 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thútài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.

 Kinh Pháp Cú chỉ rõ cho thấy ái dục là nguồn gốc của mọi sự đau khổ trong đời, là sức mạnh thúc đẩy con người tìm sự thỏa mãn lòng ham muốn ích kỷ bằng mọi cách, ngay cả bằng sự thiệt hại hoặc đau khổ của người khác. Ái dụccạm bẫy nguy hiểm nhất, vì khi được toại nguyện thời nó đem lại cảm giác thỏa mãn cho con người và do đó lòng ái dục của con người cứ tăng thêm mãi. Đức Phật nhận định rằng những điều mà người thế gian gọi là sung sướng, hạnh phúc thời chỉ được xây dựng mong manh trên một số điều kiện. Khi những điều kiện ấy đầy đủ thì người đời gọi là được sung sướng, có hạnh phúc. Nhưng với hạnh phúc họ đang có trong tay họ cũng không cảm thấy được thoả mãn trọn vẹnvĩnh viễn. Nguyên do là vì lòng dạ con người vốn thay đổi và lúc nào cũng muốn được thêm, thêm mãi. Khi chưa đạt được tất cả những điều họ ước ao thì họ có cảm tưởng là vẫn còn thiếu thốn, và lòng họ băn khoăn, day dứt, mong cầu. Hạnh phúc thật sự không cần thiết phải có liên hệ đến điều kiện vật chất bên ngoài, mà hoàn toàn tùy thuộc vào nội tâm của con người. Tất cả giáo lý của Đạo Phật đều quy tụ vào một điểm thực tế là muốn tìm an lạc vĩnh cửu, con người cần phải biết làm cách nào để thắng được lòng ái dục

 Một khi đã nói đến ái, nhất là ái dục, thời đây là cả một đề tài muôn điệu. Đã là con người, thật khó mà thoát ly được ái dục.Vì vậy ta không gì lạ khi thấy Đức Phật đã dành nhiều câu khuyên dạy về ái dục. Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy: 

[Pháp Cú 359] Cỏ hoang làm hại ruộng vườn

Ái dục gây hại nhiều hơn cho người,


Ai lìa ái dục được rồi
Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng
Hưởng về phước báu vô vàn.

 Một nữ thí chủ rất nổi tiếng, có đứa cháu thân yêu vừa qua đời. Bà thương tiếc và khóc lóc thảm thiết. Khi bà đến chùa, Đức Phật an ủi bà và dạy rằng: “Mỗi ngày có biết bao nhiêu người chết. Nếu bà xem mỗi người đã qua đời là một người thân mà bà than khóc như thương tiếc một đứa cháu bà thì có lẽ chẳng có lúc nào mà bà ngưng chảy nước mắt. Ưu sầusợ hãi sinh ra do sự quá luyến ái, quá trìu mến đó”. Người dứt được say đắm trong tình cảm sẽ không bị ràng buộc và khỏi lo phiền:

 [Pháp Cú 213]
Khởi từ luyến ái sinh ra
Chứa chan hãi sợ, chan hòa lo âu
Mến thương, luyến ái lìa mau
Chẳng còn lo sợ, ưu sầu tiêu tan.

 Để giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang giành nhau nước dưới con sông làm ranh giới Đức Phật dạy không nên tham ái và nên diệt trừ dục vọng:

[Pháp Cú 199]
Ở ngay giữa đám nhân sinh
Mặc người tham ái, nếu mình thảnh thơi
Sống không dục vọng như người
Thật là sung sướng, cuộc đời thơm hương.

 Khi nhắc đến một vị Tỳ kheo vô lễ, mặc dầu thông suốt giáo pháp nhưng lòng còn chứa đầy ái dụcngã mạn. Ỷ mình có sức học cao nên thầy luôn khinh rẻ các vị khác. Tuy có công chỉ dạy giáo lý cho các Tỳ kheo khác nhưng thái độ khinh mạn của thầy đã gây nhiều khó khăn trong việc truyền bá chánh pháp. Vì tội ác này thầy phải sa vào địa ngục, khi mãn hạn thầy chỉ được tái sinh thành con cá vàng, tuy có thân hình đẹp đẽ nhưng miệng lại thở ra mùi hôi thối. Đức Phật dạy rằng nếu không kiềm chế thời ái dục sẽ tăng mãi:

[Pháp Cú 334]
Sống đời say đắm buông lung
Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh Giống như giữa chốn rừng xanh

Dây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,


Đời người tiếp nối miên man Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng

Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.

 Người nuôi dưỡng ái dục thời sầu muộn mãi gia tăng. Trái lại người dập tắt ái dục thời sầu muộn không còn: 

[Pháp Cú 335]
Nếu mà ở cõi trần gian
Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh
Thời bao sầu khổ tăng nhanh Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.

[Pháp Cú 336]


Đời này nếu bản thân ta
Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng
Thời bao sầu khổ lìa tan
Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.

 Hãy dập tắt ái dục từ gốc rễ như là nhổ rễ cỏ hoang. Đức Phật dạy bao giờ còn ái dục là còn đau khổ:

 [Pháp Cú 337]
Điều Như Lai dạy các ngươi: “Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này Nhổ cho sạch gốc rễ ngay

Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn

Như là nhổ rễ cỏ hoang

Chớ nên để lũ Ma quân dục tình


Quẩn quanh phá hoại tâm mình
Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau”.

 Trong lúc đi dài theo đường, Đức Phật trông thấy một con heo nái. Ngài thuật lại rằng trong những kiếp quá khứ của nó, con heo từng là một chị gà thường đứng bên hông chùa nghe giảng kinh nên được tái sinh làm một nàng công chúa. Một hôm công chúa quán tưởng đến tấm thân vô thường nên phát tâm tu hành, mãn đời được sinh lên cõi trời. Hưởng hết phước, vì nghiệp báo ở những tiền kiếp nên lại tái sinh dưới hình dạng con heo nái này. Ngài dạy rằng gốc ái dục mà nhổ chưa hết rễ thời tâm còn bị ràng buộc, còn chịu đau khổ dây dưa, sầu muộn còn phát sinh trở đi trở lại triền miên:

[Pháp Cú 338]  Đốn cây mà chẳng chịu đào Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu Thì cây lại mọc ra mau,

Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây

Đoạn cho căn gốc sạch ngay

Nếu không khổ não mãi quay trở về.

 Ái dục nhận chìm người tham ái. Nếu bên trong kẻ nào ba mươi sáu dòng ái dục còn tuôn chảy mạnh mẽ, tâm tham ái sẽ cuồn cuộn lôi cuốn kẻ si mê ấy đi như một luồng thác lũ:

[Pháp Cú 339]
Người ham ái dục luôn luôn Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.

Những người ái dục dâng tràn trong tâm


Bị dòng ái dục cuốn phăng.

 Hãy dùng trí tuệ để dập tắt ái dục. Dòng ái dục tràn ngập khắp nơi như dây leo dại. Loài dây leo ái dục đâm chồi và bám vững . Hãy dùng trí tuệ bứng tận gốc rễ:

[Pháp Cú 340]
Dòng sông ái dục dâng tràn Như dây leo dại mọc lan khắp miền, Thấy dây leo mới nhô lên

Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau


Diệt trừ tận gốc thật sâu.

 Luyến ái dục lạc dẫn đến sinh hoại, khó thoát khỏi trầm luân. Tưởng lầm rằng đó là hạnh phúc nên mãi quẩn quanh trong sinh tử luân hồi

[Pháp Cú 341]
Người đời ái dục thích ham Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô Ngụp chìm biển dục vô bờ

Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công


Vẫn còn trong chốn trầm luân
Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.

 Bị ái dục ràng buộc sẽ đi đến sầu muộn và chịu đau khổ triền miên lâu dài. Kinh hoàng như thỏ nằm trong lưới bẫy, bị trói buộc và siết chặt:

[Pháp Cú 342]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Não phiền, ái dục chẳng lìa cho mau


Khổ đau càng chịu dài lâu.

 Người chìm đắm trong ái dục khác nào sống trong lưới bẫy của mọi sự ô nhiễm. Đức Phật nhấn mạnh rằng người tu hànhý nguyện thành đạt trạng thái không dục vọng phải xa lìa ái dục để sống trong sạch:

[Pháp Cú 343]
Người mà ái dục bao trùm
Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau


Niết Bàn giải thoát xa đâu. 

 Một chàng thanh niên có niềm tin vững chắc, xuất gia thành Tỳ kheo. Một hôm trong khi đi khất thực tại nhà người chú làm thợ vàng, thấy nhiều đồ trang sức đẹp mắt chàng sinh lòng tham luyến, bị dục lạc quyến rũ, chàng hoàn tục. Sau kết bạn với bọn cướp. Bị bắt và bị đưa ra hành hình. Trên đường đi chàng gặp lại thầy cũ của mình. Thầy khuyên chàng nên thiền định ngay. Chàng nghe lời. Gương mặt trở nên bình thản, đắc đạo quả. Không lo sợ bị tử hình. Đao phủ ngạc nhiên trình vua. Vua ra lệnh tha cho chàng. Đức Phật nhân đó dạy là khi đã được giải thoát không nên tự trói lại: 

[Pháp Cú 344]
Người lìa ái dục, xuất gia Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu Để rồi một sớm quay đầu

Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,


Kẻ hoàn tục đáng xót xa
Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.

 Ba mươi vị Tỳ kheo đi ngang qua khám đường thấy các phạm nhân bị trói buộc bằng dây xích. Các thầy bạch hỏi Đức Phật xem có loại dây trói buộc nào bền chắc hơn những sợi xích ấy không. Đức Phật giải đáp rằng theo lời các bậc thiện trí thời lòng luyến ái vợ con gia đình, lòng tham cầu giàu sang phú quý là sợi dây ngàn lần bền chắc hơn:

 [Pháp Cú 345]
Với người trí tuệ mở mang
Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì: Dây gai, cây, sắt sá chi

Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!


Riêng lòng luyến ái khát khao
Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,
Trói này sao gỡ cho ra!

 Đức Phật dạy thêm “Trói buộc ấy thật bền chắc. Nó trì xuống, mềm mỏng, nhưng rất khó tháo gỡ. Hãy tuyệt trừ ái dục, đừng dính líu, đừng luyến tiếc”:

[Pháp Cú 346] Những người có trí nói rằng:

“Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm!”


Dây tuy mềm mại, êm đềm
Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta
Khó mà tháo gỡ cho ra
Thế nên người trí lìa xa dục tình
Cắt dây luyến ái cho nhanh
Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.

 Người tham ái bị kẹt trong lưới tham như con nhện vướng vào lưới của mình. Tuy ái dục chinh phụcràng buộc con người chặt chẽ như vậy, nhưng với con ngườiý chí, có nghị lực, vẫn có thể đối trị được dục ái đó để mà được giải thoát và không còn sầu muộn. Một bà hoàng hậu đắm say trong sắc đẹp lộng lẫy của chính bà. Một hôm bà tới viếng rừng Trúc Lâm lúc Đức Phật đang giảng Pháp. Đức Phật tạo một phương cách làm cho bà nhìn thấy một cô gái tuyệt đẹp, trẻ trung, bỗng cô dần dần trở nên già lụ khụ, cuối cùng cô chỉ còn là một túi da bọc xương. Do đó bà bừng ngộ ra rằng sắc đẹp thể chấtkhông thật, nhận thức ra tính cách vô thường tạm bợ của đời sống. Để khuyên bà, Đức Phật dạy:

 [Pháp Cú 347]
Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau Lọt vòng dây trói trước sau Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng. Ai mà dứt mọi buộc ràng

Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.

 Một vị tăng sĩ trẻ tuổi bị một thiếu phụ đem lòng thương và quyến rũ. Thầy vấn vương nên không vui với đời sống xuất gia, thân hình càng ngày càng tiều tụy. Một hôm các bạn đồng tu đem thầy đến bạch với Đức Phật. Đức Phật thuật lại một diễn biến trong kiếp sống quá khứ của thầy: “Trong dĩ vãng thầy từng là một người thiện xạ trẻ, tài ba, bắn cung rất giỏi. Một lần chàng đang chiến đấu với bọn cướp thời vợ chàng phản bội nên chàng bị giết chết. Vợ theo tên cướp đầu đảng. Kiếp này vợ chàng chính là thiếu phụ đang tìm cách quyến rũ chàng hoàn tục, muốn hại chàng thêm một lần nữa”. Rồi Đức Phật khuyên:

 [Pháp Cú 349] Người nào bị khuấy động nhiều Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương

Thường ham dục lạc vô cùng,


Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều Tự mình một sớm một chiều

Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.

 Người biết khắc phục được những tư tưởng bất thiện, biết tham thiền suy niệm về tánh cách ô trược của thể xác, luôn luôn giữ chánh niệm, đó là người sẽ dứt bỏ được lòng luyến ái đeo níu theo xác thân, chấm dứt được ái dục. Người ấy sẽ phá vỡ vòng ràng buộc của Ma vương, của những cám dỗ xúi bẩy làm chuyện không tốt lành:

[Pháp Cú 350] Ai vui vì chẳng còn vương

Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,


Xác thân bất tịnh suy tư
Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
Sẽ trừ ái dục vây quanh
Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.

 Một vị Tỳ kheo trẻ tuổi, không biết tri túc, muốn rời bỏ đời sống xuất gia, ước mơ trở về thọ lãnh chút ít tài sản của cha chết đi để lại. Vì tâm tư bị giằng co giữa hai ý định, tiếp tục tu hành hay hoàn tục, nên vị Tỳ kheo trẻ tuổi sinh ra bất mãn, mất cả sự hăng hái học tập, biếng ăn uống thành ra gầy yếu. Các bạn đồng tu thấy thế nên dẫn vị Tỳ kheo trẻ đến yết kiến Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng dục lạc không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Hạnh phúc vật chất chỉ là sự thỏa mãn của một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa đạt được nó thì nó đã vội lìa bỏ ta. Không bao giờ ta cho là đủ:

[Pháp Cú 186 - 187] Dù cho mưa xuống bạc vàng

Cũng đâu thỏa mãn lòng tham con người

Người hiền trí biết rõ thôi

Dục tình vui ít để rồi khổ thêm,


Cõi trời cao ngất từng trên
Dục tình dù có, chớ nên ham cầu, Người con Phật hiểu pháp mầu

Chỉ mong tham ái được mau diệt trừ

 Không nên hiểu lầmĐức Phật có ý phủ nhận tình cảm của con người khi theo đuổi một số lý tưởng tinh thần cao thượng. Đức Phật không khuyên chúng ta dẹp bỏ hoàn toàn tình cảm lành mạnh của con người. Ngài chỉ có ý muốn nhắc nhở chúng ta là không nên chú tâm quyến luyếngắn bó vào những thú vui vật chất. Điều làm trở ngại quan trọng nhất cho việc phát triển tâm linh chính là cái tâm ý thiết tha gắn bó, nhớ tưởng đến những vật, những việc hay những ngoại cảnh có sức tạo niềm khoái lạc và thích thú theo lòng ham muốn ích kỷ của con người mà thôi. 

Page 7


RẢI TÂM TỪ
Quảng Tánh

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy
các Tỷ kheo:

Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống, Kẻ yếu hay kẻ mạnh,

Không bỏ sót một ai,

Kẻ dài hay kẻ lớn,

Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.

Loài được thấy, không thấy, Loài sống xa, không xa, Các loài hiện đang sống, Các loài sẽ được sanh,

Mong mọi loài chúng sanh


Sống hạnh phúc an lạc.

Mong rằng không có ai, Lường gạt lừa dối ai, Không có ai khinh mạn, Tại bất cứ chỗ nào. Không vì giận hờn nhau, Không vì tưởng chống đối. Lại có người mong muốn,

Làm đau khổ cho nhau.

Như tấm lòng người mẹ, Đối với con của mình,

Trọn đời lo che chở,

Con độc nhất mình sanh. Cũng vậy, đối tất cả

Các hữu tình chúng sanh,


Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.

Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng rộng lớn. Phía trên và phía dưới, Cũng vậy, cả bề ngang,

Không hạn chế, trói buộc,


Không hận, không thù địch.

Khi đứng, hay khi đi, Khi ngồi, hay khi nằm,

Lâu cho đến khi nào,


Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy, Được đời đề cập đến,

nếp sống tối thượng.

[ĐTKVN, Tiểu Bộ I, kinh Tập, chương 1, phẩm Rắn,
phần Kinh Từ bi [trích], Nxb TP.HCM ấn hành, 1999, tr.506]

LỜI BÀN:


Ngày nay khi xung đột, bạo động và nguy cơ chiến tranh hủy diệt trên thế giới ngày càng cao làm cho nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới càng quan tâm hơn về giáo lý từ bi của đạo Phật. Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.

Đây là điều mà mọi người cần suy ngẫm để cùng góp sức bảo vệ hòa bình bằng chính từ tâm của bản thân mình. Tâm từ trong ta vốn sẵn nhưng bị tăm tối của tham vọng, hận thù che lấp. Do vậy, để nuôi lớn tâm từ, mỗi người phải thực tập tập thiền quán từ bi trong đời sống hàng ngày.

Hãy ngồi yên, buông thư toàn thể thân tâm, mở rộng lòng thương hướng đến tất cả mọi người và mọi loài trong khắp cả mười phương thế giới, nguyện cho tất cả chúng sanh luôn được bình an, hạnh phúc. Đây là lòng yêu thương chân thật, rộng mở, không tính toan, phân biệt. Càng rải từ tâm đến chúng sanh bao nhiêu thì lòng thương yêu trong ta lớn dần thêm bấy nhiêu. Cứ thế, luôn ban rải tâm từ đến vô hạn, vô cùng...

Lúc đầu, khi lòng từ của ta còn yếu ớt thì đối tượng hướng tâm thường là phổ quát gồm hết thảy chúng sanh hoặc là những người thân yêu, không thù oán. Về sau, khi lòng từ lớn dần, cần hướng tâm đến những đối tượng cụ thể mà họ đã từng làm ta khổ đau, oán hận, quyết không đội trời chung, thề một mất một còn. Tâm từ như dòng nước ùa về cánh đồng khô cháy, xóa dần đi nứt nẻ quá khứ đau thương, và đất tâm sẽ xanh màu hoa trái.

Một người tu tập tâm từ, mọi người tu tập tâm từ thì thế giới sẽ tràn ngập tình thươngnhân loại sẽ tránh được khổ đau phát xuất từ nguyên nhân xung đột, tranh chấp.

[CÙNG TÁC GIẢ]

Page 8


RẢI TÂM TỪ
Quảng Tánh

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy
các Tỷ kheo:

Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống, Kẻ yếu hay kẻ mạnh,

Không bỏ sót một ai,

Kẻ dài hay kẻ lớn,

Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.

Loài được thấy, không thấy, Loài sống xa, không xa, Các loài hiện đang sống, Các loài sẽ được sanh,

Mong mọi loài chúng sanh


Sống hạnh phúc an lạc.

Mong rằng không có ai, Lường gạt lừa dối ai, Không có ai khinh mạn, Tại bất cứ chỗ nào. Không vì giận hờn nhau, Không vì tưởng chống đối. Lại có người mong muốn,

Làm đau khổ cho nhau.

Như tấm lòng người mẹ, Đối với con của mình,

Trọn đời lo che chở,

Con độc nhất mình sanh. Cũng vậy, đối tất cả

Các hữu tình chúng sanh,


Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.

Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng rộng lớn. Phía trên và phía dưới, Cũng vậy, cả bề ngang,

Không hạn chế, trói buộc,


Không hận, không thù địch.

Khi đứng, hay khi đi, Khi ngồi, hay khi nằm,

Lâu cho đến khi nào,


Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy, Được đời đề cập đến,

nếp sống tối thượng.

[ĐTKVN, Tiểu Bộ I, kinh Tập, chương 1, phẩm Rắn,
phần Kinh Từ bi [trích], Nxb TP.HCM ấn hành, 1999, tr.506]

LỜI BÀN:


Ngày nay khi xung đột, bạo động và nguy cơ chiến tranh hủy diệt trên thế giới ngày càng cao làm cho nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới càng quan tâm hơn về giáo lý từ bi của đạo Phật. Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.

Đây là điều mà mọi người cần suy ngẫm để cùng góp sức bảo vệ hòa bình bằng chính từ tâm của bản thân mình. Tâm từ trong ta vốn sẵn nhưng bị tăm tối của tham vọng, hận thù che lấp. Do vậy, để nuôi lớn tâm từ, mỗi người phải thực tập tập thiền quán từ bi trong đời sống hàng ngày.

Hãy ngồi yên, buông thư toàn thể thân tâm, mở rộng lòng thương hướng đến tất cả mọi người và mọi loài trong khắp cả mười phương thế giới, nguyện cho tất cả chúng sanh luôn được bình an, hạnh phúc. Đây là lòng yêu thương chân thật, rộng mở, không tính toan, phân biệt. Càng rải từ tâm đến chúng sanh bao nhiêu thì lòng thương yêu trong ta lớn dần thêm bấy nhiêu. Cứ thế, luôn ban rải tâm từ đến vô hạn, vô cùng...

Lúc đầu, khi lòng từ của ta còn yếu ớt thì đối tượng hướng tâm thường là phổ quát gồm hết thảy chúng sanh hoặc là những người thân yêu, không thù oán. Về sau, khi lòng từ lớn dần, cần hướng tâm đến những đối tượng cụ thể mà họ đã từng làm ta khổ đau, oán hận, quyết không đội trời chung, thề một mất một còn. Tâm từ như dòng nước ùa về cánh đồng khô cháy, xóa dần đi nứt nẻ quá khứ đau thương, và đất tâm sẽ xanh màu hoa trái.

Một người tu tập tâm từ, mọi người tu tập tâm từ thì thế giới sẽ tràn ngập tình thươngnhân loại sẽ tránh được khổ đau phát xuất từ nguyên nhân xung đột, tranh chấp.

[CÙNG TÁC GIẢ]

Page 9


RẢI TÂM TỪ
Quảng Tánh

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy
các Tỷ kheo:

Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống, Kẻ yếu hay kẻ mạnh,

Không bỏ sót một ai,

Kẻ dài hay kẻ lớn,

Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.

Loài được thấy, không thấy, Loài sống xa, không xa, Các loài hiện đang sống, Các loài sẽ được sanh,

Mong mọi loài chúng sanh


Sống hạnh phúc an lạc.

Mong rằng không có ai, Lường gạt lừa dối ai, Không có ai khinh mạn, Tại bất cứ chỗ nào. Không vì giận hờn nhau, Không vì tưởng chống đối. Lại có người mong muốn,

Làm đau khổ cho nhau.

Như tấm lòng người mẹ, Đối với con của mình,

Trọn đời lo che chở,

Con độc nhất mình sanh. Cũng vậy, đối tất cả

Các hữu tình chúng sanh,


Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.

Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng rộng lớn. Phía trên và phía dưới, Cũng vậy, cả bề ngang,

Không hạn chế, trói buộc,


Không hận, không thù địch.

Khi đứng, hay khi đi, Khi ngồi, hay khi nằm,

Lâu cho đến khi nào,


Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy, Được đời đề cập đến,

nếp sống tối thượng.

[ĐTKVN, Tiểu Bộ I, kinh Tập, chương 1, phẩm Rắn,
phần Kinh Từ bi [trích], Nxb TP.HCM ấn hành, 1999, tr.506]

LỜI BÀN:


Ngày nay khi xung đột, bạo động và nguy cơ chiến tranh hủy diệt trên thế giới ngày càng cao làm cho nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới càng quan tâm hơn về giáo lý từ bi của đạo Phật. Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.

Đây là điều mà mọi người cần suy ngẫm để cùng góp sức bảo vệ hòa bình bằng chính từ tâm của bản thân mình. Tâm từ trong ta vốn sẵn nhưng bị tăm tối của tham vọng, hận thù che lấp. Do vậy, để nuôi lớn tâm từ, mỗi người phải thực tập tập thiền quán từ bi trong đời sống hàng ngày.

Hãy ngồi yên, buông thư toàn thể thân tâm, mở rộng lòng thương hướng đến tất cả mọi người và mọi loài trong khắp cả mười phương thế giới, nguyện cho tất cả chúng sanh luôn được bình an, hạnh phúc. Đây là lòng yêu thương chân thật, rộng mở, không tính toan, phân biệt. Càng rải từ tâm đến chúng sanh bao nhiêu thì lòng thương yêu trong ta lớn dần thêm bấy nhiêu. Cứ thế, luôn ban rải tâm từ đến vô hạn, vô cùng...

Lúc đầu, khi lòng từ của ta còn yếu ớt thì đối tượng hướng tâm thường là phổ quát gồm hết thảy chúng sanh hoặc là những người thân yêu, không thù oán. Về sau, khi lòng từ lớn dần, cần hướng tâm đến những đối tượng cụ thể mà họ đã từng làm ta khổ đau, oán hận, quyết không đội trời chung, thề một mất một còn. Tâm từ như dòng nước ùa về cánh đồng khô cháy, xóa dần đi nứt nẻ quá khứ đau thương, và đất tâm sẽ xanh màu hoa trái.

Một người tu tập tâm từ, mọi người tu tập tâm từ thì thế giới sẽ tràn ngập tình thươngnhân loại sẽ tránh được khổ đau phát xuất từ nguyên nhân xung đột, tranh chấp.

[CÙNG TÁC GIẢ]

Page 10


RẢI TÂM TỪ
Quảng Tánh

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy
các Tỷ kheo:

Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống, Kẻ yếu hay kẻ mạnh,

Không bỏ sót một ai,

Kẻ dài hay kẻ lớn,

Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.

Loài được thấy, không thấy, Loài sống xa, không xa, Các loài hiện đang sống, Các loài sẽ được sanh,

Mong mọi loài chúng sanh


Sống hạnh phúc an lạc.

Mong rằng không có ai, Lường gạt lừa dối ai, Không có ai khinh mạn, Tại bất cứ chỗ nào. Không vì giận hờn nhau, Không vì tưởng chống đối. Lại có người mong muốn,

Làm đau khổ cho nhau.

Như tấm lòng người mẹ, Đối với con của mình,

Trọn đời lo che chở,

Con độc nhất mình sanh. Cũng vậy, đối tất cả

Các hữu tình chúng sanh,


Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.

Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng rộng lớn. Phía trên và phía dưới, Cũng vậy, cả bề ngang,

Không hạn chế, trói buộc,


Không hận, không thù địch.

Khi đứng, hay khi đi, Khi ngồi, hay khi nằm,

Lâu cho đến khi nào,


Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy, Được đời đề cập đến,

nếp sống tối thượng.

[ĐTKVN, Tiểu Bộ I, kinh Tập, chương 1, phẩm Rắn,
phần Kinh Từ bi [trích], Nxb TP.HCM ấn hành, 1999, tr.506]

LỜI BÀN:


Ngày nay khi xung đột, bạo động và nguy cơ chiến tranh hủy diệt trên thế giới ngày càng cao làm cho nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới càng quan tâm hơn về giáo lý từ bi của đạo Phật. Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.

Đây là điều mà mọi người cần suy ngẫm để cùng góp sức bảo vệ hòa bình bằng chính từ tâm của bản thân mình. Tâm từ trong ta vốn sẵn nhưng bị tăm tối của tham vọng, hận thù che lấp. Do vậy, để nuôi lớn tâm từ, mỗi người phải thực tập tập thiền quán từ bi trong đời sống hàng ngày.

Hãy ngồi yên, buông thư toàn thể thân tâm, mở rộng lòng thương hướng đến tất cả mọi người và mọi loài trong khắp cả mười phương thế giới, nguyện cho tất cả chúng sanh luôn được bình an, hạnh phúc. Đây là lòng yêu thương chân thật, rộng mở, không tính toan, phân biệt. Càng rải từ tâm đến chúng sanh bao nhiêu thì lòng thương yêu trong ta lớn dần thêm bấy nhiêu. Cứ thế, luôn ban rải tâm từ đến vô hạn, vô cùng...

Lúc đầu, khi lòng từ của ta còn yếu ớt thì đối tượng hướng tâm thường là phổ quát gồm hết thảy chúng sanh hoặc là những người thân yêu, không thù oán. Về sau, khi lòng từ lớn dần, cần hướng tâm đến những đối tượng cụ thể mà họ đã từng làm ta khổ đau, oán hận, quyết không đội trời chung, thề một mất một còn. Tâm từ như dòng nước ùa về cánh đồng khô cháy, xóa dần đi nứt nẻ quá khứ đau thương, và đất tâm sẽ xanh màu hoa trái.

Một người tu tập tâm từ, mọi người tu tập tâm từ thì thế giới sẽ tràn ngập tình thươngnhân loại sẽ tránh được khổ đau phát xuất từ nguyên nhân xung đột, tranh chấp.

[CÙNG TÁC GIẢ]

Page 11


RẢI TÂM TỪ
Quảng Tánh

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy
các Tỷ kheo:

Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống, Kẻ yếu hay kẻ mạnh,

Không bỏ sót một ai,

Kẻ dài hay kẻ lớn,

Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.

Loài được thấy, không thấy, Loài sống xa, không xa, Các loài hiện đang sống, Các loài sẽ được sanh,

Mong mọi loài chúng sanh


Sống hạnh phúc an lạc.

Mong rằng không có ai, Lường gạt lừa dối ai, Không có ai khinh mạn, Tại bất cứ chỗ nào. Không vì giận hờn nhau, Không vì tưởng chống đối. Lại có người mong muốn,

Làm đau khổ cho nhau.

Như tấm lòng người mẹ, Đối với con của mình,

Trọn đời lo che chở,

Con độc nhất mình sanh. Cũng vậy, đối tất cả

Các hữu tình chúng sanh,


Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.

Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng rộng lớn. Phía trên và phía dưới, Cũng vậy, cả bề ngang,

Không hạn chế, trói buộc,


Không hận, không thù địch.

Khi đứng, hay khi đi, Khi ngồi, hay khi nằm,

Lâu cho đến khi nào,


Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy, Được đời đề cập đến,

nếp sống tối thượng.

[ĐTKVN, Tiểu Bộ I, kinh Tập, chương 1, phẩm Rắn,
phần Kinh Từ bi [trích], Nxb TP.HCM ấn hành, 1999, tr.506]

LỜI BÀN:


Ngày nay khi xung đột, bạo động và nguy cơ chiến tranh hủy diệt trên thế giới ngày càng cao làm cho nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới càng quan tâm hơn về giáo lý từ bi của đạo Phật. Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.

Đây là điều mà mọi người cần suy ngẫm để cùng góp sức bảo vệ hòa bình bằng chính từ tâm của bản thân mình. Tâm từ trong ta vốn sẵn nhưng bị tăm tối của tham vọng, hận thù che lấp. Do vậy, để nuôi lớn tâm từ, mỗi người phải thực tập tập thiền quán từ bi trong đời sống hàng ngày.

Hãy ngồi yên, buông thư toàn thể thân tâm, mở rộng lòng thương hướng đến tất cả mọi người và mọi loài trong khắp cả mười phương thế giới, nguyện cho tất cả chúng sanh luôn được bình an, hạnh phúc. Đây là lòng yêu thương chân thật, rộng mở, không tính toan, phân biệt. Càng rải từ tâm đến chúng sanh bao nhiêu thì lòng thương yêu trong ta lớn dần thêm bấy nhiêu. Cứ thế, luôn ban rải tâm từ đến vô hạn, vô cùng...

Lúc đầu, khi lòng từ của ta còn yếu ớt thì đối tượng hướng tâm thường là phổ quát gồm hết thảy chúng sanh hoặc là những người thân yêu, không thù oán. Về sau, khi lòng từ lớn dần, cần hướng tâm đến những đối tượng cụ thể mà họ đã từng làm ta khổ đau, oán hận, quyết không đội trời chung, thề một mất một còn. Tâm từ như dòng nước ùa về cánh đồng khô cháy, xóa dần đi nứt nẻ quá khứ đau thương, và đất tâm sẽ xanh màu hoa trái.

Một người tu tập tâm từ, mọi người tu tập tâm từ thì thế giới sẽ tràn ngập tình thươngnhân loại sẽ tránh được khổ đau phát xuất từ nguyên nhân xung đột, tranh chấp.

[CÙNG TÁC GIẢ]

Page 12


PHÁP ẤN
Thích Nhất Hạnh giảng


Hôm nay là ngày 20 tháng giêng năm 1994, chúng ta ở tại xóm Thượng và học tiếp về bát chánh đạo.

Trong bài trước chúng ta đang học về chánh định và do đó đã bàn tới chánh kiến. Học về chánh định ta phải nói tới tam tam muội, tức là ba cái định quan trọng, có khi được gọi là tam giải thoát môn. Nhưng muốn hiểu về ba cánh cửa giải thoát, ta cũng cần học về tam pháp ấn. Tam pháp ấn thuộc về lĩnh vực của chánh kiến.

Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó. Tiếng Anh có thể dịch là the three dharma seals. Trong Đại tạngKinh Pháp Ấn. Ba pháp ấn vô thường, vô ngãniết bàn liên hệ tới không, vô tướngvô tác, tức là ba giải thoát môn. Vô thường [impermanence] tiếng Phạn là anitya. Vô ngã [non-self] tiếng Phạn là anatma. Niết bàn tiếng Phạn là nirvana. Giáo lý nào có ba khuôn dấu này là đích thực giáo pháp của Bụt, không thể nhầm lẫn với giáo pháp ngoại đạo.

Danh từ Tam pháp ấn có khi cũng dùng để nói tới tam giải thoát môn. Ba cánh cửa giải thoát [the three gates of liberation] là không, vô tướngvô tác. Vô thường, vô ngã thuộc về thế giới hiện tượng, nghĩa là về tướng [laksana], và niết bàn thuộc về thế giới bản thể, về tánh [svabava]. Tướng là hữu vi [samskrita], tánh là vô vi [asamskrita].

Đạo Bụt Nam truyền không chú trọng nhiều đến tam pháp ấn, nhất là không nhấn đủ mạnh tới tam giải thoát môn, hay tam tam muội. Ba trạng thái định [samadhi] là không tam muội, vô tướng tam muộivô tác tam muội. Đạo Bụt Bắc truyền như ta đã biết nhấn mạnh tới tam pháp ấntam tam muội.

Trong đạo Bụt Nam truyền, Tam pháp ấn được trình bày là vô thường, khổ và vô ngã. Theo tôi đây là do tình trạng thất truyền. Sự thất truyền này là bắt đầu từ sự chắp nối nhầm lẫn trong một đoạn kinh, sau đó qua sự truyền thừa, tất cả những đoạn kinh khác về cùng một đề tài đều lặp lại điều sai lầm đó. Đoạn kinh thuật lời Bụt như sau:

- Này các vị khất sĩ, sự vật là thường hay là vô thường? - Bạch đức Thế Tôn, sự vật là vô thường. - Này các vị khất sĩ, sự vật vô thường thì là khổ hay là vui? - Bạch đức Thế Tôn, sự vật vô thường cho nên là khổ. - Này các vị khất sĩ, nếu sự vật là khổ thì có nên nói cái này là ta, cái này là của ta hay không? - Bạch đức Thế Tôn, vì sự vật là khổ cho nên ta không thể nói được cái này là ta hay là của ta.

Đoạn kinh đó được nhắc lại hàng trăm, hàng ngàn lần trong kinh điển. Chỗ nào có nói tới vô thườngvô ngã là có nói đến khổ, và về sau cứ tiếp tục như vậy. Cho nên khi nói với các vị Phật tử Nam tông rằng tam pháp ấnvô thường, vô ngãniết bàn thì họ không chấp nhận. Họ bảo trong Kinh nói rằng tam pháp ấnvô thường, khổ và vô ngã, chứ không phải vô thường, vô ngãniết bàn.

Điều này không có nghĩa là Kinh điển Bắc tông khi nói về vô thường, vô ngã không nói tới khổ. Các đoạn đối thoại giữa Bụt và các thầy khất sĩ cũng giống hệt như trong kinh ở Nam tông:

- Này các vị khất sĩ, sự vật thường hay là vô thường? - Bạch đức Thế Tôn, sự vật vô thường. - Này các vị khất sĩ, nếu sự vật vô thường thì là khổ hay là vui? - Bạch đức Thế Tôn, khổ. - Này các vị khất sĩ, nếu sự vật là khổ thì ta có nên nói nó là ta hay là của ta không? - Bạch đức Thế Tôn, không.

Tuy nhiên, chúng ta có thể chứng minh giáo lý tam pháp ấn chắc chắnvô thường, vô ngãniết bàn. Trong kinh tạng Bắc tông, còn Kinh Tạp A Hàm, Kinh số 262, quyển thứ mười lặp đi lặp lại năm lần công thức vô thường, vô ngãniết bàn.

Nhất thiết hạnh vô thường Nhất thiết pháp vô ngã Niết bàn tịch diệt.

Ba câu đó nghĩa là đứng về phương diện thế giới hiện tượng thì ta thấy có khổ đau vì vô thườngvô ngã, nhưng đứng về phương diện bản tánh thì vẫn có vắng lặng, vẫn có bình yên. Mặt khác, tác phẩm Đại Trí Độ Luận [Mahaprajnaparamita] của thầy Long Thọ sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ hai, sau Thiên Chúa giáng sinh, cũng nói rất rõ rằng Tam pháp ấnvô thường, vô ngãniết bàn.

Thật ra lý luậnvô thường cho nên khổ, vì khổ cho nên vô ngã không đủ vững chắc, và có thể gây hiểu lầm về vô thườngvô ngã. Vô thườngvô ngã nằm ở một bình diện khác với khổ. Ví dụ như cái bàn này. Cái bàn này là thực tại. Cái bàn này là vô thường, nói vậy chúng ta hiểu được. Cái bàn này là vô ngã, đúng. Nhưng cái bàn này là khổ thì ta khó quan niệm được. Nói rằng vì vô thường cho nên khổ, vì khổ cho nên vô ngã, lý luận đó nghe không thuận. Có thể nói rằng vì sự vật vô thườngvô ngãchúng ta không biết, cứ cho là thường, là có ngã cho nên ta khổ, nói như vậy xuôi hơn.

Khi nghiên cứu kinh điển, ta phải dùng trí phán đoán suy xét để có thể loại bỏ những sai lầm lưu cữu trong lịch sử. Ban đầu chúng ta có Đạo Bụt Nguyên Thỉ [Original Buddhism], sau thời gian một trăm năm thì đạo Bụt ấy biến thành Đạo Bụt Bộ Phái [Multiple Schoolsí Buddhism]. Hai trăm năm sau khi Bụt nhập diệt, giáo đoàn phân liệt ra, tối thiểu là mười tám bộ phái, nên gọi là Đạo Bụt Bộ Phái. Hai truyền thống trong số các bộ phái đó còn để lại rất nhiều kinh điểnchúng ta có thể so sánh, đó là truyền thống Hữu Bộ [Sarvastivada] và truyền thống Đồng Diệp Bộ [Tamrasatiya]. Sau này, Đạo Bụt Đại Thừa, phát sinh vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, gọi các Bộ PháiTiểu Thừa, và tự gọi mình là Đại Thừa. Những trường phái phân liệt ra vào khoảng từ một trăm tới ba trăm năm sau khi Bụt nhập diệt đều gọi là Đạo Bụt Bộ Phái cả. Và Đạo Bụt Bộ Phái không phải là chỉ có trong Đạo Bụt Nam Truyền, Đạo Bụt Bắc Truyền cũng có Bộ Phái, phân hệ từ thời đại vua Asoka [A Dục]. Trong hai hệ phái, Hữu BộPhân Biệt Thuyết Bộ, Hữu Bộ [Savastivada] truyền lên miền Bắc, vùng Kashmir, phát triển tại đó một ngàn năm. Vặn tự sử dụng trong Hữu Bộ là chữ Sanskrit. Trong khi đó, Phân Biệt Thuyết Bộ được chính thức ủng hđo, phát triển tại nơi gốc, và một phần được truyền qua Tích Lan. Đạo Bụt truyền qua Tích Lan thuộc về Đồng Diệp Bộ, bộ phái các thầy mặc áo vàng màu đồng đỏ, gọi là Xích Đồng Diệp Bộ. Sau họ bỏ tên đó, dùng tên Theravada, nghĩa là Thượng Tọa Bộ, cho có tính cách chính thống hơn.

Xích Đồng Diệp Bộ thừa hưởng văn hệ Abhidharma, tức là Luận Bộ [A Tỳ Đàm] của Phân Biệt Thuyết Bộ. Trong khi đó Hữu Bộ tại miền Bắc cũng rất hưng thịnh, trước tác nhiều bộ luận. Những bộ luận lớn là Tỳ Bà Sa Luận, đã được phiên dịch ra chữ Hán, tồn tại cho tới hôm nay.

Đạo Bụt Bộ Phái không phải chỉ có mặt trong Đạo Bụt Nam Truyền Tích Lan, mà ở phương Bắc cũng có. Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản cũng được thừa tiếp Đạo Bụt Bộ Phái. Giới luật của các khất sĩ, nữ khất sĩ cũng đều là giới luật được trao truyền từ Đạo Bụt Bộ Phái. Từ Kashmir [chữ Hán là Ca Thấp Di La], Hữu Bộ đã đưa đạo Bụt với những Kinh A Hàm vào Trung Hoa và các xứ Á đông. Tại Việt Nam chúng ta có thể đọc Kinh Nikaya từ chữ Pali do Xích Đồng Diệp Bộ truyền lại, và chúng ta có thể so sánh với các Kinh A Hàm bằng chữ Hán.

Khi so sánh về sự hành trì cũng như về kinh điển, chúng ta mới thấy Đạo Bụt Bắc Truyền, dầu là gốc Đạo Bụt Bộ Phái, cũng còn giữ được giáo lý chân truyền về tam pháp ấn: vô thường, vô ngãniết bàn. Chứng cớ thứ nhất đã nêu ra là trong Tạp A Hàm, Kinh 262, vô thường, vô ngãniết bàn là ba pháp ấn. Chứng cớ thứ hai là thầy Long Thọ, vào thế kỷ thứ hai, đã nói rõ ràng tam pháp ấnvô thường, vô ngãniết bàn. Vậy nghiên cứu Đạo Bụt Bộ Phái và Đạo Bụt Đại Thừa chúng ta có thể tìm lại được Đạo Bụt Nguyên Thỉ. Đó là công việc chúng ta đang làm và phải làm.

Vậy pháp ấn đầu tiên, con dấu đầu tiên, là nhất thiết hạnh vô thường, tất cả mọi hiện tượng được tập hợp nên đều vô thường. Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hữu vi là những pháp thuộc thế giới hiện tượng. Nếu một giáo lý, một học thuyết nào không mang dấu ấn này thì không phải là Phật pháp.

Nhưng giáo lý vô thường [impermanence] có khác với ý niệm về vô thường vẫn có ở ngoài đời. Theo nguyên tắc tương tứctương nhập, giáo lý vô thường phải phản ảnh những giáo lý khác của đạo Bụt, nó không được đi ngược với những giáo lý khác trong đạo Bụt. Trên thế giới có rất nhiều nguồn tư tưởng nói đến tính vô thường. Ví dụ khi đức Khổng Tử đứng trên bờ sông và nhìn xuống nước, ngài cũng thấy dòng sông là vô thường: ‘‘Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ?’’ nghĩa là ‘‘trôi chảy hoài, ngày đêm không thôi, như thế này ư?’’ Như vậy đạo Khổng cũng dạy về vô thường. Triết học Tây phương cũng có cái thấy về vô thường. Heraclite nói: ‘‘Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông’’. Chúng ta xuống sông bơi một lần rồi đi lên, khi xuống lại lần thứ hai thì dòng sông đã khác rồi. Tóm lại, các bậc hiền giả nhiều đời đã nhìn thấy thế giới hiện tượngvô thường.

Nhưng vô thường không tất yếu đưa tới khổ, như lý luận cho rằng hễ vô thường là khổ. Nếu xét kỹ thì vô thường có thể đem lại niềm vui. Vô thường nghĩa là sự vật không duy trì được tính chất đồng nhất bất biến, chúng luôn luôn thay đổi. Như vậy vô thườngđặc tính đích thực của sự sống. Nếu khôngvô thường thì không có sự sống. Ví dụ như một hạt ngô. Nếu hạt ngô thường tại thì nó không bao giờ có thể trở thành cây ngô được cả. Nếu sự vật thường tồn thì không có sự sống. Một Phật tử người Anh học Phật và thực tập Phật pháp, về nhà nói chuyện giáo lý cho gia đình nghe. Anh đã nói theo lý luận rằng vì sự vật vô thường [impermanent] cho nên mình khổ. Đứa con gái hỏi: ‘‘Ba nói cái gì lạ vậy? Nếu mà mọi sự vật cứ mãi mãi không thay đổi, con làm sao lớn lên thành thiếu nữ được?’’

Sự thật đơn giản như vậy. Nếu sự vật không vô thường thì em bé không bao giờ trở thànhthiếu nữ. Cô bé tuy không học kinh sách nhưng cô hiểu Bụt nhiều hơn là ông bố. Người cha thấy trong vô thường mùi vị của bi quan, nhưng chính cô bé thấy được rằng nhờ sự vật vô thường cho nên có sự sống. Nếu sự vật không vô thường thì chúng ta làm gì có hy vọng một ngày mai bệnh ta sẽ lành hoặc ta có thể thay đổi một chế độ độc tài? Cho nên vô thường đem lại niềm tin rằng ta có thể chuyển đổi được tình trạng, rằng ngày mai trời lại sáng. Do đó vô thường không nhất thiết phải là nguyên nhân của khổ.

Nguyên nhân của khổ là sự vật vô thườngchúng ta tưởng là thường. Trong kinh Bảo Tíchcâu chuyện con chó bị ném cục đá, nó chạy theo cục đá mà sủa, vì tưởng cục đá là nguyên do làm nó đau. Cũng vậy, vô thường không gây ra khổ, mà chính vì nhận thức sai lạc cho những gì vô thường là thường tại cho nên ta khổ. Khi có sức khỏe mà không ý thức được tính cách vô thường của thân thể thì ta có thể đánh mất sức khỏe. Ý thức về vô thường giúp ta biết bảo vệ sức khỏe, biết ăn, uống, làm việc một cách điều độgiữ gìn thân thể của mình. Vậy ý thức về vô thường có thể đưa tới hạnh phúc. Nhiều người đã sống qua tuổi trẻ nhưng chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc trong tuổi trẻ của mình, vì họ không có ý thức về vô thường. Mình tưởng như mình sẽ trẻ hoài, ai ngờ ngoảnh qua ngoảnh lại vài cái, tuổi trẻ đã đi đâu mất.

Cho nên thực tập vô thường quán giúp cho ta biết quý trọng từng giờ phút của sự sống. Và khi ta đã biết quý trọng từng giờ phút của sự sống, thì ta cũng biết chăm sóc và vun tƯới, để nuôi dưỡng những gì hiện ta đang là và đang có. Tuổi trẻ như thế mà người thương cũng thế. Ý thức được rằng mình có một người thương hay mình đang thương một người, ta đang có hạnh phúc. Nhưng ta phải biết rằng tình thương đó cũng vô thường. Nếu người đang thương yêu không nuôi dưỡng hiểu biếttình thương của chính mình thì tình thương cũng mòn mỏi rồi tiêu diệt. Nếu người được thương yêu không biết bảo trì tính dễ thương và tươi tắn của mình thì cũng sẽ đánh mất lòng thương yêu.

Cho nên có ý thức về tính vô thường ta biết sống từng giờ, từng phút trong chánh niệm, biết duy trì lòng thương của ta, và tính chất đáng yêu của ta. Khi hai người kết hôn và về ở với nhau, họ có thể có tình thương nồng nhiệt trong những năm đầu. Nhưng nếu họ không sống trong ý thức vô thường, cứ nghĩ rằng mình luôn luôn là mình, người kia luôn luôn là người kia, thì hạnh phúc sẽ không bền vững được. Sống không có ý thức về vô thường, sống không chánh niệm, không biết bồi đắp tình thương, thì có thể một ngày kia, người ta sẽ ‘‘anh đi đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi.’’

Thành ra vô thường quán rất quan trọng. Thứ nhất, nó cho ta biết cái gì đang có trong giây phút hiện tại là quý giá và đẹp đẽ, ta phải trân trọng, bảo tồn cho ta và cho những người xung quanh ta. Thứ hai, khi thấy tình trạng hiện tại không được như ý thì ta cũng không chán nản. Sự vật vô thường, nếu ta biết cách chuyển hóa thì ngày mai tình trạng sẽ thay đổi. Trước ngày bức tường Bá Linh đổ, rất nhiều người cứ nghĩ rằng bức tường Bá Linh sẽ ở đó cả ngàn năm. Đến khi bức tường Bá Linh đổ họ mới thấy rằng bức tường Bá Linh cũng vô thường. Và sau bức tường Bá Linh còn nhiều thứ cũng sẽ đổ theo, vì niềm tin vào một chủ thuyết cũng đã sụp đổ. Trong đời sống hàng ngày của mỗi người tình trạng cũng vậy. Ta có niềm tin vào một người, hay ta được một người tin, nhưng nếu ta không thực tập quán chiếu vô thường, không thực tập sống chánh niệm, thì niềm tin đó có thể tan rã. Phải nhìn vào sự sống trong từng giây từng phút và dùng ánh sáng chánh niệm chiếu rọi để thấy được tính vô thường, để thấy mình đang tiến hay lùi trong sự xây dựng hạnh phúcan lạc. Nếu vững chãian lạc đang giảm sút thì ta phải tìm biết những nguyên do để kịp thời cứu chữa và thay đổi.

Vô thườngvô ngã

Hiểu vô thường trong tinh thần tương tứctương nhập thì ta mới hiểu đúng giáo lý đạo Bụt. Vô thường cũng chỉ là vô ngã đứng về phương diện thời gian mà nói, nhưng hai tính đó đích thực là một. Ngã tức là tính đồng nhất. Vô thường là tính thay đổi. Khi một cái gì thay đổi, nó không còn tính cách đồng nhất của nó, do đó nó vô ngã. Phải hiểu vô thườngvô ngã thì ta mới thực sự hiểu vô thường được. Nếu nói vô thường là bước thứ nhất, sau khi học bước đó rồi thì mới đi bước thứ hai, mới hiểu vô ngã, nói vậy là chưa hiểu đạo Bụt. Theo đạo Bụt, một giáo pháp trùm chứa tất cả các giáo pháp khác. Nhất pháp nhập nhất thiết pháp, nhất thiết pháp nhập nhất pháp, one dharma enters all dharmas, all dharmas enter one dharma, đó là lời Kinh Hoa Nghiêm. Nhiều giòng tư tưởng khác cũng nói tới vô thường. Nhưng giáo lý vô thường trong đạo Bụt thật đặc biệt vì ở các truyền thống khác ít ai nói tới tính vô ngã.

Vô thường là một chiếc chìa khóa Bụt trao cho chúng ta để mở cửa thực tại. Bụt dạy chúng ta phải sử dụng cái chìa khóa đó để đi vào thực tại. Nếu chỉ đàm luận, khảo cứu về vô thường mà không thực tập vô thường quán trong đời sống hàng ngày thì chúng ta không sử dụng chiếc chìa khóa như Bụt ước muốn. Thay vì dùng chiếc chìa khóa để mở cửa thực tại thì chúng ta đem cái chìa khóa đó đặt trên bàn thờ và sì sụp lạy. Dù ta có lạy mỗi ngày một trăm lẻ tám lạy, thì cái chìa khóa đó cũng không có ích lợi gì cả. Cho nên vô thường ở đây không phải là một lý thuyết, một triết học, mà là một phép sống, gọi là vô thường quán [contemplation on impermanence]. Mà quán vô thường thì quán vào những lúc nào? Chúng ta quán trong khi ăn cơm, trong khi rửa chén, trong khi giặt áo, trong khi tiếp xử với bạn bè với anh chị em, với bản thânvạn vật quanh ta.

Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật. Quán chiếu như vậy không phải là để than thở rằng vạn vậtvô thường, không có gì đáng lưu tâm, thôi đừng làm gì nữa cho khỏe. Đó là một thái độ sai lầm rất lớn về vô thường. Vô thường là một cơ hội cho sự sống và cho sự chuyển hóa. Nhờ vô thườngchúng ta có thể thực hiện được mọi tự do. Chúng ta có thể làm cho khổ trở thành vui, chúng ta có thể thay đổi tình trạng xã hội. Đạo đế được thiết lập trên căn bản vô thường. Đạo đế là để chuyển hóa sự vật, nếu sự vật không vô thường thì đạo đế dùng để làm gì? Cho nên vô thường không phải là những nốt nhạc sầu thảm, tiêu cực. Nếu anh, nếu chị nghĩ tới vô thường như những điệu nhạc sầu thảm, thì anh và chị hoàn toàn không hiểu giáo lý vô thường. Rất ít người học Phật chịu thấy điều đó. Trong khi ấy giáo lý rất minh bạch. Chúng ta mới học quán chiếu mà đã thấy được rằng vô thường đích là vô ngã. Không vật gì có tính đồng nhất; cái này liên hệ tới cái kia. Từ lúc ta bước vào thiền đường này gần một tiếng đồng hồ đã đi qua, và ta đã thay đổi! Đứng về phương diện cơ thể và đứng về phương diện tâm thức, ta đã thay đổi. Không khí và máu huyết trong ta, các tế bào trong ta đã thay đổi. Ta không giữ được tính đồng nhất của ta trong hai mươi phút liên tiếp. Cho nên ta vô ngã, và ta biết rằng ta được tạo thành bằng những yếu tố không phải là ta. Hãy nhìn cây ti-dơn ngoài kia, ta cũng được cấu tạo thành bằng chất liệu của cây đó. Nếu không có cây ti-dơn ở đó thì ta đã khác. Cây ấy đã tặng cho ta rất nhiều niềm vui. Cây đó đã nuôi dưỡng ta trong mười mấy năm nay. Nếu không có sư anh, sư chị, sư cô và sư chú thì ta sẽ khác, và như vậy sư anh, sư chị, các sư cô và sư chú đã nuôi dưỡng ta, đã làm cho ta khác. Vì vậy ta biết ta được làm bằng bao nhiêu yếu tố không phải là ta [the self is made of non-self elements]. Đó là vô ngã. Và ta phải thấy và biết rằng hạnh phúc, an lạc của ta tùy thuộc nơi những yếu tố không phải ta. Sư em hạnh phúc được là nhờ sư chị. Sư chị hạnh phúc được là nhờ sư em. Nếu một trong hai người không có hạnh phúc thì người kia cũng khó có hạnh phúc. Vì vậy hạnh phúc không phải là vấn đề của mỗi cá nhân. Điều này là tuệ giác phát xuất từ vô thường quán hay vô ngã quán. Cho nên ta phải tu tập như thế nào để cho cha mình, mẹ mình và những người quanh mình đừng đau khổ, thì lúc đó ta mới có hạnh phúc.

Đi tìm hạnh phúc riêng tư là điều sai lầm phải tránh. ‘‘Tôi phải bỏ nhà đi, tôi phải bỏ cha, bỏ mẹ, để đi tìm tự do, để đi tìm bản ngãhạnh phúc cá nhân của tôi, tôi chỉ còn cách đó.’’ Nói vậy không đúng. Vì tuy muốn bỏ đi nhưng không ai thật sự ra đi được một mình! Trong tâm tư ta sẽ mang theo hết các thứ đi theo mà ta không biết. Dầu có trốn đi biệt tích thì tất cả vẫn đeo theo bên ta. Tàng thức của ta chuyên chở theo tất cả, không bỏ sót lại một cái gì. Cho nên vô thường quán hay vô ngã quán giúp ta thấy được cách ta sống, cách ta hành xử như thế nào trong đời sống hàng ngày, để ta có thể thực sự xây dựng an lạchạnh phúc.

Vô thườngvô ngã là một. Thực tập quán vô thường thâm sâu thì tự nhiên ta thấy được lẽ vô ngã. Thực tập vô ngã cho sâu sắc thì tự nhiên ta thấy được lẽ vô thường. Đó là tính cách mầu nhiệm của nguyên lý tương tức tương nhập trong đạo Bụt. Giáo lý Duyên sinh [interdependence, co-production] trong đạo Bụt giải bày sự hình thành của các hiện tượng nương vào nhau mà có mặt. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Cái này như thế này vì cái kia như thế kia. Duyên sinh cũng là vô ngãvô thường, nhìn từ một góc cạnh khác. Hiểu vô thườngduyên sinh thì mới là hiểu vô thường đúng mức.

Quán sát một hiện tượng nào đó trong thời giankhông gian, chúng ta có thể tưởng rằng nó bắt đầu ở đây và chấm dứt ở kia. Nghĩ như vậy là sai. Vì mỗi hiện tượng trong không gianthời gian luôn luôn xúc tiếp và trao đổi với bên ngoài, với môi trường quanh nó. Hiện tượng trao đổi này xảy ra trong từng giây từng phút. Đó gọi là duyên sinh. Vì vậy vô thường cũng chỉ là duyên sinh mà thôi. Tu học, mỗi ngày mở tấm lòng ta ra cho những điều kiện tốt đi vào nuôi dưỡngchuyển hóa cho ta thành ra tốt đẹp hơn, đó là thuận theo tính duyên sinh. Còn nếu ta khép cái vỏ sò của mình lại kín bưng, tức là ta đã không thấy tính duyên sinh của chính mình.

Thay vì nói vô thường, vô ngã, duyên sinh người ta có thể nói đến Không. Không trước hết là không có đồng nhất tính, nghĩa là vô ngã. Nếu Không có nghĩa là Vô ngã, thì Không cũng có nghĩa là duyên sinh.

Không, giả và trung

Trong Đại Trí Độ Luận có một bài kệ rất hay mà thầy Trí Giả thuộc phái Thiên Thai đã sử dụng để lập nên pháp môn tam quán là Không, Giả, và Trung. Bài kệ như sau:

Nhân duyên sở sinh pháp Ngã thuyết tức thị không Diệc danh vi giả danh Diệc danh trung đạo nghĩa.

Dịch:

Các pháp do duyên sinh Tôi gọi chúng là không Cũng gọi là giả danh Cũng gọi là trung đạo

Chúng ta hãy tìm hiểu từng câu. Nhân duyên sở sinh pháp tức là những hiện tượng, do nhân và duyên sinh ra [all phenomena that are produced by conditions]. Ngã thuyết tức thị không nghĩa là tôi tuyến bố rằng chúng đều là không. Duyên sinh nghĩa là không, đó là lời thầy Long Thọ. Nhưng cái không này không phải là ngược lại với cái có. Chữ không này chỉ có nghĩa là duyên sinh, là vô ngãvô thường. Câu thứ ba: Diệc danh vi giả danh. Giả danh là có một cái tên, nhưng chỉ là cái tên giả. Một cái danh để gọi của một sự vật mà ta tưởng là không thay đổi là thường là ngã. Trong khi đó sự thực thay đổi từng giờ, từng phút. Cho nên ta nói cái tên ấy là giả danh, vì cái danh bất biến không gọi đúng được cái thực tại luôn thay đổi. Hơn nữa gọi tên một sự vật là giới hạn sự vật đó trong thời giankhông gian, cắt nó ra khỏi ngoại cảnh, che lấp mất những liên hệ giữa nó với những hiện tượng khác trong vũ trụ.

Khi chúng ta gọi tên một đóa hoa, tên gọi đó phân cách rõ ràng bông hoa và tất cả các thứ không phải là bông hoa. Bông hoa không thể nào là gốc cây được. Bông hoa không thể nào là cÒn gió hay là đám mây được. Nhưng sự thật thì đóa hoa cũng đồng thời là gốc cây, là đám mây, là mặt trời, là trái đất. Vì đóa hoa là vô ngã, vì đóa hoa là vô thường, vì nó là duyên sinh vì hoa là không, cho nên khi ta dùng danh từ hoa để gọi nó là ta đã bắt đầu sự sai lầm. Vì vậy mỗi tên gọi là một giả danh. Mọi sự vật là một giả danh.

Những điều trên có thể được diễn tả bằng ý niệm trung đạo. Trung đạo tức là không phải có mà cũng không phải không. Ý niệm về không cốt để giúp ta thoát khỏi vọng tưởng là có những thực thể riêng biệt, nhưng chúng ta cũng dễ bị vướng ngay vào ý niệm không này. Đưa ra ý niệm về trung đạo là để cho ta thoát ra khỏi cả ý niệm về không lẫn về có. Trung đạo nghĩa là không có cũng không không. Ở một thiền viện kia có treo bốn chữ hữu vô nhị vong, tức là cả hữu cả vô đều biến mất. Siêu việt có và không thì mới đạt tới trung đạo.

Đạo Bụt có khi nói thế giới hiện tượngvô thường, có khi nói là vô ngã, có khi gọi là duyên sinh, có khi gọi là không. Và trung đạo xét cho cùng cũng chỉ là không, là duyên sinh, là vô ngã, là vô thường. Hiểu vô thườngtrung đạo tức là hiểu vô thường khá sâu sắc. Và chúng ta lại còn nhận thức về tương tức. Tương tức nghĩa là cái này và cái kia là một. Bông hoa là mặt trời, bông hoa hiện hữu cùng với mặt trời. Tương tức như vậy cũng chỉ là duyên sinh thôi. Vậy tương tức cũng là trung đạo, là vô ngã, là không và là vô thường.

Vô thường, hay vô ngã, hay duyên sinh, hay là không, hay là tương tức, tất cả đều là những chìa khóa để mở cửa thực tại. Mở cửa thực tại trong mỗi giây mỗi phút bằng sự quán chiếu. Nếu không có niệm và không có định thì cả chùm chìa khóa sẽ cũng không được sử dụng. Trong vô minh, trong ảo tưởng thường và ngã, chúng ta khổ đau. Bụt đưa chìa khóa vô thườngvô ngã cho chúng ta quán chiếu để chúng ta phá tan địa ngục đau khổ.

Niết bànvô tác

Khi dùng chìa khóa vô thườngvô ngã để mở cửa thực tại thì chúng ta có cơ hội tiếp xúc được với bản thân thực tại, gọi là niết bàn. Niết bàn có mặt ngay bây giờ mà không phải là một đối tượng có thể tìm kiếm ở tương lai. Cây đèn này, chiếc bình này, hay bông hoa này đều có tính niết bàn. Nó có tính vô thường, tính vô ngã và tính niết bàn cùng một lúc. Giống như là một đợt sóng trên đại dương. Đợt sóng trên đại dương thuộc về thế giới hiện tượng. Trong thế giới của sóng có cao, có thấp, có lên, có xuống, có bắt đầu, có chung cuộc, có đợt sóng này và đợt sóng kia, có ngã và phi ngã. Nhưng nhìn vào nước ta có thể nhận ra được một tính khác của sóng : nước vốn không cao, không thấp, không sinh, không diệt, không có đợt này đợt kia. Mà sóng không cần biến đi rồi thì mới thành nước. Sóng là nước ngay tự bây giờ và ở đây. Vì vậy chúng ta thấy niết bàn ở ngay trong hiện tại. Chúng ta đang an trú ở trong niết bàn. Kinh Pháp Hoa nói : các pháp từ xưa nay vẫn an trú trong niết bàn [chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng]

Bụt đã giao cho chúng ta chiếc chìa khóa quán chiếu vô thườngvô ngã. Càng tiếp xúc với thực tại vô thườngvô ngã thì ta càng tiếp xúc sâu sắc với niết bàn, đạt tới niềm an lạc không sợ hãi, gọi là vô úy. Nếu chúng ta đang lo sợ về cái chết, đó là vì ta đang còn vọng tưởng dựa trên ý niệm về thường và ngã. Chúng ta khổ vì vô minh, nghĩ thực tại là thường, là ngã. Dùng chánh niệmchánh định sống trong ý thức về vô thườngvô ngã, ta đạt tới niết bàn, đi tới tình trạng vô úyan lạc. Chúng ta không cần phải chạy đi tìm hạnh phúcan lạc ở đâu nữa, đó là giáo lý niết bàn [You are already where you want to go. ]

Trong đạo Bụt có giáo lý vô tác [nothing to be done], có khi gọi là vô nguyện. Vô nguyện tức là không còn muốn gì nữa hết không có dự án nào cần được thực hiện nữa hết, vì tất cả đã được hoàn thành sẵn rồi. Trong bài thơ ‘‘Bướm bay vườn cải hoa vàng’’, tôi có viết một câu mà chính lúc viết tôi cũng không có ý thức rõ rệt:

Công trình xây dựng ngàn đời

Nhưng công trình em ơi, đã được ngàn đời hoàn tất.

Sự tu học thấm vào con người ta, cho đến khi ta viết ra một câu thơ thì ta viết tự nhiên như vậy thôi, không có chủ định thuyết pháp, cũng không có chủ đích nói về thế giới hiện tượngthế giới bản thể.

Vườn cải hoa vàng Chính mắt tôi vừa thấy sáng qua Tôi không ngủ mơ đâu Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ Chúng mình còn đây Hôm nay và ngày mai nữa Đến đây, khi khát chúng ta cùng uống ở một giếng nước thơm, trong Ai nói cho em nghe rằng Thượng đế đã bằng lòng cho con người khổ đau đứng dậy hợp tác cùng người Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp Khổ đau vì không tự biết là lá là hoa Em hát ca đi, bông cúc cười theo em bên hàng dđau áừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát Những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình!

Những điều bài thơ nói ra, nếu đọc lại với nhận thức về tam pháp ấn ta sẽ thấy hàm chứa ý tưởng ‘‘vạn pháp an trú trong niết bàn’’. Ta không cần đi tìm, không cần phải thực hiện gì cả. Khi trở về tiếp xúc được với bản thể và với tự tánh của chính ta thì tự nhiên ta đạt tới an lạc.

môn học gọi là Eschastology, có thể dịch là Mạt Thế Luận, nghiên cứu về chung cuộc của vũ trụ, của con người [the final destination of man and of the cosmos]. Trong những truyền thống tôn giáo khác như CÒ Đốc giáo, môn này rất được quan tâm. Người ta giả định thời gian như một đường thẳng. Thời giankhông gian làm khung cho tất cả mọi thứ, như vậy thì mỗi vật và mỗi người đều có một chung cuộc. Nhưng đứng trên quan điểm Tam Pháp Ấn, chúng ta thấy rằng ý niệm về thời giankhông gian chỉ là những sản phẩm của trí óc, của vọng tưởng. Niết bànchúng ta theo đuổi, nó có ngay trong hiện tại, bây giờ và ở đây. Thành ra danh từ ‘‘nhập niết bàn’’ cũng dễ gây hiểu lầm. Chúng ta ai cũng đang ở trong niết bàn mà không biết, đi tìm ở đâu, nhập vào đâu nữa? Vô tác, hay vô nguyện nghĩa là không có đối tượng để chạy đuổi theo. Vô tác là Apranihita, nghĩa là không đặt phía trước mình một đối tượng để chạy theo. Tiếng Pháp là Non-poursuite, tiếng Anh là Wishlessness.

Trong đạo Bụt lại có ý niệm vô đắc [non-obtaintion: nothing to be obtained]. Có thể nói một cách đơn giản là ta đã là cái gì mà ta muốn trở thành rồi [you are already what you want to become]. Đó là tinh thần vô tác, vô nguyện, vô đắc, và đó là giáo lý niết bàn. Là một cđau bé ba tuổi đã là tuyệt mơy rồi, anh không cần phải chờ thành một cđau sinh viên 22 tuổi. Là một chú sa di, đã là mầu nhiệm lắm rồi, sư chú không cần phải trở nên một vị thượng tọa thì mới an vui. Nghe thầy Minh Đức hỏi các sư cô ở chùa Đức Viên : ‘‘Sau khi làm đại đức, thì sẽ lên chức gì nữa?’’ Các sư cô nói: ‘‘Lên thượng tọa’’ Thầy lại hỏi: ‘‘Sau thượng tọa, thì lên làm gì?’’ Các sư cô nói: ‘‘Lên hòa thượng.’’ Rồi thầy hỏi: ‘‘Sau hòa thượng thì lên cấp gì nữa?’’ Các sư cô trả lời không được. Thầy đã trả lời : ‘‘Lên ngồi trên bàn thờ!’’

Làm sa di đã mầu nhiệm lắm rồi, đâu cần phải chờ đợi khi lên làm tỳ kheo? Làm tỳ kheo mầu nhiệm lắm rồi, không cần chờ lên giáo thọ. Mà giáo thọ cũng mầu nhiệm lắm rồi, không cần phải chờ làm đại giáo thọ hay hòa thượng. Khi trở về được và an trú trong bản tính niết bàn của mình thì hạnh phúc tràn đầy, ta không cần phải tìm kiếm gì nữa, đó là giáo lý vô tác, hay vô đắc.

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương [Kinh Bốn Mươi Hai Đoạn], một trong những Kinh sớm nhất đã lưu nhập ở Việt Nam, có câu: ngã pháp hành vô hành hạnh, tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng. Nghĩa là: Pháp của tôi là thực hành cái vô hành, tu tập cái vô tu, chứng ngộ cái vô chứng.

Đó là tu tập theo tinh thần vô tác.

Tám chữ tháo tung

Có thể nói rằng chánh kiến là cái thấy sâu sắc về vô thường, vô ngãniết bàn. Đó là những chìa khóa để sử dụng trong đời sống hàng ngày. Sau khi đã nghe về ba pháp ấn rồi ta phải đi đứng, nói năng, ăn cơm, làm việc như thế nào để quán chiếu ba đặc tính đó của vạn vật. Sống và tu học hàng ngày như vậy thì đúng chánh pháp, còn nếu không thì ta sẽ phụ ơn Tam Bảo.

Chúng ta phải nhớ rằng vô thườngvô ngã, niết bàn là ba phép quán. Sống có niệm và có định trên ba pháp ấn này thì chúng ta sẽ chắc chắn có tuệ. Về chánh định, chúng ta nói đến tam tam muội, tức là không, vô tướngvô tác. Không, vô tướngvô tác, có khi được gọi là tam giải thoát môn [ba cánh cửa giải thoát]. Chúng ta dùng hình ảnh chìa khóa vì hình ảnh này gợi ý mở cửa giải thoát. Sống tu học theo pháp môn này, ta an trú trong niệm về không, niệm về vô tướng, niệm về vô tác và cũng an trú trong định về không, định về vô tướng, và định về vô tác. Không, vô tướngvô tác cũng là kết quả của sự quán chiếu về vô thường, vô ngãniết bàn. Quán chiếu vô thường, vô ngãniết bàn thì chúng ta cũng bắt đầu thấy và hiểu được không, vô tướngvô tác. Thấy sâu vào bình diện hiện tượng là thấy được bình diện bản thể. Trong tướng chúng ta thấy tánh, trong tánh chúng ta thấy tướng.

Niết bàn [nirvana] nghĩa là sự tắt ngấm [extinction], sự vắng mặt[absence]. Trước hết là sự tắt ngấm của các ý niệm, những ý niệm về thường về ngã. Rồi đến những ý niệm về sinh và diệt, về có, về không, về ta, về người, về một, về nhiều. Những ý niệm này đều căn cứ trên ý niệm về thường và về ngã mà được tạo tác và chúng cũng tạo tác ra bao nhiêu khổ đau. VƯợt thoát vô minh về thường và về ngã thì ta sẽ không còn sợ sinh và sợ diệt nữa. Cho nên niết bàn giúp chúng ta phá hết những ý niệm, bắt đầu phá từ ý niệm về thường và về ngã, nhờ tu tập quán chiếu hàng ngày.

Đạo Bụt nói tới tám ý niệm là sinh, diệt, thường, đoạn, tới, đi, nhiều, một. Tám phép quán chiếu để phá tan tám ý niệm đó gọi là bát bất. Đó là giáo lý trung đạo bát bất, tám cái chẳng phải của giáo lý trung đạo [the eight no of the middle way]. Không sinh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn, không tới cũng không đi, không một cũng không khác, đó là giáo lý bát bất. Có một người tới học với Trúc Lâm Đại Sĩ. Sau khi đã được Trúc Lâm Đại Sĩ giảng giải cho đủ rồi mà người ấy còn muốn hỏi thêm. Trúc Lâm mới đọc hai câu thơ:

Tám chữ tháo tung trao bạn hết còn chi đâu nữa để trình bày?

Tám chữ tháo tung là bát tự đả khai. Khi những khái niệm về thường, ngã, sinh, diệt đã bị phá tan thì niết bàn hiển lộ.

Niết bàn là sự tháo tung của tất cả những khái niệm đó, nhưng cũng là sự tháo gỡ của cả những khái niệm ngược lại. Chúng ta phải thấy rằng niết bàn không những là sự dập tắt của tất cả các ý niệm về thường, về ngã, mà còn là sự dập tắt của cả những ý niệm về vô thườngvô ngã nữa. Bụt cho chúng ta những giáo lý về tam pháp ấn nhưng nếu chúng ta tiếp nhận rồi ôm giữ chúng như những khái niệm cố định thì chúng ta đã làm sai lời Bụt dạy. Sử dụng vô thường như là một chiếc chìa khóa thì được, nhưng kẹt vào ý niệm vô thường thì cũng là sai lạc.

Vô thường cũng có hai mặtthế gianxuất thế gian. Ban đầu ta học hỏi về vô thường, nói về vô thường, thực tập về vô thường. Nhưng quán được vô thường rồi thì ta không nói về vô thường nữa, vì cái định vô thường của ta đã trở thành định vô thường của xuất thế gian [lokuttara]. Khái niệm về thường ta cần vượt thoát, mà khái niệm về vô thường ta cũng cần phải vượt thoát. Khái niệm về ngã ta cần vượt thoát, mà khái niệm về vô ngã ta cũng cần phải vượt thoát. Khái niệm về duyên sinh cũng vậy, về không cũng vậy, về trung đạo cũng vậy, ta đều cần phải vượt thoát.

Kinh Bảo Tích có nói : Thà rằng bị kẹt vào ý niệm có còn hơn bị kẹt vào ý niệm không. Thuốc men nếu không được sử dụng một cách thông minh có thể gây tai hại. Bụt dạy trong Kinh Người Bắt Rắn là phải học hỏihành trì giáo lý một cách thông minh. Chấp về thường và về ngã gây khổ đau; nhưng chấp vô thường, vô ngã cũng có thể gây khổ đau. Nếu ta không biết sử dụng vô thườngvô ngã như những chiếc chìa khóa để quán chiếu thì các ý niệm vô thườngvô ngã có thể sẽ là trở ngại cho bước đường tu học. Cho nên niết bàn có nghĩa vượt thoát mọi khái niệm, cũng là vượt thoát những khổ đau và phiền não do các khái niệm ấy gây ra. Vì vậy ta gọi là niết bàn tịch diệt. Tịch diệt tức là sự vắng lặng. Vắng lặng gì? Sự vắng lặng của tất cả các cặp ý niệm: sinh- diệt, có - không, thường - vô thường, ngã - vô ngã.

Giả thử chúng ta đang ở trong một buổi họp. Chúng ta tranh luận với nhau bằng ngôn từ, bằng ý niệm, chúng ta mệt quá. Mở cửa bước ra ngoài, chúng ta thấy không khí mát mẻ, chim hót, thông reo, hoa nở. Có âm thanh, có hình ảnh, có đủ tất cả, nhưng ta rất an lạc, rất dễ chịu. Trong phòng họp có quá nhiều ý niệm lý luận, tranh chấpsân si, nơi ấy ta không tìm thấy an lạc. Ngoài trời, chúng ta cũng nghe các âm thanh, cũng thấy những hình ảnh, cũng thấy những cảnh sinh hoạt, nhưng rất khác trong phòng họp. Ở ngoài có sự yên vắng, thảnh thơi. Niết bàn là như vậy. Niết bàn không có nghĩa là vắng mặt sự sống, vắng mặt thực tại. Niết bàn là có sự sống, có thực tại, nhưng sự sống và thực tại vượt thoát những khái niệm, vượt thoát những khổ đau do các khái niệm gây ra. Niết bàn là ở đây, niết bàn là bây giờ, đó gọi là hiện pháp niết bàn [drstà-dharma nirvana].

[langmai.org]

Page 13


PHÁP ẤN
Thích Nhất Hạnh giảng


Hôm nay là ngày 20 tháng giêng năm 1994, chúng ta ở tại xóm Thượng và học tiếp về bát chánh đạo.

Trong bài trước chúng ta đang học về chánh định và do đó đã bàn tới chánh kiến. Học về chánh định ta phải nói tới tam tam muội, tức là ba cái định quan trọng, có khi được gọi là tam giải thoát môn. Nhưng muốn hiểu về ba cánh cửa giải thoát, ta cũng cần học về tam pháp ấn. Tam pháp ấn thuộc về lĩnh vực của chánh kiến.

Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó. Tiếng Anh có thể dịch là the three dharma seals. Trong Đại tạngKinh Pháp Ấn. Ba pháp ấn vô thường, vô ngãniết bàn liên hệ tới không, vô tướngvô tác, tức là ba giải thoát môn. Vô thường [impermanence] tiếng Phạn là anitya. Vô ngã [non-self] tiếng Phạn là anatma. Niết bàn tiếng Phạn là nirvana. Giáo lý nào có ba khuôn dấu này là đích thực giáo pháp của Bụt, không thể nhầm lẫn với giáo pháp ngoại đạo.

Danh từ Tam pháp ấn có khi cũng dùng để nói tới tam giải thoát môn. Ba cánh cửa giải thoát [the three gates of liberation] là không, vô tướngvô tác. Vô thường, vô ngã thuộc về thế giới hiện tượng, nghĩa là về tướng [laksana], và niết bàn thuộc về thế giới bản thể, về tánh [svabava]. Tướng là hữu vi [samskrita], tánh là vô vi [asamskrita].

Đạo Bụt Nam truyền không chú trọng nhiều đến tam pháp ấn, nhất là không nhấn đủ mạnh tới tam giải thoát môn, hay tam tam muội. Ba trạng thái định [samadhi] là không tam muội, vô tướng tam muộivô tác tam muội. Đạo Bụt Bắc truyền như ta đã biết nhấn mạnh tới tam pháp ấntam tam muội.

Trong đạo Bụt Nam truyền, Tam pháp ấn được trình bày là vô thường, khổ và vô ngã. Theo tôi đây là do tình trạng thất truyền. Sự thất truyền này là bắt đầu từ sự chắp nối nhầm lẫn trong một đoạn kinh, sau đó qua sự truyền thừa, tất cả những đoạn kinh khác về cùng một đề tài đều lặp lại điều sai lầm đó. Đoạn kinh thuật lời Bụt như sau:

- Này các vị khất sĩ, sự vật là thường hay là vô thường? - Bạch đức Thế Tôn, sự vật là vô thường. - Này các vị khất sĩ, sự vật vô thường thì là khổ hay là vui? - Bạch đức Thế Tôn, sự vật vô thường cho nên là khổ. - Này các vị khất sĩ, nếu sự vật là khổ thì có nên nói cái này là ta, cái này là của ta hay không? - Bạch đức Thế Tôn, vì sự vật là khổ cho nên ta không thể nói được cái này là ta hay là của ta.

Đoạn kinh đó được nhắc lại hàng trăm, hàng ngàn lần trong kinh điển. Chỗ nào có nói tới vô thườngvô ngã là có nói đến khổ, và về sau cứ tiếp tục như vậy. Cho nên khi nói với các vị Phật tử Nam tông rằng tam pháp ấnvô thường, vô ngãniết bàn thì họ không chấp nhận. Họ bảo trong Kinh nói rằng tam pháp ấnvô thường, khổ và vô ngã, chứ không phải vô thường, vô ngãniết bàn.

Điều này không có nghĩa là Kinh điển Bắc tông khi nói về vô thường, vô ngã không nói tới khổ. Các đoạn đối thoại giữa Bụt và các thầy khất sĩ cũng giống hệt như trong kinh ở Nam tông:

- Này các vị khất sĩ, sự vật thường hay là vô thường? - Bạch đức Thế Tôn, sự vật vô thường. - Này các vị khất sĩ, nếu sự vật vô thường thì là khổ hay là vui? - Bạch đức Thế Tôn, khổ. - Này các vị khất sĩ, nếu sự vật là khổ thì ta có nên nói nó là ta hay là của ta không? - Bạch đức Thế Tôn, không.

Tuy nhiên, chúng ta có thể chứng minh giáo lý tam pháp ấn chắc chắnvô thường, vô ngãniết bàn. Trong kinh tạng Bắc tông, còn Kinh Tạp A Hàm, Kinh số 262, quyển thứ mười lặp đi lặp lại năm lần công thức vô thường, vô ngãniết bàn.

Nhất thiết hạnh vô thường Nhất thiết pháp vô ngã Niết bàn tịch diệt.

Ba câu đó nghĩa là đứng về phương diện thế giới hiện tượng thì ta thấy có khổ đau vì vô thườngvô ngã, nhưng đứng về phương diện bản tánh thì vẫn có vắng lặng, vẫn có bình yên. Mặt khác, tác phẩm Đại Trí Độ Luận [Mahaprajnaparamita] của thầy Long Thọ sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ hai, sau Thiên Chúa giáng sinh, cũng nói rất rõ rằng Tam pháp ấnvô thường, vô ngãniết bàn.

Thật ra lý luậnvô thường cho nên khổ, vì khổ cho nên vô ngã không đủ vững chắc, và có thể gây hiểu lầm về vô thườngvô ngã. Vô thườngvô ngã nằm ở một bình diện khác với khổ. Ví dụ như cái bàn này. Cái bàn này là thực tại. Cái bàn này là vô thường, nói vậy chúng ta hiểu được. Cái bàn này là vô ngã, đúng. Nhưng cái bàn này là khổ thì ta khó quan niệm được. Nói rằng vì vô thường cho nên khổ, vì khổ cho nên vô ngã, lý luận đó nghe không thuận. Có thể nói rằng vì sự vật vô thườngvô ngãchúng ta không biết, cứ cho là thường, là có ngã cho nên ta khổ, nói như vậy xuôi hơn.

Khi nghiên cứu kinh điển, ta phải dùng trí phán đoán suy xét để có thể loại bỏ những sai lầm lưu cữu trong lịch sử. Ban đầu chúng ta có Đạo Bụt Nguyên Thỉ [Original Buddhism], sau thời gian một trăm năm thì đạo Bụt ấy biến thành Đạo Bụt Bộ Phái [Multiple Schoolsí Buddhism]. Hai trăm năm sau khi Bụt nhập diệt, giáo đoàn phân liệt ra, tối thiểu là mười tám bộ phái, nên gọi là Đạo Bụt Bộ Phái. Hai truyền thống trong số các bộ phái đó còn để lại rất nhiều kinh điểnchúng ta có thể so sánh, đó là truyền thống Hữu Bộ [Sarvastivada] và truyền thống Đồng Diệp Bộ [Tamrasatiya]. Sau này, Đạo Bụt Đại Thừa, phát sinh vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, gọi các Bộ PháiTiểu Thừa, và tự gọi mình là Đại Thừa. Những trường phái phân liệt ra vào khoảng từ một trăm tới ba trăm năm sau khi Bụt nhập diệt đều gọi là Đạo Bụt Bộ Phái cả. Và Đạo Bụt Bộ Phái không phải là chỉ có trong Đạo Bụt Nam Truyền, Đạo Bụt Bắc Truyền cũng có Bộ Phái, phân hệ từ thời đại vua Asoka [A Dục]. Trong hai hệ phái, Hữu BộPhân Biệt Thuyết Bộ, Hữu Bộ [Savastivada] truyền lên miền Bắc, vùng Kashmir, phát triển tại đó một ngàn năm. Vặn tự sử dụng trong Hữu Bộ là chữ Sanskrit. Trong khi đó, Phân Biệt Thuyết Bộ được chính thức ủng hđo, phát triển tại nơi gốc, và một phần được truyền qua Tích Lan. Đạo Bụt truyền qua Tích Lan thuộc về Đồng Diệp Bộ, bộ phái các thầy mặc áo vàng màu đồng đỏ, gọi là Xích Đồng Diệp Bộ. Sau họ bỏ tên đó, dùng tên Theravada, nghĩa là Thượng Tọa Bộ, cho có tính cách chính thống hơn.

Xích Đồng Diệp Bộ thừa hưởng văn hệ Abhidharma, tức là Luận Bộ [A Tỳ Đàm] của Phân Biệt Thuyết Bộ. Trong khi đó Hữu Bộ tại miền Bắc cũng rất hưng thịnh, trước tác nhiều bộ luận. Những bộ luận lớn là Tỳ Bà Sa Luận, đã được phiên dịch ra chữ Hán, tồn tại cho tới hôm nay.

Đạo Bụt Bộ Phái không phải chỉ có mặt trong Đạo Bụt Nam Truyền Tích Lan, mà ở phương Bắc cũng có. Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản cũng được thừa tiếp Đạo Bụt Bộ Phái. Giới luật của các khất sĩ, nữ khất sĩ cũng đều là giới luật được trao truyền từ Đạo Bụt Bộ Phái. Từ Kashmir [chữ Hán là Ca Thấp Di La], Hữu Bộ đã đưa đạo Bụt với những Kinh A Hàm vào Trung Hoa và các xứ Á đông. Tại Việt Nam chúng ta có thể đọc Kinh Nikaya từ chữ Pali do Xích Đồng Diệp Bộ truyền lại, và chúng ta có thể so sánh với các Kinh A Hàm bằng chữ Hán.

Khi so sánh về sự hành trì cũng như về kinh điển, chúng ta mới thấy Đạo Bụt Bắc Truyền, dầu là gốc Đạo Bụt Bộ Phái, cũng còn giữ được giáo lý chân truyền về tam pháp ấn: vô thường, vô ngãniết bàn. Chứng cớ thứ nhất đã nêu ra là trong Tạp A Hàm, Kinh 262, vô thường, vô ngãniết bàn là ba pháp ấn. Chứng cớ thứ hai là thầy Long Thọ, vào thế kỷ thứ hai, đã nói rõ ràng tam pháp ấnvô thường, vô ngãniết bàn. Vậy nghiên cứu Đạo Bụt Bộ Phái và Đạo Bụt Đại Thừa chúng ta có thể tìm lại được Đạo Bụt Nguyên Thỉ. Đó là công việc chúng ta đang làm và phải làm.

Vậy pháp ấn đầu tiên, con dấu đầu tiên, là nhất thiết hạnh vô thường, tất cả mọi hiện tượng được tập hợp nên đều vô thường. Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hữu vi là những pháp thuộc thế giới hiện tượng. Nếu một giáo lý, một học thuyết nào không mang dấu ấn này thì không phải là Phật pháp.

Nhưng giáo lý vô thường [impermanence] có khác với ý niệm về vô thường vẫn có ở ngoài đời. Theo nguyên tắc tương tứctương nhập, giáo lý vô thường phải phản ảnh những giáo lý khác của đạo Bụt, nó không được đi ngược với những giáo lý khác trong đạo Bụt. Trên thế giới có rất nhiều nguồn tư tưởng nói đến tính vô thường. Ví dụ khi đức Khổng Tử đứng trên bờ sông và nhìn xuống nước, ngài cũng thấy dòng sông là vô thường: ‘‘Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ?’’ nghĩa là ‘‘trôi chảy hoài, ngày đêm không thôi, như thế này ư?’’ Như vậy đạo Khổng cũng dạy về vô thường. Triết học Tây phương cũng có cái thấy về vô thường. Heraclite nói: ‘‘Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông’’. Chúng ta xuống sông bơi một lần rồi đi lên, khi xuống lại lần thứ hai thì dòng sông đã khác rồi. Tóm lại, các bậc hiền giả nhiều đời đã nhìn thấy thế giới hiện tượngvô thường.

Nhưng vô thường không tất yếu đưa tới khổ, như lý luận cho rằng hễ vô thường là khổ. Nếu xét kỹ thì vô thường có thể đem lại niềm vui. Vô thường nghĩa là sự vật không duy trì được tính chất đồng nhất bất biến, chúng luôn luôn thay đổi. Như vậy vô thườngđặc tính đích thực của sự sống. Nếu khôngvô thường thì không có sự sống. Ví dụ như một hạt ngô. Nếu hạt ngô thường tại thì nó không bao giờ có thể trở thành cây ngô được cả. Nếu sự vật thường tồn thì không có sự sống. Một Phật tử người Anh học Phật và thực tập Phật pháp, về nhà nói chuyện giáo lý cho gia đình nghe. Anh đã nói theo lý luận rằng vì sự vật vô thường [impermanent] cho nên mình khổ. Đứa con gái hỏi: ‘‘Ba nói cái gì lạ vậy? Nếu mà mọi sự vật cứ mãi mãi không thay đổi, con làm sao lớn lên thành thiếu nữ được?’’

Sự thật đơn giản như vậy. Nếu sự vật không vô thường thì em bé không bao giờ trở thànhthiếu nữ. Cô bé tuy không học kinh sách nhưng cô hiểu Bụt nhiều hơn là ông bố. Người cha thấy trong vô thường mùi vị của bi quan, nhưng chính cô bé thấy được rằng nhờ sự vật vô thường cho nên có sự sống. Nếu sự vật không vô thường thì chúng ta làm gì có hy vọng một ngày mai bệnh ta sẽ lành hoặc ta có thể thay đổi một chế độ độc tài? Cho nên vô thường đem lại niềm tin rằng ta có thể chuyển đổi được tình trạng, rằng ngày mai trời lại sáng. Do đó vô thường không nhất thiết phải là nguyên nhân của khổ.

Nguyên nhân của khổ là sự vật vô thườngchúng ta tưởng là thường. Trong kinh Bảo Tíchcâu chuyện con chó bị ném cục đá, nó chạy theo cục đá mà sủa, vì tưởng cục đá là nguyên do làm nó đau. Cũng vậy, vô thường không gây ra khổ, mà chính vì nhận thức sai lạc cho những gì vô thường là thường tại cho nên ta khổ. Khi có sức khỏe mà không ý thức được tính cách vô thường của thân thể thì ta có thể đánh mất sức khỏe. Ý thức về vô thường giúp ta biết bảo vệ sức khỏe, biết ăn, uống, làm việc một cách điều độgiữ gìn thân thể của mình. Vậy ý thức về vô thường có thể đưa tới hạnh phúc. Nhiều người đã sống qua tuổi trẻ nhưng chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc trong tuổi trẻ của mình, vì họ không có ý thức về vô thường. Mình tưởng như mình sẽ trẻ hoài, ai ngờ ngoảnh qua ngoảnh lại vài cái, tuổi trẻ đã đi đâu mất.

Cho nên thực tập vô thường quán giúp cho ta biết quý trọng từng giờ phút của sự sống. Và khi ta đã biết quý trọng từng giờ phút của sự sống, thì ta cũng biết chăm sóc và vun tƯới, để nuôi dưỡng những gì hiện ta đang là và đang có. Tuổi trẻ như thế mà người thương cũng thế. Ý thức được rằng mình có một người thương hay mình đang thương một người, ta đang có hạnh phúc. Nhưng ta phải biết rằng tình thương đó cũng vô thường. Nếu người đang thương yêu không nuôi dưỡng hiểu biếttình thương của chính mình thì tình thương cũng mòn mỏi rồi tiêu diệt. Nếu người được thương yêu không biết bảo trì tính dễ thương và tươi tắn của mình thì cũng sẽ đánh mất lòng thương yêu.

Cho nên có ý thức về tính vô thường ta biết sống từng giờ, từng phút trong chánh niệm, biết duy trì lòng thương của ta, và tính chất đáng yêu của ta. Khi hai người kết hôn và về ở với nhau, họ có thể có tình thương nồng nhiệt trong những năm đầu. Nhưng nếu họ không sống trong ý thức vô thường, cứ nghĩ rằng mình luôn luôn là mình, người kia luôn luôn là người kia, thì hạnh phúc sẽ không bền vững được. Sống không có ý thức về vô thường, sống không chánh niệm, không biết bồi đắp tình thương, thì có thể một ngày kia, người ta sẽ ‘‘anh đi đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi.’’

Thành ra vô thường quán rất quan trọng. Thứ nhất, nó cho ta biết cái gì đang có trong giây phút hiện tại là quý giá và đẹp đẽ, ta phải trân trọng, bảo tồn cho ta và cho những người xung quanh ta. Thứ hai, khi thấy tình trạng hiện tại không được như ý thì ta cũng không chán nản. Sự vật vô thường, nếu ta biết cách chuyển hóa thì ngày mai tình trạng sẽ thay đổi. Trước ngày bức tường Bá Linh đổ, rất nhiều người cứ nghĩ rằng bức tường Bá Linh sẽ ở đó cả ngàn năm. Đến khi bức tường Bá Linh đổ họ mới thấy rằng bức tường Bá Linh cũng vô thường. Và sau bức tường Bá Linh còn nhiều thứ cũng sẽ đổ theo, vì niềm tin vào một chủ thuyết cũng đã sụp đổ. Trong đời sống hàng ngày của mỗi người tình trạng cũng vậy. Ta có niềm tin vào một người, hay ta được một người tin, nhưng nếu ta không thực tập quán chiếu vô thường, không thực tập sống chánh niệm, thì niềm tin đó có thể tan rã. Phải nhìn vào sự sống trong từng giây từng phút và dùng ánh sáng chánh niệm chiếu rọi để thấy được tính vô thường, để thấy mình đang tiến hay lùi trong sự xây dựng hạnh phúcan lạc. Nếu vững chãian lạc đang giảm sút thì ta phải tìm biết những nguyên do để kịp thời cứu chữa và thay đổi.

Vô thườngvô ngã

Hiểu vô thường trong tinh thần tương tứctương nhập thì ta mới hiểu đúng giáo lý đạo Bụt. Vô thường cũng chỉ là vô ngã đứng về phương diện thời gian mà nói, nhưng hai tính đó đích thực là một. Ngã tức là tính đồng nhất. Vô thường là tính thay đổi. Khi một cái gì thay đổi, nó không còn tính cách đồng nhất của nó, do đó nó vô ngã. Phải hiểu vô thườngvô ngã thì ta mới thực sự hiểu vô thường được. Nếu nói vô thường là bước thứ nhất, sau khi học bước đó rồi thì mới đi bước thứ hai, mới hiểu vô ngã, nói vậy là chưa hiểu đạo Bụt. Theo đạo Bụt, một giáo pháp trùm chứa tất cả các giáo pháp khác. Nhất pháp nhập nhất thiết pháp, nhất thiết pháp nhập nhất pháp, one dharma enters all dharmas, all dharmas enter one dharma, đó là lời Kinh Hoa Nghiêm. Nhiều giòng tư tưởng khác cũng nói tới vô thường. Nhưng giáo lý vô thường trong đạo Bụt thật đặc biệt vì ở các truyền thống khác ít ai nói tới tính vô ngã.

Vô thường là một chiếc chìa khóa Bụt trao cho chúng ta để mở cửa thực tại. Bụt dạy chúng ta phải sử dụng cái chìa khóa đó để đi vào thực tại. Nếu chỉ đàm luận, khảo cứu về vô thường mà không thực tập vô thường quán trong đời sống hàng ngày thì chúng ta không sử dụng chiếc chìa khóa như Bụt ước muốn. Thay vì dùng chiếc chìa khóa để mở cửa thực tại thì chúng ta đem cái chìa khóa đó đặt trên bàn thờ và sì sụp lạy. Dù ta có lạy mỗi ngày một trăm lẻ tám lạy, thì cái chìa khóa đó cũng không có ích lợi gì cả. Cho nên vô thường ở đây không phải là một lý thuyết, một triết học, mà là một phép sống, gọi là vô thường quán [contemplation on impermanence]. Mà quán vô thường thì quán vào những lúc nào? Chúng ta quán trong khi ăn cơm, trong khi rửa chén, trong khi giặt áo, trong khi tiếp xử với bạn bè với anh chị em, với bản thânvạn vật quanh ta.

Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật. Quán chiếu như vậy không phải là để than thở rằng vạn vậtvô thường, không có gì đáng lưu tâm, thôi đừng làm gì nữa cho khỏe. Đó là một thái độ sai lầm rất lớn về vô thường. Vô thường là một cơ hội cho sự sống và cho sự chuyển hóa. Nhờ vô thườngchúng ta có thể thực hiện được mọi tự do. Chúng ta có thể làm cho khổ trở thành vui, chúng ta có thể thay đổi tình trạng xã hội. Đạo đế được thiết lập trên căn bản vô thường. Đạo đế là để chuyển hóa sự vật, nếu sự vật không vô thường thì đạo đế dùng để làm gì? Cho nên vô thường không phải là những nốt nhạc sầu thảm, tiêu cực. Nếu anh, nếu chị nghĩ tới vô thường như những điệu nhạc sầu thảm, thì anh và chị hoàn toàn không hiểu giáo lý vô thường. Rất ít người học Phật chịu thấy điều đó. Trong khi ấy giáo lý rất minh bạch. Chúng ta mới học quán chiếu mà đã thấy được rằng vô thường đích là vô ngã. Không vật gì có tính đồng nhất; cái này liên hệ tới cái kia. Từ lúc ta bước vào thiền đường này gần một tiếng đồng hồ đã đi qua, và ta đã thay đổi! Đứng về phương diện cơ thể và đứng về phương diện tâm thức, ta đã thay đổi. Không khí và máu huyết trong ta, các tế bào trong ta đã thay đổi. Ta không giữ được tính đồng nhất của ta trong hai mươi phút liên tiếp. Cho nên ta vô ngã, và ta biết rằng ta được tạo thành bằng những yếu tố không phải là ta. Hãy nhìn cây ti-dơn ngoài kia, ta cũng được cấu tạo thành bằng chất liệu của cây đó. Nếu không có cây ti-dơn ở đó thì ta đã khác. Cây ấy đã tặng cho ta rất nhiều niềm vui. Cây đó đã nuôi dưỡng ta trong mười mấy năm nay. Nếu không có sư anh, sư chị, sư cô và sư chú thì ta sẽ khác, và như vậy sư anh, sư chị, các sư cô và sư chú đã nuôi dưỡng ta, đã làm cho ta khác. Vì vậy ta biết ta được làm bằng bao nhiêu yếu tố không phải là ta [the self is made of non-self elements]. Đó là vô ngã. Và ta phải thấy và biết rằng hạnh phúc, an lạc của ta tùy thuộc nơi những yếu tố không phải ta. Sư em hạnh phúc được là nhờ sư chị. Sư chị hạnh phúc được là nhờ sư em. Nếu một trong hai người không có hạnh phúc thì người kia cũng khó có hạnh phúc. Vì vậy hạnh phúc không phải là vấn đề của mỗi cá nhân. Điều này là tuệ giác phát xuất từ vô thường quán hay vô ngã quán. Cho nên ta phải tu tập như thế nào để cho cha mình, mẹ mình và những người quanh mình đừng đau khổ, thì lúc đó ta mới có hạnh phúc.

Đi tìm hạnh phúc riêng tư là điều sai lầm phải tránh. ‘‘Tôi phải bỏ nhà đi, tôi phải bỏ cha, bỏ mẹ, để đi tìm tự do, để đi tìm bản ngãhạnh phúc cá nhân của tôi, tôi chỉ còn cách đó.’’ Nói vậy không đúng. Vì tuy muốn bỏ đi nhưng không ai thật sự ra đi được một mình! Trong tâm tư ta sẽ mang theo hết các thứ đi theo mà ta không biết. Dầu có trốn đi biệt tích thì tất cả vẫn đeo theo bên ta. Tàng thức của ta chuyên chở theo tất cả, không bỏ sót lại một cái gì. Cho nên vô thường quán hay vô ngã quán giúp ta thấy được cách ta sống, cách ta hành xử như thế nào trong đời sống hàng ngày, để ta có thể thực sự xây dựng an lạchạnh phúc.

Vô thườngvô ngã là một. Thực tập quán vô thường thâm sâu thì tự nhiên ta thấy được lẽ vô ngã. Thực tập vô ngã cho sâu sắc thì tự nhiên ta thấy được lẽ vô thường. Đó là tính cách mầu nhiệm của nguyên lý tương tức tương nhập trong đạo Bụt. Giáo lý Duyên sinh [interdependence, co-production] trong đạo Bụt giải bày sự hình thành của các hiện tượng nương vào nhau mà có mặt. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Cái này như thế này vì cái kia như thế kia. Duyên sinh cũng là vô ngãvô thường, nhìn từ một góc cạnh khác. Hiểu vô thườngduyên sinh thì mới là hiểu vô thường đúng mức.

Quán sát một hiện tượng nào đó trong thời giankhông gian, chúng ta có thể tưởng rằng nó bắt đầu ở đây và chấm dứt ở kia. Nghĩ như vậy là sai. Vì mỗi hiện tượng trong không gianthời gian luôn luôn xúc tiếp và trao đổi với bên ngoài, với môi trường quanh nó. Hiện tượng trao đổi này xảy ra trong từng giây từng phút. Đó gọi là duyên sinh. Vì vậy vô thường cũng chỉ là duyên sinh mà thôi. Tu học, mỗi ngày mở tấm lòng ta ra cho những điều kiện tốt đi vào nuôi dưỡngchuyển hóa cho ta thành ra tốt đẹp hơn, đó là thuận theo tính duyên sinh. Còn nếu ta khép cái vỏ sò của mình lại kín bưng, tức là ta đã không thấy tính duyên sinh của chính mình.

Thay vì nói vô thường, vô ngã, duyên sinh người ta có thể nói đến Không. Không trước hết là không có đồng nhất tính, nghĩa là vô ngã. Nếu Không có nghĩa là Vô ngã, thì Không cũng có nghĩa là duyên sinh.

Không, giả và trung

Trong Đại Trí Độ Luận có một bài kệ rất hay mà thầy Trí Giả thuộc phái Thiên Thai đã sử dụng để lập nên pháp môn tam quán là Không, Giả, và Trung. Bài kệ như sau:

Nhân duyên sở sinh pháp Ngã thuyết tức thị không Diệc danh vi giả danh Diệc danh trung đạo nghĩa.

Dịch:

Các pháp do duyên sinh Tôi gọi chúng là không Cũng gọi là giả danh Cũng gọi là trung đạo

Chúng ta hãy tìm hiểu từng câu. Nhân duyên sở sinh pháp tức là những hiện tượng, do nhân và duyên sinh ra [all phenomena that are produced by conditions]. Ngã thuyết tức thị không nghĩa là tôi tuyến bố rằng chúng đều là không. Duyên sinh nghĩa là không, đó là lời thầy Long Thọ. Nhưng cái không này không phải là ngược lại với cái có. Chữ không này chỉ có nghĩa là duyên sinh, là vô ngãvô thường. Câu thứ ba: Diệc danh vi giả danh. Giả danh là có một cái tên, nhưng chỉ là cái tên giả. Một cái danh để gọi của một sự vật mà ta tưởng là không thay đổi là thường là ngã. Trong khi đó sự thực thay đổi từng giờ, từng phút. Cho nên ta nói cái tên ấy là giả danh, vì cái danh bất biến không gọi đúng được cái thực tại luôn thay đổi. Hơn nữa gọi tên một sự vật là giới hạn sự vật đó trong thời giankhông gian, cắt nó ra khỏi ngoại cảnh, che lấp mất những liên hệ giữa nó với những hiện tượng khác trong vũ trụ.

Khi chúng ta gọi tên một đóa hoa, tên gọi đó phân cách rõ ràng bông hoa và tất cả các thứ không phải là bông hoa. Bông hoa không thể nào là gốc cây được. Bông hoa không thể nào là cÒn gió hay là đám mây được. Nhưng sự thật thì đóa hoa cũng đồng thời là gốc cây, là đám mây, là mặt trời, là trái đất. Vì đóa hoa là vô ngã, vì đóa hoa là vô thường, vì nó là duyên sinh vì hoa là không, cho nên khi ta dùng danh từ hoa để gọi nó là ta đã bắt đầu sự sai lầm. Vì vậy mỗi tên gọi là một giả danh. Mọi sự vật là một giả danh.

Những điều trên có thể được diễn tả bằng ý niệm trung đạo. Trung đạo tức là không phải có mà cũng không phải không. Ý niệm về không cốt để giúp ta thoát khỏi vọng tưởng là có những thực thể riêng biệt, nhưng chúng ta cũng dễ bị vướng ngay vào ý niệm không này. Đưa ra ý niệm về trung đạo là để cho ta thoát ra khỏi cả ý niệm về không lẫn về có. Trung đạo nghĩa là không có cũng không không. Ở một thiền viện kia có treo bốn chữ hữu vô nhị vong, tức là cả hữu cả vô đều biến mất. Siêu việt có và không thì mới đạt tới trung đạo.

Đạo Bụt có khi nói thế giới hiện tượngvô thường, có khi nói là vô ngã, có khi gọi là duyên sinh, có khi gọi là không. Và trung đạo xét cho cùng cũng chỉ là không, là duyên sinh, là vô ngã, là vô thường. Hiểu vô thườngtrung đạo tức là hiểu vô thường khá sâu sắc. Và chúng ta lại còn nhận thức về tương tức. Tương tức nghĩa là cái này và cái kia là một. Bông hoa là mặt trời, bông hoa hiện hữu cùng với mặt trời. Tương tức như vậy cũng chỉ là duyên sinh thôi. Vậy tương tức cũng là trung đạo, là vô ngã, là không và là vô thường.

Vô thường, hay vô ngã, hay duyên sinh, hay là không, hay là tương tức, tất cả đều là những chìa khóa để mở cửa thực tại. Mở cửa thực tại trong mỗi giây mỗi phút bằng sự quán chiếu. Nếu không có niệm và không có định thì cả chùm chìa khóa sẽ cũng không được sử dụng. Trong vô minh, trong ảo tưởng thường và ngã, chúng ta khổ đau. Bụt đưa chìa khóa vô thườngvô ngã cho chúng ta quán chiếu để chúng ta phá tan địa ngục đau khổ.

Niết bànvô tác

Khi dùng chìa khóa vô thườngvô ngã để mở cửa thực tại thì chúng ta có cơ hội tiếp xúc được với bản thân thực tại, gọi là niết bàn. Niết bàn có mặt ngay bây giờ mà không phải là một đối tượng có thể tìm kiếm ở tương lai. Cây đèn này, chiếc bình này, hay bông hoa này đều có tính niết bàn. Nó có tính vô thường, tính vô ngã và tính niết bàn cùng một lúc. Giống như là một đợt sóng trên đại dương. Đợt sóng trên đại dương thuộc về thế giới hiện tượng. Trong thế giới của sóng có cao, có thấp, có lên, có xuống, có bắt đầu, có chung cuộc, có đợt sóng này và đợt sóng kia, có ngã và phi ngã. Nhưng nhìn vào nước ta có thể nhận ra được một tính khác của sóng : nước vốn không cao, không thấp, không sinh, không diệt, không có đợt này đợt kia. Mà sóng không cần biến đi rồi thì mới thành nước. Sóng là nước ngay tự bây giờ và ở đây. Vì vậy chúng ta thấy niết bàn ở ngay trong hiện tại. Chúng ta đang an trú ở trong niết bàn. Kinh Pháp Hoa nói : các pháp từ xưa nay vẫn an trú trong niết bàn [chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng]

Bụt đã giao cho chúng ta chiếc chìa khóa quán chiếu vô thườngvô ngã. Càng tiếp xúc với thực tại vô thườngvô ngã thì ta càng tiếp xúc sâu sắc với niết bàn, đạt tới niềm an lạc không sợ hãi, gọi là vô úy. Nếu chúng ta đang lo sợ về cái chết, đó là vì ta đang còn vọng tưởng dựa trên ý niệm về thường và ngã. Chúng ta khổ vì vô minh, nghĩ thực tại là thường, là ngã. Dùng chánh niệmchánh định sống trong ý thức về vô thườngvô ngã, ta đạt tới niết bàn, đi tới tình trạng vô úyan lạc. Chúng ta không cần phải chạy đi tìm hạnh phúcan lạc ở đâu nữa, đó là giáo lý niết bàn [You are already where you want to go. ]

Trong đạo Bụt có giáo lý vô tác [nothing to be done], có khi gọi là vô nguyện. Vô nguyện tức là không còn muốn gì nữa hết không có dự án nào cần được thực hiện nữa hết, vì tất cả đã được hoàn thành sẵn rồi. Trong bài thơ ‘‘Bướm bay vườn cải hoa vàng’’, tôi có viết một câu mà chính lúc viết tôi cũng không có ý thức rõ rệt:

Công trình xây dựng ngàn đời

Nhưng công trình em ơi, đã được ngàn đời hoàn tất.

Sự tu học thấm vào con người ta, cho đến khi ta viết ra một câu thơ thì ta viết tự nhiên như vậy thôi, không có chủ định thuyết pháp, cũng không có chủ đích nói về thế giới hiện tượngthế giới bản thể.

Vườn cải hoa vàng Chính mắt tôi vừa thấy sáng qua Tôi không ngủ mơ đâu Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ Chúng mình còn đây Hôm nay và ngày mai nữa Đến đây, khi khát chúng ta cùng uống ở một giếng nước thơm, trong Ai nói cho em nghe rằng Thượng đế đã bằng lòng cho con người khổ đau đứng dậy hợp tác cùng người Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp Khổ đau vì không tự biết là lá là hoa Em hát ca đi, bông cúc cười theo em bên hàng dđau áừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát Những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình!

Những điều bài thơ nói ra, nếu đọc lại với nhận thức về tam pháp ấn ta sẽ thấy hàm chứa ý tưởng ‘‘vạn pháp an trú trong niết bàn’’. Ta không cần đi tìm, không cần phải thực hiện gì cả. Khi trở về tiếp xúc được với bản thể và với tự tánh của chính ta thì tự nhiên ta đạt tới an lạc.

môn học gọi là Eschastology, có thể dịch là Mạt Thế Luận, nghiên cứu về chung cuộc của vũ trụ, của con người [the final destination of man and of the cosmos]. Trong những truyền thống tôn giáo khác như CÒ Đốc giáo, môn này rất được quan tâm. Người ta giả định thời gian như một đường thẳng. Thời giankhông gian làm khung cho tất cả mọi thứ, như vậy thì mỗi vật và mỗi người đều có một chung cuộc. Nhưng đứng trên quan điểm Tam Pháp Ấn, chúng ta thấy rằng ý niệm về thời giankhông gian chỉ là những sản phẩm của trí óc, của vọng tưởng. Niết bànchúng ta theo đuổi, nó có ngay trong hiện tại, bây giờ và ở đây. Thành ra danh từ ‘‘nhập niết bàn’’ cũng dễ gây hiểu lầm. Chúng ta ai cũng đang ở trong niết bàn mà không biết, đi tìm ở đâu, nhập vào đâu nữa? Vô tác, hay vô nguyện nghĩa là không có đối tượng để chạy đuổi theo. Vô tác là Apranihita, nghĩa là không đặt phía trước mình một đối tượng để chạy theo. Tiếng Pháp là Non-poursuite, tiếng Anh là Wishlessness.

Trong đạo Bụt lại có ý niệm vô đắc [non-obtaintion: nothing to be obtained]. Có thể nói một cách đơn giản là ta đã là cái gì mà ta muốn trở thành rồi [you are already what you want to become]. Đó là tinh thần vô tác, vô nguyện, vô đắc, và đó là giáo lý niết bàn. Là một cđau bé ba tuổi đã là tuyệt mơy rồi, anh không cần phải chờ thành một cđau sinh viên 22 tuổi. Là một chú sa di, đã là mầu nhiệm lắm rồi, sư chú không cần phải trở nên một vị thượng tọa thì mới an vui. Nghe thầy Minh Đức hỏi các sư cô ở chùa Đức Viên : ‘‘Sau khi làm đại đức, thì sẽ lên chức gì nữa?’’ Các sư cô nói: ‘‘Lên thượng tọa’’ Thầy lại hỏi: ‘‘Sau thượng tọa, thì lên làm gì?’’ Các sư cô nói: ‘‘Lên hòa thượng.’’ Rồi thầy hỏi: ‘‘Sau hòa thượng thì lên cấp gì nữa?’’ Các sư cô trả lời không được. Thầy đã trả lời : ‘‘Lên ngồi trên bàn thờ!’’

Làm sa di đã mầu nhiệm lắm rồi, đâu cần phải chờ đợi khi lên làm tỳ kheo? Làm tỳ kheo mầu nhiệm lắm rồi, không cần chờ lên giáo thọ. Mà giáo thọ cũng mầu nhiệm lắm rồi, không cần phải chờ làm đại giáo thọ hay hòa thượng. Khi trở về được và an trú trong bản tính niết bàn của mình thì hạnh phúc tràn đầy, ta không cần phải tìm kiếm gì nữa, đó là giáo lý vô tác, hay vô đắc.

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương [Kinh Bốn Mươi Hai Đoạn], một trong những Kinh sớm nhất đã lưu nhập ở Việt Nam, có câu: ngã pháp hành vô hành hạnh, tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng. Nghĩa là: Pháp của tôi là thực hành cái vô hành, tu tập cái vô tu, chứng ngộ cái vô chứng.

Đó là tu tập theo tinh thần vô tác.

Tám chữ tháo tung

Có thể nói rằng chánh kiến là cái thấy sâu sắc về vô thường, vô ngãniết bàn. Đó là những chìa khóa để sử dụng trong đời sống hàng ngày. Sau khi đã nghe về ba pháp ấn rồi ta phải đi đứng, nói năng, ăn cơm, làm việc như thế nào để quán chiếu ba đặc tính đó của vạn vật. Sống và tu học hàng ngày như vậy thì đúng chánh pháp, còn nếu không thì ta sẽ phụ ơn Tam Bảo.

Chúng ta phải nhớ rằng vô thườngvô ngã, niết bàn là ba phép quán. Sống có niệm và có định trên ba pháp ấn này thì chúng ta sẽ chắc chắn có tuệ. Về chánh định, chúng ta nói đến tam tam muội, tức là không, vô tướngvô tác. Không, vô tướngvô tác, có khi được gọi là tam giải thoát môn [ba cánh cửa giải thoát]. Chúng ta dùng hình ảnh chìa khóa vì hình ảnh này gợi ý mở cửa giải thoát. Sống tu học theo pháp môn này, ta an trú trong niệm về không, niệm về vô tướng, niệm về vô tác và cũng an trú trong định về không, định về vô tướng, và định về vô tác. Không, vô tướngvô tác cũng là kết quả của sự quán chiếu về vô thường, vô ngãniết bàn. Quán chiếu vô thường, vô ngãniết bàn thì chúng ta cũng bắt đầu thấy và hiểu được không, vô tướngvô tác. Thấy sâu vào bình diện hiện tượng là thấy được bình diện bản thể. Trong tướng chúng ta thấy tánh, trong tánh chúng ta thấy tướng.

Niết bàn [nirvana] nghĩa là sự tắt ngấm [extinction], sự vắng mặt[absence]. Trước hết là sự tắt ngấm của các ý niệm, những ý niệm về thường về ngã. Rồi đến những ý niệm về sinh và diệt, về có, về không, về ta, về người, về một, về nhiều. Những ý niệm này đều căn cứ trên ý niệm về thường và về ngã mà được tạo tác và chúng cũng tạo tác ra bao nhiêu khổ đau. VƯợt thoát vô minh về thường và về ngã thì ta sẽ không còn sợ sinh và sợ diệt nữa. Cho nên niết bàn giúp chúng ta phá hết những ý niệm, bắt đầu phá từ ý niệm về thường và về ngã, nhờ tu tập quán chiếu hàng ngày.

Đạo Bụt nói tới tám ý niệm là sinh, diệt, thường, đoạn, tới, đi, nhiều, một. Tám phép quán chiếu để phá tan tám ý niệm đó gọi là bát bất. Đó là giáo lý trung đạo bát bất, tám cái chẳng phải của giáo lý trung đạo [the eight no of the middle way]. Không sinh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn, không tới cũng không đi, không một cũng không khác, đó là giáo lý bát bất. Có một người tới học với Trúc Lâm Đại Sĩ. Sau khi đã được Trúc Lâm Đại Sĩ giảng giải cho đủ rồi mà người ấy còn muốn hỏi thêm. Trúc Lâm mới đọc hai câu thơ:

Tám chữ tháo tung trao bạn hết còn chi đâu nữa để trình bày?

Tám chữ tháo tung là bát tự đả khai. Khi những khái niệm về thường, ngã, sinh, diệt đã bị phá tan thì niết bàn hiển lộ.

Niết bàn là sự tháo tung của tất cả những khái niệm đó, nhưng cũng là sự tháo gỡ của cả những khái niệm ngược lại. Chúng ta phải thấy rằng niết bàn không những là sự dập tắt của tất cả các ý niệm về thường, về ngã, mà còn là sự dập tắt của cả những ý niệm về vô thườngvô ngã nữa. Bụt cho chúng ta những giáo lý về tam pháp ấn nhưng nếu chúng ta tiếp nhận rồi ôm giữ chúng như những khái niệm cố định thì chúng ta đã làm sai lời Bụt dạy. Sử dụng vô thường như là một chiếc chìa khóa thì được, nhưng kẹt vào ý niệm vô thường thì cũng là sai lạc.

Vô thường cũng có hai mặtthế gianxuất thế gian. Ban đầu ta học hỏi về vô thường, nói về vô thường, thực tập về vô thường. Nhưng quán được vô thường rồi thì ta không nói về vô thường nữa, vì cái định vô thường của ta đã trở thành định vô thường của xuất thế gian [lokuttara]. Khái niệm về thường ta cần vượt thoát, mà khái niệm về vô thường ta cũng cần phải vượt thoát. Khái niệm về ngã ta cần vượt thoát, mà khái niệm về vô ngã ta cũng cần phải vượt thoát. Khái niệm về duyên sinh cũng vậy, về không cũng vậy, về trung đạo cũng vậy, ta đều cần phải vượt thoát.

Kinh Bảo Tích có nói : Thà rằng bị kẹt vào ý niệm có còn hơn bị kẹt vào ý niệm không. Thuốc men nếu không được sử dụng một cách thông minh có thể gây tai hại. Bụt dạy trong Kinh Người Bắt Rắn là phải học hỏihành trì giáo lý một cách thông minh. Chấp về thường và về ngã gây khổ đau; nhưng chấp vô thường, vô ngã cũng có thể gây khổ đau. Nếu ta không biết sử dụng vô thườngvô ngã như những chiếc chìa khóa để quán chiếu thì các ý niệm vô thườngvô ngã có thể sẽ là trở ngại cho bước đường tu học. Cho nên niết bàn có nghĩa vượt thoát mọi khái niệm, cũng là vượt thoát những khổ đau và phiền não do các khái niệm ấy gây ra. Vì vậy ta gọi là niết bàn tịch diệt. Tịch diệt tức là sự vắng lặng. Vắng lặng gì? Sự vắng lặng của tất cả các cặp ý niệm: sinh- diệt, có - không, thường - vô thường, ngã - vô ngã.

Giả thử chúng ta đang ở trong một buổi họp. Chúng ta tranh luận với nhau bằng ngôn từ, bằng ý niệm, chúng ta mệt quá. Mở cửa bước ra ngoài, chúng ta thấy không khí mát mẻ, chim hót, thông reo, hoa nở. Có âm thanh, có hình ảnh, có đủ tất cả, nhưng ta rất an lạc, rất dễ chịu. Trong phòng họp có quá nhiều ý niệm lý luận, tranh chấpsân si, nơi ấy ta không tìm thấy an lạc. Ngoài trời, chúng ta cũng nghe các âm thanh, cũng thấy những hình ảnh, cũng thấy những cảnh sinh hoạt, nhưng rất khác trong phòng họp. Ở ngoài có sự yên vắng, thảnh thơi. Niết bàn là như vậy. Niết bàn không có nghĩa là vắng mặt sự sống, vắng mặt thực tại. Niết bàn là có sự sống, có thực tại, nhưng sự sống và thực tại vượt thoát những khái niệm, vượt thoát những khổ đau do các khái niệm gây ra. Niết bàn là ở đây, niết bàn là bây giờ, đó gọi là hiện pháp niết bàn [drstà-dharma nirvana].

[langmai.org]

Page 14

TAM PHÁP ẤN
[Three Characteristic marks of the Buddha’s Teachings]
Thích Nguyên Tạng

Niềm tin là đức tính cao quý, cần thiết và rất quan trọng trong đời sống của người Phật tử. Niềm tin đóng một vai trò quan trọng mà ai cũng có để giúp người ấy đến với Phật quả. Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng:” niềm tin là mẹ đẻ của công đức”. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tếtrí tuệ đúng như thật.

Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 49 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Pháp Ấn . Trong Phật Giáo có hai loại Pháp ấn: Nhất Pháp ẤnTam Pháp Ấn. NHẤT PHÁP ẤN là nói đến Kinh Điển liễu nghĩa của Bắc Truyền Phật Giáo. Nhất Pháp ẤnThật Tướng Ấn tức là lấy thật tướng của các pháp làm gốc, nên nói nghĩa lý thật tướng của các pháp là ấn tín của hệ thống tư tưởng Phật giáo Đại Thừa. Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo Đại Thừa đều xem là tà thuyết.

TAM PHÁP ẤN là dành riêng cho Kinh Điển bất liễu nghĩa của Nam Truyền Phật Giáo. Bài viết này sẽ trình bày sơ lược về TAM PHÁP ẤN.

Ấn [印¡] có nghĩa là con dấu, hay con mộc, để chứng nhận chính thức cho một tổ chức, một đoàn thể nào đó, thứ hai, ấn là nói lên chủ trương, đường hướng được đưa ra trong tổ chức đó. Chữ ấn ở đây được dùng như một danh từ trừu tượng để làm tròn hai nhiệm vụ : chứng tín cho những Kinh điển hiện hànhlời Phật dạy, thứ hai là chỉ cho tư tưởng chủ đạo của Kinh Điển Nam Truyền Phật Giáo. Tam Pháp Ấn đó là:

Chư Hành Vô Thường
Chư Pháp Vô Ngã
Niết Bàn Tịch Tĩnh

Kinh điển của Tiểu Thừa Phật giáo được ấn định bởi ba Pháp Ấn trên, nếu không như thế thì chính là tà thuyết.

I/CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG :

Các hành vô thường [ Phạn: Anitya sarvasamskarah, Pali: anicca, E: impermanence], còn gọi là Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, gọi tắt là Vô Thường ấn]: Tất cả các pháp hữu vithế gian đều vô thường, dời đổi, biến chuyển, sinh diệt không ngừng. Chúng sinh không nhận biết điều này nên đối với vô thường mà lầm chấp là thường, nên triền miên thống khổ, vì thế Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sinh.

Vô thường là là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại, không arises, dwells, passes away, emptiness ]. Từ tính vô thường ta có thể suy ra hai đặc tính kia là Khổ [ dukkha] và Vô ngã [ anatman]. Vô thườngtính chất cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại, vô thường cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát . Có tri kiến vô thường, hành giả mới bước vào Thánh đạo. Vì thế tri kiến vô thường được xem là tri kiến của bậc Dự lưu. [Impermanence is the basis of life, without which existence would not be possible; it is also the precondition for the possibility of attaining liberation. Without recognition of anitya there is no entry into the supramundane path, thus the insight leading to “ stream entry”].

* Vô thường có hai loại:

a]. Sát na vô thường, chỉ cho sự biến hóa trong từng sát na, có sinh, trụ, dị, diệt.

b] Tương tục vô thường, chỉ trong một thời kỳ có 4 tướng sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau.

* ba loại vô thường:

a] Niệm niệm hoại diệt vô thường: trong từng sát na nhỏ nhất đều ẩn chứa sự hoại diệt vô thường.

b] Hòa hợp ly tán vô thường: mọi sự vật hiện tượng hòa hợp để rồi ly tán, tan rã, vô thường.

c]Tất cánh như thị vô thường : chân lý về sự vô thường trong cuộc đời này là như thế. Sự vô thường luôn luôn có mặt.

Trong Kinh Niết Bàn [ quyển 4] Phật nói về Vô thường như sau:

Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt hết rồi
Tịch diệt là vui.

Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý [ 1010 -1225] trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự vận hành của vô thường qua bài kệ :

Thân như điện ảnh hữu hoàng vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận tịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ tháo đầu phô”.

Thân như bóng chóp chiều tà
Cỏ cây tươi tốt qua thu rụng rồi
Xá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

Kinh Kim Cang cũng nói :

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như diễn
Ứng tác như thị quán.

[Tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh tượng, sương mai, điện chớp, rất cần phải có cái nhìn như thế]

Các pháp thế gian thuộc hữu vi
Như đêm đông giấc mộng đông thùy
Như đồ giả dối không bền chắc
Như bọt nước tan mất cấp kỳ.

Như bóng trong gương nào phải có
Như sương giọt nắng chẳng còn chi
Như luồng điện chớp làm gì có
Nhận xét như vầy mới thật tri.

Nhận thức được như thế để không khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.

II/ CHƯ PHÁP VÔ NGÃ:

Các pháp vô ngã [ Phạn : Niràtmànahsarva-dharmàh], còn goiï là nhất thiết pháp vô ngã ấn, gọi tắt là Vô ngã ấn]. Tất cả các pháp hữu vithế gian nói chung đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định, chúng sinh không rõ biết nên đối với tất cả pháp lầm chấp là có chủ thể, vì thế Phật nói Vô ngã để phá trừ chấp ngaõ của chúng sinh.

Vô ngã [Nonself- Anatman] là một giáo lý căn bản của Đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã [ atman], một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong mọi sự vật. Theo Đạo Phật, cái ngã, “cái tôi” cũng chỉ là một tập hợp của “ năm nhóm” [Ngũ uẩn - Five aggregates - Skandha], luôn luôn thay đổi, mất mát và vì vậy “ tôi” chỉ là giả hợp, gắn liền với cái khổ đau, không có chủ thể nhất định. Ví dụ, con người được cấu tạo bằng một tổng thể ngũ uẩn : Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn.

- Sắc uẩn: chỉ cho phần vật chất, thân thể như mắt, tai, mũi, lưỡi, đầu, mình, tứ chi

- Thọ uẩn: là chỉ cho toàn bộ cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu hay khó chịu hay trung tánh.

- Tưởng uẩn: là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị... kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.

- Hành uẩn: vận hành của tâm lý, chỉ sự hoạt động của tâm sau khi có tưởng, ví dụ như đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác..

- Thức uẩn: bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Qua sự phân tích chi tiết của năm uẩn trên ta không thấy cái uẩn nào là của ta, vậy mà lâu nay ta lầm tưởng uẩn này là thật có để rồi ta tự gây đau khổ cho mình và cho người.

III/ NIẾT BÀN TỊCH TỈNH:

Niết bàn tịch tĩnh [Phạn: Satamnirvanam, còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết-bàn ấn, còn gọi là Diệt, Diệt Tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất Sinh,, Viên Tịch, Giải thoát, Vô vi , An lạc , từ phổ biến và gọi tắt là Niết bàn. Tất cả chúng sinh không rõ biết khổ đau sinh tử cho nên tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, vì thế Phật nói Niết Bàn tịch diệt cho chúng sinh quy hướng.

Niết bànmục tiêu tối hậu phải đạt được của tất cả những đệ tử Phật, dù họ thuộc về tông phái nào, Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Niết bàn được xem là đoạn tuyệt vòng luân hồi [ Samsara] và đi vào một thể tồn tại khác [ Nibbana is departure from the cycle of rebirths and entry into an entirely different mode of existence]. Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba độc: tham, sân và si [ desire, hatred & delusion]. Đồng thời Niết Bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của nghiệp [Karma/action], không còn chịu quy luật của nhân duyên, ở trạng thái vô vi, tức là đặc tính thiếu vắng sự sinh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Còn theo Phật giáo Đại Thừa, Niết Bàn được xem là sự thống nhất với cái Nhất thể tuyệt đối [ sự bình đẳng của chúng sinh- Sattvasamata], sự thống nhất luân hồi với dạng “ chuyển hóa” của nó. Niết bàn được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một thể với tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng của tham ái.

Có hai loại Niết Bàn:

a] Hữu dư Niết bàn :

Tiếng phạn : Savupadisesa-Nibbana: Niết bàn còn tàn dư, Niết bàn trước khi tịch diệt. Niết bàn này là trạng thái của các thánh nhân đã loại bỏ phiền não, không còn tái sinh. Các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn, còn có nhân trạng, nên gọi là “ hữu dư”.

b]Vô dư Niết bàn :

Tiếng phạn: Anupadisesa-nibbana: là Niết bàn không còn – ngũ uẩn, mười hai xứ, mười tám giới và các căn. Niết bàn Vô Dư đến với một vị A La Hán sau khi viên tịch, không còn tái sinh. Loại Niết Bàn này cũng được gọi là Niết Bàn toàn phần hay Bát Niết Bàn.

Bát Chánh Đạo - con đường đưa tới Niết bàn:

Kinh Tăng Nhất A Hàm [ số 18], các vị Tỳ kheo hỏi Tôn giả Xá Lợi Phật về Niết Bàn: “ Bạch Đại Đức, làm thế nào để an trụ trong Trung đạo, làm thế nào để tuệ nhãn sanh, làm thế nào để trí tuệ sinh và làm thế để đưa tới Niết bàn”. Ngài Xá Lợi Phật trả lời: “ Này chư Hiền giả, đó là con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định. Đó chính là con đường đưa hành giả vào trung đạo, làm cho tuệ nhãn sinh, làm cho trí tuệ sinh và làm cho an trụ vào Niết bàn”.

Bát Chánh Đạo : con đường tám nhánh giải thoát khỏi khổ đau để đạt đến Niết bàn, là chân lý cuối trong Tứ Diệu Đế. Bát Chánh Đạo là một trong 37 Bồ Đề Phần. Đó chính là: 1. Chánh kiến: gìn giữ một quan niệm xác đáng về giáo lý; 2. Chánh tư duy: suy nghĩa hay có một mục đích đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm; 3. Chánh ngữ: không nói dối, không nói lời phù phiếm; 4 Chánh nghiệp: không phạm các giới luật; 5. Chánh mạng: tránh các nghề nghiệp giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn bán vũ khí, thuốc phiện; 6. Chánh tinh tấn: siêng năng phát triển nghiệp tốt, loại bỏ nghiệp xấu; 7. Chính niệm: tỉnh giáctu tập trên ba nghiệp: thân, khẩu và ý; 8. Chánh định: tập trung tâm ý để đạt bốn tầng thiền xuất thế gian. Bát Chánh Đạo không nên hiểu là những “ con đường” riêng biệt mà chính là ba môn họchành giả phải thực hành triệt để xuyên qua Giới [ gồm chánh ngữ, chánh nghiệp & chánh mạng], Định [ gồm Chánh tinh tấn, chánh niệm & chánh định] và Tueä [gồm Chánh kiến & chánh tư duy]. Chánh kiếnđiều kiện tiên quyết để đi vào Thánh Đạođạt đến Niết bàn.

Kết luận : Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy: “ Này chư Tỳ kheo, từ xưa cho đến nay, ta chỉ nói lên hai vấn đề: Khổ và phương pháp diệt khổ”. Khổ là các hành vô thường, các pháp vô ngã [ pháp ấn thứ 1 và 2], và phương pháp diệt khổ chính là Niết bàn tịch tĩnh [ pháp ấn thứ 3].

Cuộc sống hiện nay và ngày mai vô cùng náo động và cuồng nhiệt, con người luôn đánh mất mình trong mọi sát na của đời sống vật chất, phù du giả tạm này, để rồi cuối cùng phải chịu sự chi phối, hành hạ của vô thường, khổ đau, của sinh tử luân hồi. Tam pháp ấngiáo lý căn bản của Phật giáo giúp cho chúng ta suy ngẫm và áp dụng vào trong đời sống của chính mình, để cho đời mình bớt khổ./.

Tham khảo từ các tài liệu : Phật Học Phổ Thông [ HT Thiện Hoa]; Từ Điển Phật Học [ Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách; The Encylopedia of Eastern Philosophy and Religion [ Ed. Stephan Schumacher & Gert Woerner]

Page 15

TAM PHÁP ẤN
[Three Characteristic marks of the Buddha’s Teachings]
Thích Nguyên Tạng

Niềm tin là đức tính cao quý, cần thiết và rất quan trọng trong đời sống của người Phật tử. Niềm tin đóng một vai trò quan trọng mà ai cũng có để giúp người ấy đến với Phật quả. Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng:” niềm tin là mẹ đẻ của công đức”. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tếtrí tuệ đúng như thật.

Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 49 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Pháp Ấn . Trong Phật Giáo có hai loại Pháp ấn: Nhất Pháp ẤnTam Pháp Ấn. NHẤT PHÁP ẤN là nói đến Kinh Điển liễu nghĩa của Bắc Truyền Phật Giáo. Nhất Pháp ẤnThật Tướng Ấn tức là lấy thật tướng của các pháp làm gốc, nên nói nghĩa lý thật tướng của các pháp là ấn tín của hệ thống tư tưởng Phật giáo Đại Thừa. Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo Đại Thừa đều xem là tà thuyết.

TAM PHÁP ẤN là dành riêng cho Kinh Điển bất liễu nghĩa của Nam Truyền Phật Giáo. Bài viết này sẽ trình bày sơ lược về TAM PHÁP ẤN.

Ấn [印¡] có nghĩa là con dấu, hay con mộc, để chứng nhận chính thức cho một tổ chức, một đoàn thể nào đó, thứ hai, ấn là nói lên chủ trương, đường hướng được đưa ra trong tổ chức đó. Chữ ấn ở đây được dùng như một danh từ trừu tượng để làm tròn hai nhiệm vụ : chứng tín cho những Kinh điển hiện hànhlời Phật dạy, thứ hai là chỉ cho tư tưởng chủ đạo của Kinh Điển Nam Truyền Phật Giáo. Tam Pháp Ấn đó là:

Chư Hành Vô Thường
Chư Pháp Vô Ngã
Niết Bàn Tịch Tĩnh

Kinh điển của Tiểu Thừa Phật giáo được ấn định bởi ba Pháp Ấn trên, nếu không như thế thì chính là tà thuyết.

I/CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG :

Các hành vô thường [ Phạn: Anitya sarvasamskarah, Pali: anicca, E: impermanence], còn gọi là Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, gọi tắt là Vô Thường ấn]: Tất cả các pháp hữu vithế gian đều vô thường, dời đổi, biến chuyển, sinh diệt không ngừng. Chúng sinh không nhận biết điều này nên đối với vô thường mà lầm chấp là thường, nên triền miên thống khổ, vì thế Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sinh.

Vô thường là là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại, không arises, dwells, passes away, emptiness ]. Từ tính vô thường ta có thể suy ra hai đặc tính kia là Khổ [ dukkha] và Vô ngã [ anatman]. Vô thườngtính chất cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại, vô thường cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát . Có tri kiến vô thường, hành giả mới bước vào Thánh đạo. Vì thế tri kiến vô thường được xem là tri kiến của bậc Dự lưu. [Impermanence is the basis of life, without which existence would not be possible; it is also the precondition for the possibility of attaining liberation. Without recognition of anitya there is no entry into the supramundane path, thus the insight leading to “ stream entry”].

* Vô thường có hai loại:

a]. Sát na vô thường, chỉ cho sự biến hóa trong từng sát na, có sinh, trụ, dị, diệt.

b] Tương tục vô thường, chỉ trong một thời kỳ có 4 tướng sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau.

* ba loại vô thường:

a] Niệm niệm hoại diệt vô thường: trong từng sát na nhỏ nhất đều ẩn chứa sự hoại diệt vô thường.

b] Hòa hợp ly tán vô thường: mọi sự vật hiện tượng hòa hợp để rồi ly tán, tan rã, vô thường.

c]Tất cánh như thị vô thường : chân lý về sự vô thường trong cuộc đời này là như thế. Sự vô thường luôn luôn có mặt.

Trong Kinh Niết Bàn [ quyển 4] Phật nói về Vô thường như sau:

Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt hết rồi
Tịch diệt là vui.

Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý [ 1010 -1225] trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự vận hành của vô thường qua bài kệ :

Thân như điện ảnh hữu hoàng vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận tịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ tháo đầu phô”.

Thân như bóng chóp chiều tà
Cỏ cây tươi tốt qua thu rụng rồi
Xá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

Kinh Kim Cang cũng nói :

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như diễn
Ứng tác như thị quán.

[Tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh tượng, sương mai, điện chớp, rất cần phải có cái nhìn như thế]

Các pháp thế gian thuộc hữu vi
Như đêm đông giấc mộng đông thùy
Như đồ giả dối không bền chắc
Như bọt nước tan mất cấp kỳ.

Như bóng trong gương nào phải có
Như sương giọt nắng chẳng còn chi
Như luồng điện chớp làm gì có
Nhận xét như vầy mới thật tri.

Nhận thức được như thế để không khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.

II/ CHƯ PHÁP VÔ NGÃ:

Các pháp vô ngã [ Phạn : Niràtmànahsarva-dharmàh], còn goiï là nhất thiết pháp vô ngã ấn, gọi tắt là Vô ngã ấn]. Tất cả các pháp hữu vithế gian nói chung đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định, chúng sinh không rõ biết nên đối với tất cả pháp lầm chấp là có chủ thể, vì thế Phật nói Vô ngã để phá trừ chấp ngaõ của chúng sinh.

Vô ngã [Nonself- Anatman] là một giáo lý căn bản của Đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã [ atman], một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong mọi sự vật. Theo Đạo Phật, cái ngã, “cái tôi” cũng chỉ là một tập hợp của “ năm nhóm” [Ngũ uẩn - Five aggregates - Skandha], luôn luôn thay đổi, mất mát và vì vậy “ tôi” chỉ là giả hợp, gắn liền với cái khổ đau, không có chủ thể nhất định. Ví dụ, con người được cấu tạo bằng một tổng thể ngũ uẩn : Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn.

- Sắc uẩn: chỉ cho phần vật chất, thân thể như mắt, tai, mũi, lưỡi, đầu, mình, tứ chi

- Thọ uẩn: là chỉ cho toàn bộ cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu hay khó chịu hay trung tánh.

- Tưởng uẩn: là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị... kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.

- Hành uẩn: vận hành của tâm lý, chỉ sự hoạt động của tâm sau khi có tưởng, ví dụ như đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác..

- Thức uẩn: bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Qua sự phân tích chi tiết của năm uẩn trên ta không thấy cái uẩn nào là của ta, vậy mà lâu nay ta lầm tưởng uẩn này là thật có để rồi ta tự gây đau khổ cho mình và cho người.

III/ NIẾT BÀN TỊCH TỈNH:

Niết bàn tịch tĩnh [Phạn: Satamnirvanam, còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết-bàn ấn, còn gọi là Diệt, Diệt Tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất Sinh,, Viên Tịch, Giải thoát, Vô vi , An lạc , từ phổ biến và gọi tắt là Niết bàn. Tất cả chúng sinh không rõ biết khổ đau sinh tử cho nên tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, vì thế Phật nói Niết Bàn tịch diệt cho chúng sinh quy hướng.

Niết bànmục tiêu tối hậu phải đạt được của tất cả những đệ tử Phật, dù họ thuộc về tông phái nào, Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Niết bàn được xem là đoạn tuyệt vòng luân hồi [ Samsara] và đi vào một thể tồn tại khác [ Nibbana is departure from the cycle of rebirths and entry into an entirely different mode of existence]. Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba độc: tham, sân và si [ desire, hatred & delusion]. Đồng thời Niết Bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của nghiệp [Karma/action], không còn chịu quy luật của nhân duyên, ở trạng thái vô vi, tức là đặc tính thiếu vắng sự sinh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Còn theo Phật giáo Đại Thừa, Niết Bàn được xem là sự thống nhất với cái Nhất thể tuyệt đối [ sự bình đẳng của chúng sinh- Sattvasamata], sự thống nhất luân hồi với dạng “ chuyển hóa” của nó. Niết bàn được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một thể với tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng của tham ái.

Có hai loại Niết Bàn:

a] Hữu dư Niết bàn :

Tiếng phạn : Savupadisesa-Nibbana: Niết bàn còn tàn dư, Niết bàn trước khi tịch diệt. Niết bàn này là trạng thái của các thánh nhân đã loại bỏ phiền não, không còn tái sinh. Các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn, còn có nhân trạng, nên gọi là “ hữu dư”.

b]Vô dư Niết bàn :

Tiếng phạn: Anupadisesa-nibbana: là Niết bàn không còn – ngũ uẩn, mười hai xứ, mười tám giới và các căn. Niết bàn Vô Dư đến với một vị A La Hán sau khi viên tịch, không còn tái sinh. Loại Niết Bàn này cũng được gọi là Niết Bàn toàn phần hay Bát Niết Bàn.

Bát Chánh Đạo - con đường đưa tới Niết bàn:

Kinh Tăng Nhất A Hàm [ số 18], các vị Tỳ kheo hỏi Tôn giả Xá Lợi Phật về Niết Bàn: “ Bạch Đại Đức, làm thế nào để an trụ trong Trung đạo, làm thế nào để tuệ nhãn sanh, làm thế nào để trí tuệ sinh và làm thế để đưa tới Niết bàn”. Ngài Xá Lợi Phật trả lời: “ Này chư Hiền giả, đó là con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định. Đó chính là con đường đưa hành giả vào trung đạo, làm cho tuệ nhãn sinh, làm cho trí tuệ sinh và làm cho an trụ vào Niết bàn”.

Bát Chánh Đạo : con đường tám nhánh giải thoát khỏi khổ đau để đạt đến Niết bàn, là chân lý cuối trong Tứ Diệu Đế. Bát Chánh Đạo là một trong 37 Bồ Đề Phần. Đó chính là: 1. Chánh kiến: gìn giữ một quan niệm xác đáng về giáo lý; 2. Chánh tư duy: suy nghĩa hay có một mục đích đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm; 3. Chánh ngữ: không nói dối, không nói lời phù phiếm; 4 Chánh nghiệp: không phạm các giới luật; 5. Chánh mạng: tránh các nghề nghiệp giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn bán vũ khí, thuốc phiện; 6. Chánh tinh tấn: siêng năng phát triển nghiệp tốt, loại bỏ nghiệp xấu; 7. Chính niệm: tỉnh giáctu tập trên ba nghiệp: thân, khẩu và ý; 8. Chánh định: tập trung tâm ý để đạt bốn tầng thiền xuất thế gian. Bát Chánh Đạo không nên hiểu là những “ con đường” riêng biệt mà chính là ba môn họchành giả phải thực hành triệt để xuyên qua Giới [ gồm chánh ngữ, chánh nghiệp & chánh mạng], Định [ gồm Chánh tinh tấn, chánh niệm & chánh định] và Tueä [gồm Chánh kiến & chánh tư duy]. Chánh kiếnđiều kiện tiên quyết để đi vào Thánh Đạođạt đến Niết bàn.

Kết luận : Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy: “ Này chư Tỳ kheo, từ xưa cho đến nay, ta chỉ nói lên hai vấn đề: Khổ và phương pháp diệt khổ”. Khổ là các hành vô thường, các pháp vô ngã [ pháp ấn thứ 1 và 2], và phương pháp diệt khổ chính là Niết bàn tịch tĩnh [ pháp ấn thứ 3].

Cuộc sống hiện nay và ngày mai vô cùng náo động và cuồng nhiệt, con người luôn đánh mất mình trong mọi sát na của đời sống vật chất, phù du giả tạm này, để rồi cuối cùng phải chịu sự chi phối, hành hạ của vô thường, khổ đau, của sinh tử luân hồi. Tam pháp ấngiáo lý căn bản của Phật giáo giúp cho chúng ta suy ngẫm và áp dụng vào trong đời sống của chính mình, để cho đời mình bớt khổ./.

Tham khảo từ các tài liệu : Phật Học Phổ Thông [ HT Thiện Hoa]; Từ Điển Phật Học [ Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách; The Encylopedia of Eastern Philosophy and Religion [ Ed. Stephan Schumacher & Gert Woerner]

Page 16

TAM PHÁP ẤN
[Three Characteristic marks of the Buddha’s Teachings]
Thích Nguyên Tạng

Niềm tin là đức tính cao quý, cần thiết và rất quan trọng trong đời sống của người Phật tử. Niềm tin đóng một vai trò quan trọng mà ai cũng có để giúp người ấy đến với Phật quả. Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng:” niềm tin là mẹ đẻ của công đức”. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tếtrí tuệ đúng như thật.

Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 49 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Pháp Ấn . Trong Phật Giáo có hai loại Pháp ấn: Nhất Pháp ẤnTam Pháp Ấn. NHẤT PHÁP ẤN là nói đến Kinh Điển liễu nghĩa của Bắc Truyền Phật Giáo. Nhất Pháp ẤnThật Tướng Ấn tức là lấy thật tướng của các pháp làm gốc, nên nói nghĩa lý thật tướng của các pháp là ấn tín của hệ thống tư tưởng Phật giáo Đại Thừa. Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo Đại Thừa đều xem là tà thuyết.

TAM PHÁP ẤN là dành riêng cho Kinh Điển bất liễu nghĩa của Nam Truyền Phật Giáo. Bài viết này sẽ trình bày sơ lược về TAM PHÁP ẤN.

Ấn [印¡] có nghĩa là con dấu, hay con mộc, để chứng nhận chính thức cho một tổ chức, một đoàn thể nào đó, thứ hai, ấn là nói lên chủ trương, đường hướng được đưa ra trong tổ chức đó. Chữ ấn ở đây được dùng như một danh từ trừu tượng để làm tròn hai nhiệm vụ : chứng tín cho những Kinh điển hiện hànhlời Phật dạy, thứ hai là chỉ cho tư tưởng chủ đạo của Kinh Điển Nam Truyền Phật Giáo. Tam Pháp Ấn đó là:

Chư Hành Vô Thường
Chư Pháp Vô Ngã
Niết Bàn Tịch Tĩnh

Kinh điển của Tiểu Thừa Phật giáo được ấn định bởi ba Pháp Ấn trên, nếu không như thế thì chính là tà thuyết.

I/CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG :

Các hành vô thường [ Phạn: Anitya sarvasamskarah, Pali: anicca, E: impermanence], còn gọi là Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, gọi tắt là Vô Thường ấn]: Tất cả các pháp hữu vithế gian đều vô thường, dời đổi, biến chuyển, sinh diệt không ngừng. Chúng sinh không nhận biết điều này nên đối với vô thường mà lầm chấp là thường, nên triền miên thống khổ, vì thế Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sinh.

Vô thường là là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại, không arises, dwells, passes away, emptiness ]. Từ tính vô thường ta có thể suy ra hai đặc tính kia là Khổ [ dukkha] và Vô ngã [ anatman]. Vô thườngtính chất cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại, vô thường cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát . Có tri kiến vô thường, hành giả mới bước vào Thánh đạo. Vì thế tri kiến vô thường được xem là tri kiến của bậc Dự lưu. [Impermanence is the basis of life, without which existence would not be possible; it is also the precondition for the possibility of attaining liberation. Without recognition of anitya there is no entry into the supramundane path, thus the insight leading to “ stream entry”].

* Vô thường có hai loại:

a]. Sát na vô thường, chỉ cho sự biến hóa trong từng sát na, có sinh, trụ, dị, diệt.

b] Tương tục vô thường, chỉ trong một thời kỳ có 4 tướng sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau.

* ba loại vô thường:

a] Niệm niệm hoại diệt vô thường: trong từng sát na nhỏ nhất đều ẩn chứa sự hoại diệt vô thường.

b] Hòa hợp ly tán vô thường: mọi sự vật hiện tượng hòa hợp để rồi ly tán, tan rã, vô thường.

c]Tất cánh như thị vô thường : chân lý về sự vô thường trong cuộc đời này là như thế. Sự vô thường luôn luôn có mặt.

Trong Kinh Niết Bàn [ quyển 4] Phật nói về Vô thường như sau:

Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt hết rồi
Tịch diệt là vui.

Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý [ 1010 -1225] trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự vận hành của vô thường qua bài kệ :

Thân như điện ảnh hữu hoàng vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận tịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ tháo đầu phô”.

Thân như bóng chóp chiều tà
Cỏ cây tươi tốt qua thu rụng rồi
Xá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

Kinh Kim Cang cũng nói :

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như diễn
Ứng tác như thị quán.

[Tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh tượng, sương mai, điện chớp, rất cần phải có cái nhìn như thế]

Các pháp thế gian thuộc hữu vi
Như đêm đông giấc mộng đông thùy
Như đồ giả dối không bền chắc
Như bọt nước tan mất cấp kỳ.

Như bóng trong gương nào phải có
Như sương giọt nắng chẳng còn chi
Như luồng điện chớp làm gì có
Nhận xét như vầy mới thật tri.

Nhận thức được như thế để không khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.

II/ CHƯ PHÁP VÔ NGÃ:

Các pháp vô ngã [ Phạn : Niràtmànahsarva-dharmàh], còn goiï là nhất thiết pháp vô ngã ấn, gọi tắt là Vô ngã ấn]. Tất cả các pháp hữu vithế gian nói chung đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định, chúng sinh không rõ biết nên đối với tất cả pháp lầm chấp là có chủ thể, vì thế Phật nói Vô ngã để phá trừ chấp ngaõ của chúng sinh.

Vô ngã [Nonself- Anatman] là một giáo lý căn bản của Đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã [ atman], một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong mọi sự vật. Theo Đạo Phật, cái ngã, “cái tôi” cũng chỉ là một tập hợp của “ năm nhóm” [Ngũ uẩn - Five aggregates - Skandha], luôn luôn thay đổi, mất mát và vì vậy “ tôi” chỉ là giả hợp, gắn liền với cái khổ đau, không có chủ thể nhất định. Ví dụ, con người được cấu tạo bằng một tổng thể ngũ uẩn : Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn.

- Sắc uẩn: chỉ cho phần vật chất, thân thể như mắt, tai, mũi, lưỡi, đầu, mình, tứ chi

- Thọ uẩn: là chỉ cho toàn bộ cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu hay khó chịu hay trung tánh.

- Tưởng uẩn: là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị... kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.

- Hành uẩn: vận hành của tâm lý, chỉ sự hoạt động của tâm sau khi có tưởng, ví dụ như đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác..

- Thức uẩn: bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Qua sự phân tích chi tiết của năm uẩn trên ta không thấy cái uẩn nào là của ta, vậy mà lâu nay ta lầm tưởng uẩn này là thật có để rồi ta tự gây đau khổ cho mình và cho người.

III/ NIẾT BÀN TỊCH TỈNH:

Niết bàn tịch tĩnh [Phạn: Satamnirvanam, còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết-bàn ấn, còn gọi là Diệt, Diệt Tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất Sinh,, Viên Tịch, Giải thoát, Vô vi , An lạc , từ phổ biến và gọi tắt là Niết bàn. Tất cả chúng sinh không rõ biết khổ đau sinh tử cho nên tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, vì thế Phật nói Niết Bàn tịch diệt cho chúng sinh quy hướng.

Niết bànmục tiêu tối hậu phải đạt được của tất cả những đệ tử Phật, dù họ thuộc về tông phái nào, Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Niết bàn được xem là đoạn tuyệt vòng luân hồi [ Samsara] và đi vào một thể tồn tại khác [ Nibbana is departure from the cycle of rebirths and entry into an entirely different mode of existence]. Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba độc: tham, sân và si [ desire, hatred & delusion]. Đồng thời Niết Bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của nghiệp [Karma/action], không còn chịu quy luật của nhân duyên, ở trạng thái vô vi, tức là đặc tính thiếu vắng sự sinh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Còn theo Phật giáo Đại Thừa, Niết Bàn được xem là sự thống nhất với cái Nhất thể tuyệt đối [ sự bình đẳng của chúng sinh- Sattvasamata], sự thống nhất luân hồi với dạng “ chuyển hóa” của nó. Niết bàn được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một thể với tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng của tham ái.

Có hai loại Niết Bàn:

a] Hữu dư Niết bàn :

Tiếng phạn : Savupadisesa-Nibbana: Niết bàn còn tàn dư, Niết bàn trước khi tịch diệt. Niết bàn này là trạng thái của các thánh nhân đã loại bỏ phiền não, không còn tái sinh. Các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn, còn có nhân trạng, nên gọi là “ hữu dư”.

b]Vô dư Niết bàn :

Tiếng phạn: Anupadisesa-nibbana: là Niết bàn không còn – ngũ uẩn, mười hai xứ, mười tám giới và các căn. Niết bàn Vô Dư đến với một vị A La Hán sau khi viên tịch, không còn tái sinh. Loại Niết Bàn này cũng được gọi là Niết Bàn toàn phần hay Bát Niết Bàn.

Bát Chánh Đạo - con đường đưa tới Niết bàn:

Kinh Tăng Nhất A Hàm [ số 18], các vị Tỳ kheo hỏi Tôn giả Xá Lợi Phật về Niết Bàn: “ Bạch Đại Đức, làm thế nào để an trụ trong Trung đạo, làm thế nào để tuệ nhãn sanh, làm thế nào để trí tuệ sinh và làm thế để đưa tới Niết bàn”. Ngài Xá Lợi Phật trả lời: “ Này chư Hiền giả, đó là con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định. Đó chính là con đường đưa hành giả vào trung đạo, làm cho tuệ nhãn sinh, làm cho trí tuệ sinh và làm cho an trụ vào Niết bàn”.

Bát Chánh Đạo : con đường tám nhánh giải thoát khỏi khổ đau để đạt đến Niết bàn, là chân lý cuối trong Tứ Diệu Đế. Bát Chánh Đạo là một trong 37 Bồ Đề Phần. Đó chính là: 1. Chánh kiến: gìn giữ một quan niệm xác đáng về giáo lý; 2. Chánh tư duy: suy nghĩa hay có một mục đích đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm; 3. Chánh ngữ: không nói dối, không nói lời phù phiếm; 4 Chánh nghiệp: không phạm các giới luật; 5. Chánh mạng: tránh các nghề nghiệp giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn bán vũ khí, thuốc phiện; 6. Chánh tinh tấn: siêng năng phát triển nghiệp tốt, loại bỏ nghiệp xấu; 7. Chính niệm: tỉnh giáctu tập trên ba nghiệp: thân, khẩu và ý; 8. Chánh định: tập trung tâm ý để đạt bốn tầng thiền xuất thế gian. Bát Chánh Đạo không nên hiểu là những “ con đường” riêng biệt mà chính là ba môn họchành giả phải thực hành triệt để xuyên qua Giới [ gồm chánh ngữ, chánh nghiệp & chánh mạng], Định [ gồm Chánh tinh tấn, chánh niệm & chánh định] và Tueä [gồm Chánh kiến & chánh tư duy]. Chánh kiếnđiều kiện tiên quyết để đi vào Thánh Đạođạt đến Niết bàn.

Kết luận : Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy: “ Này chư Tỳ kheo, từ xưa cho đến nay, ta chỉ nói lên hai vấn đề: Khổ và phương pháp diệt khổ”. Khổ là các hành vô thường, các pháp vô ngã [ pháp ấn thứ 1 và 2], và phương pháp diệt khổ chính là Niết bàn tịch tĩnh [ pháp ấn thứ 3].

Cuộc sống hiện nay và ngày mai vô cùng náo động và cuồng nhiệt, con người luôn đánh mất mình trong mọi sát na của đời sống vật chất, phù du giả tạm này, để rồi cuối cùng phải chịu sự chi phối, hành hạ của vô thường, khổ đau, của sinh tử luân hồi. Tam pháp ấngiáo lý căn bản của Phật giáo giúp cho chúng ta suy ngẫm và áp dụng vào trong đời sống của chính mình, để cho đời mình bớt khổ./.

Tham khảo từ các tài liệu : Phật Học Phổ Thông [ HT Thiện Hoa]; Từ Điển Phật Học [ Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách; The Encylopedia of Eastern Philosophy and Religion [ Ed. Stephan Schumacher & Gert Woerner]

Page 17

TAM PHÁP ẤN
[Three Characteristic marks of the Buddha’s Teachings]
Thích Nguyên Tạng

Niềm tin là đức tính cao quý, cần thiết và rất quan trọng trong đời sống của người Phật tử. Niềm tin đóng một vai trò quan trọng mà ai cũng có để giúp người ấy đến với Phật quả. Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng:” niềm tin là mẹ đẻ của công đức”. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tếtrí tuệ đúng như thật.

Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 49 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Pháp Ấn . Trong Phật Giáo có hai loại Pháp ấn: Nhất Pháp ẤnTam Pháp Ấn. NHẤT PHÁP ẤN là nói đến Kinh Điển liễu nghĩa của Bắc Truyền Phật Giáo. Nhất Pháp ẤnThật Tướng Ấn tức là lấy thật tướng của các pháp làm gốc, nên nói nghĩa lý thật tướng của các pháp là ấn tín của hệ thống tư tưởng Phật giáo Đại Thừa. Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo Đại Thừa đều xem là tà thuyết.

TAM PHÁP ẤN là dành riêng cho Kinh Điển bất liễu nghĩa của Nam Truyền Phật Giáo. Bài viết này sẽ trình bày sơ lược về TAM PHÁP ẤN.

Ấn [印¡] có nghĩa là con dấu, hay con mộc, để chứng nhận chính thức cho một tổ chức, một đoàn thể nào đó, thứ hai, ấn là nói lên chủ trương, đường hướng được đưa ra trong tổ chức đó. Chữ ấn ở đây được dùng như một danh từ trừu tượng để làm tròn hai nhiệm vụ : chứng tín cho những Kinh điển hiện hànhlời Phật dạy, thứ hai là chỉ cho tư tưởng chủ đạo của Kinh Điển Nam Truyền Phật Giáo. Tam Pháp Ấn đó là:

Chư Hành Vô Thường
Chư Pháp Vô Ngã
Niết Bàn Tịch Tĩnh

Kinh điển của Tiểu Thừa Phật giáo được ấn định bởi ba Pháp Ấn trên, nếu không như thế thì chính là tà thuyết.

I/CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG :

Các hành vô thường [ Phạn: Anitya sarvasamskarah, Pali: anicca, E: impermanence], còn gọi là Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, gọi tắt là Vô Thường ấn]: Tất cả các pháp hữu vithế gian đều vô thường, dời đổi, biến chuyển, sinh diệt không ngừng. Chúng sinh không nhận biết điều này nên đối với vô thường mà lầm chấp là thường, nên triền miên thống khổ, vì thế Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sinh.

Vô thường là là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại, không arises, dwells, passes away, emptiness ]. Từ tính vô thường ta có thể suy ra hai đặc tính kia là Khổ [ dukkha] và Vô ngã [ anatman]. Vô thườngtính chất cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại, vô thường cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát . Có tri kiến vô thường, hành giả mới bước vào Thánh đạo. Vì thế tri kiến vô thường được xem là tri kiến của bậc Dự lưu. [Impermanence is the basis of life, without which existence would not be possible; it is also the precondition for the possibility of attaining liberation. Without recognition of anitya there is no entry into the supramundane path, thus the insight leading to “ stream entry”].

* Vô thường có hai loại:

a]. Sát na vô thường, chỉ cho sự biến hóa trong từng sát na, có sinh, trụ, dị, diệt.

b] Tương tục vô thường, chỉ trong một thời kỳ có 4 tướng sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau.

* ba loại vô thường:

a] Niệm niệm hoại diệt vô thường: trong từng sát na nhỏ nhất đều ẩn chứa sự hoại diệt vô thường.

b] Hòa hợp ly tán vô thường: mọi sự vật hiện tượng hòa hợp để rồi ly tán, tan rã, vô thường.

c]Tất cánh như thị vô thường : chân lý về sự vô thường trong cuộc đời này là như thế. Sự vô thường luôn luôn có mặt.

Trong Kinh Niết Bàn [ quyển 4] Phật nói về Vô thường như sau:

Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt hết rồi
Tịch diệt là vui.

Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý [ 1010 -1225] trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự vận hành của vô thường qua bài kệ :

Thân như điện ảnh hữu hoàng vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận tịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ tháo đầu phô”.

Thân như bóng chóp chiều tà
Cỏ cây tươi tốt qua thu rụng rồi
Xá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

Kinh Kim Cang cũng nói :

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như diễn
Ứng tác như thị quán.

[Tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh tượng, sương mai, điện chớp, rất cần phải có cái nhìn như thế]

Các pháp thế gian thuộc hữu vi
Như đêm đông giấc mộng đông thùy
Như đồ giả dối không bền chắc
Như bọt nước tan mất cấp kỳ.

Như bóng trong gương nào phải có
Như sương giọt nắng chẳng còn chi
Như luồng điện chớp làm gì có
Nhận xét như vầy mới thật tri.

Nhận thức được như thế để không khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.

II/ CHƯ PHÁP VÔ NGÃ:

Các pháp vô ngã [ Phạn : Niràtmànahsarva-dharmàh], còn goiï là nhất thiết pháp vô ngã ấn, gọi tắt là Vô ngã ấn]. Tất cả các pháp hữu vithế gian nói chung đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định, chúng sinh không rõ biết nên đối với tất cả pháp lầm chấp là có chủ thể, vì thế Phật nói Vô ngã để phá trừ chấp ngaõ của chúng sinh.

Vô ngã [Nonself- Anatman] là một giáo lý căn bản của Đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã [ atman], một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong mọi sự vật. Theo Đạo Phật, cái ngã, “cái tôi” cũng chỉ là một tập hợp của “ năm nhóm” [Ngũ uẩn - Five aggregates - Skandha], luôn luôn thay đổi, mất mát và vì vậy “ tôi” chỉ là giả hợp, gắn liền với cái khổ đau, không có chủ thể nhất định. Ví dụ, con người được cấu tạo bằng một tổng thể ngũ uẩn : Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn.

- Sắc uẩn: chỉ cho phần vật chất, thân thể như mắt, tai, mũi, lưỡi, đầu, mình, tứ chi

- Thọ uẩn: là chỉ cho toàn bộ cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu hay khó chịu hay trung tánh.

- Tưởng uẩn: là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị... kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.

- Hành uẩn: vận hành của tâm lý, chỉ sự hoạt động của tâm sau khi có tưởng, ví dụ như đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác..

- Thức uẩn: bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Qua sự phân tích chi tiết của năm uẩn trên ta không thấy cái uẩn nào là của ta, vậy mà lâu nay ta lầm tưởng uẩn này là thật có để rồi ta tự gây đau khổ cho mình và cho người.

III/ NIẾT BÀN TỊCH TỈNH:

Niết bàn tịch tĩnh [Phạn: Satamnirvanam, còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết-bàn ấn, còn gọi là Diệt, Diệt Tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất Sinh,, Viên Tịch, Giải thoát, Vô vi , An lạc , từ phổ biến và gọi tắt là Niết bàn. Tất cả chúng sinh không rõ biết khổ đau sinh tử cho nên tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, vì thế Phật nói Niết Bàn tịch diệt cho chúng sinh quy hướng.

Niết bànmục tiêu tối hậu phải đạt được của tất cả những đệ tử Phật, dù họ thuộc về tông phái nào, Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Niết bàn được xem là đoạn tuyệt vòng luân hồi [ Samsara] và đi vào một thể tồn tại khác [ Nibbana is departure from the cycle of rebirths and entry into an entirely different mode of existence]. Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba độc: tham, sân và si [ desire, hatred & delusion]. Đồng thời Niết Bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của nghiệp [Karma/action], không còn chịu quy luật của nhân duyên, ở trạng thái vô vi, tức là đặc tính thiếu vắng sự sinh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Còn theo Phật giáo Đại Thừa, Niết Bàn được xem là sự thống nhất với cái Nhất thể tuyệt đối [ sự bình đẳng của chúng sinh- Sattvasamata], sự thống nhất luân hồi với dạng “ chuyển hóa” của nó. Niết bàn được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một thể với tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng của tham ái.

Có hai loại Niết Bàn:

a] Hữu dư Niết bàn :

Tiếng phạn : Savupadisesa-Nibbana: Niết bàn còn tàn dư, Niết bàn trước khi tịch diệt. Niết bàn này là trạng thái của các thánh nhân đã loại bỏ phiền não, không còn tái sinh. Các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn, còn có nhân trạng, nên gọi là “ hữu dư”.

b]Vô dư Niết bàn :

Tiếng phạn: Anupadisesa-nibbana: là Niết bàn không còn – ngũ uẩn, mười hai xứ, mười tám giới và các căn. Niết bàn Vô Dư đến với một vị A La Hán sau khi viên tịch, không còn tái sinh. Loại Niết Bàn này cũng được gọi là Niết Bàn toàn phần hay Bát Niết Bàn.

Bát Chánh Đạo - con đường đưa tới Niết bàn:

Kinh Tăng Nhất A Hàm [ số 18], các vị Tỳ kheo hỏi Tôn giả Xá Lợi Phật về Niết Bàn: “ Bạch Đại Đức, làm thế nào để an trụ trong Trung đạo, làm thế nào để tuệ nhãn sanh, làm thế nào để trí tuệ sinh và làm thế để đưa tới Niết bàn”. Ngài Xá Lợi Phật trả lời: “ Này chư Hiền giả, đó là con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định. Đó chính là con đường đưa hành giả vào trung đạo, làm cho tuệ nhãn sinh, làm cho trí tuệ sinh và làm cho an trụ vào Niết bàn”.

Bát Chánh Đạo : con đường tám nhánh giải thoát khỏi khổ đau để đạt đến Niết bàn, là chân lý cuối trong Tứ Diệu Đế. Bát Chánh Đạo là một trong 37 Bồ Đề Phần. Đó chính là: 1. Chánh kiến: gìn giữ một quan niệm xác đáng về giáo lý; 2. Chánh tư duy: suy nghĩa hay có một mục đích đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm; 3. Chánh ngữ: không nói dối, không nói lời phù phiếm; 4 Chánh nghiệp: không phạm các giới luật; 5. Chánh mạng: tránh các nghề nghiệp giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn bán vũ khí, thuốc phiện; 6. Chánh tinh tấn: siêng năng phát triển nghiệp tốt, loại bỏ nghiệp xấu; 7. Chính niệm: tỉnh giáctu tập trên ba nghiệp: thân, khẩu và ý; 8. Chánh định: tập trung tâm ý để đạt bốn tầng thiền xuất thế gian. Bát Chánh Đạo không nên hiểu là những “ con đường” riêng biệt mà chính là ba môn họchành giả phải thực hành triệt để xuyên qua Giới [ gồm chánh ngữ, chánh nghiệp & chánh mạng], Định [ gồm Chánh tinh tấn, chánh niệm & chánh định] và Tueä [gồm Chánh kiến & chánh tư duy]. Chánh kiếnđiều kiện tiên quyết để đi vào Thánh Đạođạt đến Niết bàn.

Kết luận : Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy: “ Này chư Tỳ kheo, từ xưa cho đến nay, ta chỉ nói lên hai vấn đề: Khổ và phương pháp diệt khổ”. Khổ là các hành vô thường, các pháp vô ngã [ pháp ấn thứ 1 và 2], và phương pháp diệt khổ chính là Niết bàn tịch tĩnh [ pháp ấn thứ 3].

Cuộc sống hiện nay và ngày mai vô cùng náo động và cuồng nhiệt, con người luôn đánh mất mình trong mọi sát na của đời sống vật chất, phù du giả tạm này, để rồi cuối cùng phải chịu sự chi phối, hành hạ của vô thường, khổ đau, của sinh tử luân hồi. Tam pháp ấngiáo lý căn bản của Phật giáo giúp cho chúng ta suy ngẫm và áp dụng vào trong đời sống của chính mình, để cho đời mình bớt khổ./.

Tham khảo từ các tài liệu : Phật Học Phổ Thông [ HT Thiện Hoa]; Từ Điển Phật Học [ Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách; The Encylopedia of Eastern Philosophy and Religion [ Ed. Stephan Schumacher & Gert Woerner]

Page 18

TAM PHÁP ẤN
[Three Characteristic marks of the Buddha’s Teachings]
Thích Nguyên Tạng

Niềm tin là đức tính cao quý, cần thiết và rất quan trọng trong đời sống của người Phật tử. Niềm tin đóng một vai trò quan trọng mà ai cũng có để giúp người ấy đến với Phật quả. Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng:” niềm tin là mẹ đẻ của công đức”. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tếtrí tuệ đúng như thật.

Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 49 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Pháp Ấn . Trong Phật Giáo có hai loại Pháp ấn: Nhất Pháp ẤnTam Pháp Ấn. NHẤT PHÁP ẤN là nói đến Kinh Điển liễu nghĩa của Bắc Truyền Phật Giáo. Nhất Pháp ẤnThật Tướng Ấn tức là lấy thật tướng của các pháp làm gốc, nên nói nghĩa lý thật tướng của các pháp là ấn tín của hệ thống tư tưởng Phật giáo Đại Thừa. Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo Đại Thừa đều xem là tà thuyết.

TAM PHÁP ẤN là dành riêng cho Kinh Điển bất liễu nghĩa của Nam Truyền Phật Giáo. Bài viết này sẽ trình bày sơ lược về TAM PHÁP ẤN.

Ấn [印¡] có nghĩa là con dấu, hay con mộc, để chứng nhận chính thức cho một tổ chức, một đoàn thể nào đó, thứ hai, ấn là nói lên chủ trương, đường hướng được đưa ra trong tổ chức đó. Chữ ấn ở đây được dùng như một danh từ trừu tượng để làm tròn hai nhiệm vụ : chứng tín cho những Kinh điển hiện hànhlời Phật dạy, thứ hai là chỉ cho tư tưởng chủ đạo của Kinh Điển Nam Truyền Phật Giáo. Tam Pháp Ấn đó là:

Chư Hành Vô Thường
Chư Pháp Vô Ngã
Niết Bàn Tịch Tĩnh

Kinh điển của Tiểu Thừa Phật giáo được ấn định bởi ba Pháp Ấn trên, nếu không như thế thì chính là tà thuyết.

I/CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG :

Các hành vô thường [ Phạn: Anitya sarvasamskarah, Pali: anicca, E: impermanence], còn gọi là Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, gọi tắt là Vô Thường ấn]: Tất cả các pháp hữu vithế gian đều vô thường, dời đổi, biến chuyển, sinh diệt không ngừng. Chúng sinh không nhận biết điều này nên đối với vô thường mà lầm chấp là thường, nên triền miên thống khổ, vì thế Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sinh.

Vô thường là là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại, không arises, dwells, passes away, emptiness ]. Từ tính vô thường ta có thể suy ra hai đặc tính kia là Khổ [ dukkha] và Vô ngã [ anatman]. Vô thườngtính chất cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại, vô thường cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát . Có tri kiến vô thường, hành giả mới bước vào Thánh đạo. Vì thế tri kiến vô thường được xem là tri kiến của bậc Dự lưu. [Impermanence is the basis of life, without which existence would not be possible; it is also the precondition for the possibility of attaining liberation. Without recognition of anitya there is no entry into the supramundane path, thus the insight leading to “ stream entry”].

* Vô thường có hai loại:

a]. Sát na vô thường, chỉ cho sự biến hóa trong từng sát na, có sinh, trụ, dị, diệt.

b] Tương tục vô thường, chỉ trong một thời kỳ có 4 tướng sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau.

* ba loại vô thường:

a] Niệm niệm hoại diệt vô thường: trong từng sát na nhỏ nhất đều ẩn chứa sự hoại diệt vô thường.

b] Hòa hợp ly tán vô thường: mọi sự vật hiện tượng hòa hợp để rồi ly tán, tan rã, vô thường.

c]Tất cánh như thị vô thường : chân lý về sự vô thường trong cuộc đời này là như thế. Sự vô thường luôn luôn có mặt.

Trong Kinh Niết Bàn [ quyển 4] Phật nói về Vô thường như sau:

Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt hết rồi
Tịch diệt là vui.

Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý [ 1010 -1225] trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự vận hành của vô thường qua bài kệ :

Thân như điện ảnh hữu hoàng vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận tịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ tháo đầu phô”.

Thân như bóng chóp chiều tà
Cỏ cây tươi tốt qua thu rụng rồi
Xá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

Kinh Kim Cang cũng nói :

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như diễn
Ứng tác như thị quán.

[Tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh tượng, sương mai, điện chớp, rất cần phải có cái nhìn như thế]

Các pháp thế gian thuộc hữu vi
Như đêm đông giấc mộng đông thùy
Như đồ giả dối không bền chắc
Như bọt nước tan mất cấp kỳ.

Như bóng trong gương nào phải có
Như sương giọt nắng chẳng còn chi
Như luồng điện chớp làm gì có
Nhận xét như vầy mới thật tri.

Nhận thức được như thế để không khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.

II/ CHƯ PHÁP VÔ NGÃ:

Các pháp vô ngã [ Phạn : Niràtmànahsarva-dharmàh], còn goiï là nhất thiết pháp vô ngã ấn, gọi tắt là Vô ngã ấn]. Tất cả các pháp hữu vithế gian nói chung đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định, chúng sinh không rõ biết nên đối với tất cả pháp lầm chấp là có chủ thể, vì thế Phật nói Vô ngã để phá trừ chấp ngaõ của chúng sinh.

Vô ngã [Nonself- Anatman] là một giáo lý căn bản của Đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã [ atman], một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong mọi sự vật. Theo Đạo Phật, cái ngã, “cái tôi” cũng chỉ là một tập hợp của “ năm nhóm” [Ngũ uẩn - Five aggregates - Skandha], luôn luôn thay đổi, mất mát và vì vậy “ tôi” chỉ là giả hợp, gắn liền với cái khổ đau, không có chủ thể nhất định. Ví dụ, con người được cấu tạo bằng một tổng thể ngũ uẩn : Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn.

- Sắc uẩn: chỉ cho phần vật chất, thân thể như mắt, tai, mũi, lưỡi, đầu, mình, tứ chi

- Thọ uẩn: là chỉ cho toàn bộ cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu hay khó chịu hay trung tánh.

- Tưởng uẩn: là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị... kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.

- Hành uẩn: vận hành của tâm lý, chỉ sự hoạt động của tâm sau khi có tưởng, ví dụ như đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác..

- Thức uẩn: bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Qua sự phân tích chi tiết của năm uẩn trên ta không thấy cái uẩn nào là của ta, vậy mà lâu nay ta lầm tưởng uẩn này là thật có để rồi ta tự gây đau khổ cho mình và cho người.

III/ NIẾT BÀN TỊCH TỈNH:

Niết bàn tịch tĩnh [Phạn: Satamnirvanam, còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết-bàn ấn, còn gọi là Diệt, Diệt Tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất Sinh,, Viên Tịch, Giải thoát, Vô vi , An lạc , từ phổ biến và gọi tắt là Niết bàn. Tất cả chúng sinh không rõ biết khổ đau sinh tử cho nên tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, vì thế Phật nói Niết Bàn tịch diệt cho chúng sinh quy hướng.

Niết bànmục tiêu tối hậu phải đạt được của tất cả những đệ tử Phật, dù họ thuộc về tông phái nào, Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Niết bàn được xem là đoạn tuyệt vòng luân hồi [ Samsara] và đi vào một thể tồn tại khác [ Nibbana is departure from the cycle of rebirths and entry into an entirely different mode of existence]. Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba độc: tham, sân và si [ desire, hatred & delusion]. Đồng thời Niết Bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của nghiệp [Karma/action], không còn chịu quy luật của nhân duyên, ở trạng thái vô vi, tức là đặc tính thiếu vắng sự sinh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Còn theo Phật giáo Đại Thừa, Niết Bàn được xem là sự thống nhất với cái Nhất thể tuyệt đối [ sự bình đẳng của chúng sinh- Sattvasamata], sự thống nhất luân hồi với dạng “ chuyển hóa” của nó. Niết bàn được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một thể với tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng của tham ái.

Có hai loại Niết Bàn:

a] Hữu dư Niết bàn :

Tiếng phạn : Savupadisesa-Nibbana: Niết bàn còn tàn dư, Niết bàn trước khi tịch diệt. Niết bàn này là trạng thái của các thánh nhân đã loại bỏ phiền não, không còn tái sinh. Các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn, còn có nhân trạng, nên gọi là “ hữu dư”.

b]Vô dư Niết bàn :

Tiếng phạn: Anupadisesa-nibbana: là Niết bàn không còn – ngũ uẩn, mười hai xứ, mười tám giới và các căn. Niết bàn Vô Dư đến với một vị A La Hán sau khi viên tịch, không còn tái sinh. Loại Niết Bàn này cũng được gọi là Niết Bàn toàn phần hay Bát Niết Bàn.

Bát Chánh Đạo - con đường đưa tới Niết bàn:

Kinh Tăng Nhất A Hàm [ số 18], các vị Tỳ kheo hỏi Tôn giả Xá Lợi Phật về Niết Bàn: “ Bạch Đại Đức, làm thế nào để an trụ trong Trung đạo, làm thế nào để tuệ nhãn sanh, làm thế nào để trí tuệ sinh và làm thế để đưa tới Niết bàn”. Ngài Xá Lợi Phật trả lời: “ Này chư Hiền giả, đó là con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định. Đó chính là con đường đưa hành giả vào trung đạo, làm cho tuệ nhãn sinh, làm cho trí tuệ sinh và làm cho an trụ vào Niết bàn”.

Bát Chánh Đạo : con đường tám nhánh giải thoát khỏi khổ đau để đạt đến Niết bàn, là chân lý cuối trong Tứ Diệu Đế. Bát Chánh Đạo là một trong 37 Bồ Đề Phần. Đó chính là: 1. Chánh kiến: gìn giữ một quan niệm xác đáng về giáo lý; 2. Chánh tư duy: suy nghĩa hay có một mục đích đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm; 3. Chánh ngữ: không nói dối, không nói lời phù phiếm; 4 Chánh nghiệp: không phạm các giới luật; 5. Chánh mạng: tránh các nghề nghiệp giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn bán vũ khí, thuốc phiện; 6. Chánh tinh tấn: siêng năng phát triển nghiệp tốt, loại bỏ nghiệp xấu; 7. Chính niệm: tỉnh giáctu tập trên ba nghiệp: thân, khẩu và ý; 8. Chánh định: tập trung tâm ý để đạt bốn tầng thiền xuất thế gian. Bát Chánh Đạo không nên hiểu là những “ con đường” riêng biệt mà chính là ba môn họchành giả phải thực hành triệt để xuyên qua Giới [ gồm chánh ngữ, chánh nghiệp & chánh mạng], Định [ gồm Chánh tinh tấn, chánh niệm & chánh định] và Tueä [gồm Chánh kiến & chánh tư duy]. Chánh kiếnđiều kiện tiên quyết để đi vào Thánh Đạođạt đến Niết bàn.

Kết luận : Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy: “ Này chư Tỳ kheo, từ xưa cho đến nay, ta chỉ nói lên hai vấn đề: Khổ và phương pháp diệt khổ”. Khổ là các hành vô thường, các pháp vô ngã [ pháp ấn thứ 1 và 2], và phương pháp diệt khổ chính là Niết bàn tịch tĩnh [ pháp ấn thứ 3].

Cuộc sống hiện nay và ngày mai vô cùng náo động và cuồng nhiệt, con người luôn đánh mất mình trong mọi sát na của đời sống vật chất, phù du giả tạm này, để rồi cuối cùng phải chịu sự chi phối, hành hạ của vô thường, khổ đau, của sinh tử luân hồi. Tam pháp ấngiáo lý căn bản của Phật giáo giúp cho chúng ta suy ngẫm và áp dụng vào trong đời sống của chính mình, để cho đời mình bớt khổ./.

Tham khảo từ các tài liệu : Phật Học Phổ Thông [ HT Thiện Hoa]; Từ Điển Phật Học [ Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách; The Encylopedia of Eastern Philosophy and Religion [ Ed. Stephan Schumacher & Gert Woerner]

Page 19

Bây giờ chúng ta hãy đi sang phẩm thứ 25, Phẩm Phổ Môn.  Phổ môn là cánh cửa phổ biến, cánh cửa mở ra cho mọi loài đi vào.  Cánh cửa này không chỉ mở ra cho một hay hai, ba hạng người, mà tất cả mọi loài đều có thể đi qua cánh cửa đó để vào Phật Pháp.  Tiếng Anh là Universal Door.  Đây là một Phẩm được tụng đọc nhiều nhất của kinh Pháp Hoa, và được gọi là kinh Phổ Môn [Samantamukha] hay là kinh Quán Âm.

Nhìn vào Bồ Tát Quán Thế Âm [AvalokiteỐvara Bodhisattva] chúng ta thấy Bồ Tát Thường Bất Khinh, chúng ta cũng thấy Bồ Tát Dược Vương, tại vì con đường của tín nghĩa, của ân tình, của sự chung thủy cũng có mặt ở đây.  Bồ Tát Quán Thế Âm đã lập nguyện là khi nào có người nhớ nghĩ tới Bồ Tát và niệm danh hiệu của Ngài, thì Ngài sẽ có mặt ngay trong giờ phút đó.  Điều này có tính cách chung thủy, ân tình.  Any time you need me, I will be there, đó là tiếng nói của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Những lúc anh cần đến tôi, tôi sẽ có mặt ở bên anh, nhất là lúc anh lâm vào tình trạng khó khăn, tuyệt vọng.
Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe những âm thanh của cuộc đời.  Chữ Quán ở đây có nghĩa là để ý tới, nhìn sâu, nhìn kỹ để có thể hiểu.  Hiểu là cái bản chất làm ra sự thương yêu, có hiểu được mới thương.  Nói đến Bồ Tát Quán Thế Âm, là ta nói tới sự thương yêuNam mô Đức Bồ Tát đại bi Quán Thế Âm.  Nếu Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho sự hiểu biết lớn, nếu Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho hành động lớn, thì Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng cho sự thương yêu lớn, cho đại từ, đại bi.

Khi được nghe danh xưng Bồ Tát Quán Thế Âm thì Bồ Tát Vô Tận Ý [AkỒayamati Bodhisattva] lấy làm xúc cảm liền lập tức.  Tên nghe hay quá, Quán thế Âm, lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời.  Danh từ Quán Thế Âm tác động vào trái tim của Bồ Tát Vô Tận Ý, nên Bồ Tát đứng dậy, chắp tay hướng về Bụt hỏi:  Bạch đức Thế Tôn, vì lý do gì mà vị Bồ Tát kia có tên là Quán Thế Âm [Avalokiteshvara]. Định nghĩa của Bụt rất rõ.  Bụt nói:  Tại vì những người khổ đau khi nghe tới danh xưng ấy mà thấy hoan hỉ và lập lại, thì Bồ Tát lập tức tìm tới để giải thoát cho người kia ra khỏi cái trạng huống khổ đau trong giờ phút đó.

Chúng ta đã biết rằng kinh Pháp Hoatính cách đại chúng,  nhưng giáo nghĩa cũng rất thâm sâu.  Nói như vậy có nghĩa là những câu kinh Pháp Hoa có thể hiểu theo tính cách đại chúng, nhưng cũng có thể hiểu được theo tính cách triết học sâu sắc.  Ví dụ với câu:  Nếu có người trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì người đó dù đi vào trong lửa cháy, lửa cũng không làm người đó cháy, tại vì uy lực của Bồ Tát rất lớn lao.  Đứng về phương diện bình dân mà nói, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì khỏi bị tai nạn về lửa, nhưng đứng về phương diện thực tập từ bi mà nói, khi mình có lòng thương ở trong trái tim thì lửa hận thù không cháy lên được, và mình không thấy nóng.  Bồ Tát Thích Quảng Đức khi ngồi xuống giữa ngã ba Phan đình Phùng, tưới dầu xăng lên người, quẹt lên que diêm, và Ngài đã ngồi yên trong lửa đỏ!  Đối với một người khác, chỉ cần phỏng một chút xíu ở tay là đã la trời la đất, nhưng ở đây lửa cháy toàn thân thể, Ngài vẫn ngồi rất yên, rất thẳng.  Nếu không có lòng thương, làm sao ngồi yên và thẳng được như vậy?  Cái biển lửa đó, đối với Bồ Tát, giống như một ao sen, rất là trong mát.  Có lòng thương thì tất cả mọi thứ đều trở thành tươi mát.  Điều này có thể thấy được trong đời sống hàng ngày của chúng ta.  Nếu có tình thương đối với người kia, thì dù có cực nhọc, chúng ta cũng không thấy cực nhọc, trái lại chúng ta lại tìm thấy niềm vui.  Trời rất lạnh và đêm rất khuya, nhưng nếu có một người bạn, một em bé đang bị thương ở bên ngoài, mà bị buộc ngồi ở trong nhà ấm, chúng ta sẽ thấy rất đau khổ.  Ngược lại, tuy trời lạnh cắt da, nhưng nhờ có tình thương, nên khi đi ra cứu giúp cho người đau khổ đó, ta cảm thấy sung sướng nhẹ nhàng hơn nhiều.  Đi vào lửa mà lửa không cháy được có nghĩa là như vậy.

Thầy Quảng Đức là một người tôi rất quen thân, vì ngày xưa tôi đã từng ở chung với thầy trong chùa Long Vĩnh.  Chùa Long Vĩnh có một bộ báo Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ bút, trong đó có nhiều bài nói về nguồn gốc của Phật giáo.  Thầy Long Vĩnh phải đi hành đạo nhiều nơi.  Ngày xưa thầy đã từng làm Kiểm tăng ở vùng Khánh Hòa, và sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại miền Nam.  Hồi đó tôi làm chủ bút tờ báo Liên Hoa.  Có những đêm tôi ngồi làm việc khuya, tự nhiên thấy sau gáy hơi âm ấm, thì ra thầy đi vào rất nhẹ bước, và để tỏ tình thương, thầy đặt lên gáy tôi một chiếc hôn nhè nhẹ, rất dễ thương.  Có nhiều khi chùa hết gạo, và vì các anh em ở trong chùa ít người biết cách làm trụ trì, cho nên nhiều khi tăng chúng đói.  Thầy đi làm Phật sự về là anh em được no đủ lại, cho nên mỗi lần thấy thầy về thì ai cũng mừng.  Đó là thầy Quảng Đức.  Hồi tự thiêu, thầy có để lại một số bài thơ, và ngôn từ của thầy không chứa đựng một chút bực bội hay căm thù nào cả.  Tự hiến mình cho lửa đỏ để mong Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính phủ bừng tỉnh, để đừng đàn áp Phật giáo nữa.  Chết, nhưng chết rất nhẹ nhàng, chết mà chết bằng thi ca.  Ngồi ở ngã tư Phan Đình Phùng, thầy đã ngồi rất thẳng, báo chí đã chụp hình, quay phim và chỉ bốn, năm tiếng đồng hồ sau là hình ảnh thầy ngồi trong lửa đỏ đã được phổ biến khắp cùng trên thế giới, làm cho thế giới chấn động.  Cố nhiên khi có niềm thương ở trong lòng rồi thì ngọn lửa đó không còn nóng nữa.  Có đức Quán Thế Âm trong lòng là mình có sự che chở.

Nếu bị nước lớn làm cho trôi thì xưng danh hiệu Bồ Tát này, liền được chỗ cạn. Tất cả những câu ở trong Kinh Phổ Môn đều phải được hiểu theo tinh thần đó.   Khi mình nghĩ tới Bồ Tát Quán Thế Âm và mình gọi tên của Ngài, thì tự nhiên cái chất liệu của từ bi, của thương yêu lập tức có mặt với mình, và có chất liệu đó rồi thì mình bớt khổ liền lập tứcChừng nào mình còn có chất liệu thương yêu ấy ở trong lòng, thì chừng đó mình sẽ còn không đau khổ.  Đây là điều mà mình có thể chứng thực được.

Chúng ta biết rằng trong giáo lý của đạo Bụt, thương yêu được làm bằng một chất liệu gọi là hiểu biết.  Khi hiểu biết thì không có sân hận oán thù.  Người kia sở dĩ như vậy là tại vì lý do này, lý do kia.  Người kia đã khổ, đã không có cơ hội để học, để hỏi là vì những điều kiện gia đình, điều kiện cha mẹ, điều kiện xã hội đã từng gây nội kết, cho nên người đó mới nói như vậy, làm như vậy.  Khi có hiểu biết rồi thì mình sẽ không khổ và không gây thêm đau khổ cho người đó.  Khi trong lòng có tình thương là ta có hiểu biết, và lúc đó ta sẽ hoặc ít khổ hoặc không khổ.

Ví dụ mình đang ở trong ngục thất hay trong trại học tập cải tạo.  Mình có thể có hận thù rất lớn đối với những người giam cầm mình.  Đồng thời có một người khác cũng cùng hoàn cảnh với mình, nhưng người đó có vẻ thanh thản, người đó có khả năng thở hít khí trời, ngồi thiền, và có khả năng mỉm cười với người cai ngục.  Người đó có đức Quán Thế Âm ở trong lòng.  Người đó hiểu được rằng, người cai tù đối xử với mình một cách tệ hại như vậy là vì ông ta là nạn nhân của sự giáo dục và tuyên truyền mà ông ta đã tiếp nhận, và ông ta đã thấy mình như một kẻ thù.  Cái nguyên nhân đưa tới vô minhhận thù đó, mình phải trông thấy, và khi thấy được rằng ông ta là nạn nhân của bao nhiêu sự tuyên truyền, lường gạt và ngu dốt đó, thì mình sẽ thương hại ông ta thay vì thù ghét ông ta.  Như vậy hai người cùng ở trong một hoàn cảnh của trại học tập cải tạo, mà một người nuôi hận thù còn một người nuôi tình thương.  Kết quả là người nuôi hận thù sẽ đau khổ hơn người nuôi tình thương gấp bội.  Người nuôi tình thươnghy vọng một ngày nào đó sẽ cảm hóa được người cai ngục, một ngày nào đó sẽ có thể nói được một câu, hay nhìn được một cái nhìn có thể chuyển hóa được người cai ngục.  Người nuôi hận thù thì không bao giờ có cơ hội làm được chuyện đó, và trong lòng thì luôn luôn đau khổ.  Thành ra nếu mình hiểu nghĩa chữ thương đúng như trong tinh thần của đạo Bụt thì mình biết rằng, hể có thương thì có hiểu, mà có hiểu thì có thể tha thứ được.  Có những đứa bé vì dại khờ, đã nói với cha mẹ những câu giống như là bất hiếu, nhưng cha mẹ vẫn không giận vì thấy chúng còn nhỏ quá.  Tất cả chúng ta trong thời thơ ấu, không ai tránh được sự dại dột đó.  Mỗi khi giận, ta thường nói những câu thiếu tình, thiếu nghĩa với cha mẹ, nhưng cha mẹ chúng ta luôn luôn tha thứ, là tại chúng ta còn nhỏ dại quá.

Như trong câu chuyện phim The Yearling, em bé thương con nai, nhưng khi con nai lớn lên, phá hoại hết mùa màng thì cha mẹ em buộc em phải bắn chết con nai ấy.  Em không bắn và rốt cuộc thì mùa màng bị phá hoại nhiều lần.  Vì vậy mà bà mẹ buộc lòng phải tự tay cầm súng bắn chết con nai!  Cảm động nhất là đoạn bà biết con trai mình sẽ rất đau khổ, nhưng bà biết nếu mình không bắn chết con nai thì cả nhà sẽ đói.  Trồng bắp hai ba mùa mà con nai, vì bản tính loài vật, đã phá hết.  Khi biết con nai của mình đã chết, em bé khóc, nổi giận lên và em đã nói một câu như không có một chút tình nghĩa nào hết với mẹ:  ỘI wish you were dead!Ợ Theo em thì ba mẹ em đã làm em khổ, ba mẹ đã giết đối tượng thương yêu của em nên em không thể nào hiểu, không thể nào còn thương ba mẹ được nữa.  Nhưng cha mẹ em không buồn giận vì biết con mình đang đau khổ đến cùng cực.  Nông trại của ông bà rất xa xóm làng nên ở đây em không có bạn, con nai là người bạn duy nhất mà em đã nuôi từ hồi nhỏ, cho nên giết con nai là làm cho em mất hết đối tượng tình thương, làm cho trái tim của em rớm máu.  Như vậy người kia có thể làm những điều dại dột, người kia có thể làm khổ mình bằng ngôn ngữ, hành động hay tư tưởng, nhưng nếu mình hiểu được thì mình sẽ không đau khổ, mình sẽ có khả năng tha thứ.  Và người có hiểu biết thì có thương yêu, nghĩa là có đức Quán Thế Âm trong lòng.  Mà khi đã có Ngài ở trong lòng rồi thì thế nào cũng cảm thấy nhẹ nhàng, ít khổ đau, tại vì đức Quán Âm là chất liệu cam lộ của tình thương, của sự mát mẻ thanh lương.

Trang 509:  Nếu chúng sanh nào có nhiều dâm dục quá mà thường cung kính thực tập, trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát, thì tính nhiều dâm dục sẽ được chuyển hóaNếu không hiểu kinh, nếu đọc kinh với những nhận biết thông thường, thì chúng ta sẽ không hiểu được những câu như thế này.  Tại sao khi trong người của mình có nhiều năng lượng về sinh lý mà niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì có thể chuyển hóa được năng lượng đó?  Thật ra thì cũng dễ hiểuChúng ta đã học rằng cái gọi là năng lượng sinh lý, sexual energy, chẳng qua chỉ là một loại năng lượngNăng lượng tiêu cực hay tích cực thì cũng chỉ là năng lượng mà thôi.  Chúng ta ai cũng có năng lượng cả.  Là người trẻ, lớn lên thế nào cũng có nhiều năng lượng, nếu không thì chúng ta làm sao học hỏi, làm việc, theo đuổi lý tưởng được?  Nhưng nếu ta không biết quản lý năng lượng thì những năng lượng ấy có thể đổ dồn về một phía, và nó sẽ bức bách ta.  Vì vậy vấn đề ở đây là phương cách quản lý năng lượng, đừng để cho năng lượng dồn về một phía tiêu cựcChúng ta phải sử dụng năng lượng để thực hiện những điều mà chúng ta cần thực hiện.  Chuyện học hỏi, chuyện tu tập, chuyện giúp đời, tất cả đều cần năng lượngNếu không làm những việc đó đúng mức thì chúng ta sẽ có dư thừa năng lượng, và năng lượng này sẽ đi về phía tạo nên nhu yếu dâm dục.  Nếu biết sử dụng thì năng lượng sẽ phục vụ chúng ta, phục vụ những người mà chúng ta muốn phục vụ.  Ngược lại nếu chúng ta không biết quản lý thì cái năng lượng đó sẽ dồn về phía sinh lý làm cho chúng ta bị bức bách.  Đó là đứng trên phương diện quản lý năng lượng của con người mà nói.

Đứng trên phương diện hiểu và thương, thì chúng ta thấy rằng cái hiểu và cái thương có thể mang đến cho chúng ta tinh thần trách nhiệm.  Nếu quả thật có hiểu và có thương thì chúng tatinh thần trách nhiệm rất lớn, và tinh thần này sẽ bảo vệ cho chúng taVấn đề dâm dục cũng như tất cả các vấn đề khác, nếu không phải thời, không đúng pháp, có thể gây ra đau khổ.  Khi hai người trẻ yêu nhau, họ muốn ngồi bên nhau, muốn gần gũi nhau, rồi đi đến chỗ hòa hợp giữa hai thân thể.  Đó là chuyện rất tự nhiên, không có gì lạ lùng hết.  Nhưng nếu có hiểu và có thương, thì họ sẽ có tinh thần trách nhiệm.  Họ biết rằng nếu không giữ gìn cho người mình thương, nếu có chuyện gì xảy ra trước khi làm đám cưới, thì sẽ có rất nhiều người đau khổ, trong đó có người mình thương, có gia đình cả hai bên, và có cả mình nữa.  Cho nên vì thương người đó mà mình phải bảo vệ cho người đó.  Cả hai người cùng phải giữ gìn cho nhau.

Trong truyện Kiều, ngày gia đình đi ăn cỗ, nàng Kiều tìm cách ở lại nhà để có dịp liên lạc với người yêu bên láng giềng.  Ruốt cuộc hai người được gặp nhau, hai người đã được uống trà, làm thơ với nhau, cắt tóc trộn với nhau và nhìn trăng thề nguyền cùng nhau.  Đó là những chuyện mà người thương nhau thường hay thực tập.  Sau khi Thúy Kiều chơi đàn thì chàng Kim muốn đi xa hơn cái ranh giới đã định cho hai người trước khi cưới nhau.  Thúy Kiều ngăn lại.  Cô nói rằng, nếu chúng ta đi xa hơn thì sự kính trọng lẫn nhau sẽ mất, và điều đó sẽ có hại cho tình yêu của chúng ta.  Khi Kiều nói lên câu đó với tâm trạng bình thản, thức tỉnh và ngọt ngào thì chàng Kim ngưng lại liền lập tức, và tự nhiên lòng thương mến, quý trọng của chàng đối với người con gái tăng lên gấp bội.  Đây là cái hiểu, hiểu rằng nếu mình không ngưng ở chỗ đó thì thương nhau trở thành hại nhau, mình làm cho hư nát cái tình yêu mà cả hai cùng trân quý.  Cho nên cái hiểu đưa đến cái thương, và cái thương này mới đích thật là thương, vì nó được làm bằng chất liệu của hiểu.  Cái thương này bảo vệ cho mình, cho người mình yêu, cho cha mẹ mình, cho thầy bạn mình.

Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là ta niệm sự hiểu biết, niệm sự thương yêu, nhờ đó mà năng lượng dâm dục sẽ biến thành năng lượng hiểu biết, năng lượng thương yêu.  Do đó mà tâm ta được điều phục và thân ta được hộ trì. Rất rõ ràng, không có gì khó hiểu cả.  Dầu người con trai đang bị người con gái thu hút như một mảnh nam châm, và người con gái cũng bị người con trai thu hút lại như thế, nhưng nếu những người ấy có cơ hội thực tập hiểu biết, thì họ sẽ thấy rất rõ được hiệu quả việc làm của họ, và họ sẽ biết rằng nếu khôngtinh thần trách nhiệm, nếu không kính trọng lẫn nhau thì người này sẽ làm cho người kia khổ và tất cả sẽ bị tan nát.  Cho nên giữ giới không phải là tuân theo những sự ràng buộc, những điều ngăn cấm, làm như vậy chưa phải là giữ giớiGiữ giớithực tập chánh niệm, giới mà không làm bằng chánh niệm thì giới đó chỉ là sự ràng buộc, cấm cản, khổ đau.  Giới thật được làm bằng chánh niệm, và chánh niệm đưa tới cái hiểu và cái thương, vì vậygiữ giới rất dễ.  Mình không muốn làm khổ người kia, không muốn làm khổ mình, không muốn làm khổ cộng đồng của mình, cho nên mình giữ giới.  Thương mà giữ giới chứ không phải vì bị bắt buộc mà giữ giới.  Có đức Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong lòng thì mình sẽ có rất nhiều hạnh phúc khi giữ giới.

Niệm đức Quán Âm sẽ đưa tới sự hiểu biết, lòng thương yêutinh thần trách nhiệm, nhờ vậy mà ta đối trị được với dâm tâm, và có khả năng chuyển hóa năng lượng dâm dục thành ra những năng lượng lành mạnh hơn.

Chúng ta đi xuống một dòng nữa:  Nếu những người nào có nhiều oán hận và nếu biết thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì sẽ được giải thoát ra khỏi sân hận. Khi hiểu được vấn đề đa dâm rồi thì ta sẽ hiểu được vấn đề đa sân.  Học đạo Bụt chúng ta biết rằng giận hờn là một ngọn lửa có thể đốt cháy tất cả mọi công trình của chúng taCông trình của chúng ta như là những khu rừng lớn, phải trồng trỉa, vun bón hàng chục năm, nhưng một đóm lửa giận hờn nhỏ, cũng có khả năng đốt thiêu rụi cả khu rừng.  Chúng ta biết rằng muốn xử lý cái giận, ta có thể thực tập chánh niệm để đưa Bồ Tát Quán Thế Âm vào lòng.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một thứ nước Cam lộ rất tươi mát, thanh lương, và nước đó có công năng dập tắt ngọn lửa hận thù trong tâm ta.  Có đức Quán Thế Âm Bồ Tát tức là có sự hiểu biết, có sự thương yêu, có tinh thần trách nhiệm, do đó khi niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì ta dịu xuống, ta sẽ không nói ra những câu nói có thể làm đổ vỡ đó, những câu nói có thể gây nội kết và tạo ra đau khổ dài dài cho những người chung quanh.

Ngu si thì cũng vậy.  Ngu si tức là thiếu hiểu biết.  Trong lúc ta niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm, ánh sáng của hiểu biết có dịp đi vào, nên dần dần ta bớt ngu si.  Trước đây chúng ta đã học rằng niệm đức Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ không bị lửa, bị nước làm hại, nay chúng ta lại học thêm được rằng niệm sức mạnh của Ngài, ta cũng sẽ không bị tham, sân, si làm hại.  Vì vậy cho nên kinh Pháp Hoa đi từ thấp lên cao, cũng giống như những bãi biển có cát, từ từ đi xuống sâu vào biển.  Cái tài năng của kinh Pháp Hoa là ở chỗ đó, tất cả mọi giới đều có thể hiểu được kinh Pháp Hoa.

Trong số những người niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm, có rất nhiều người nghĩ rằng niệm là để tránh khỏi những tai nạn từ bên ngoài đưa đến.  Họ không biết rằng những năng lượng tham dục, hận thù, và ngu si của mình là những tai nạn rất lớn do chính mình tạo ra cho mình.  Trong kinh Pháp Hoa, tham, sân, và si đã được diễn tả trong ba câu liên tiếp.  Đó là ba tai nạn căn bản của tất cả các tai nạn.

Chúng ta biết rằng nếu ta có một người thương, người đó có thể hoặc là mẹ, là cha, là thầy hay là bạn của ta, mỗi khi có vấn đề khó khăn, khổ đau, ta nhớ đến người đó, gọi tên người đó và ta thấy đỡ khổ.  Người đó chưa phải là một vị Bồ Tát nhưng khi hình bóng của người đó hiện ra trong trái tim của ta, hoặc khi nghe tên của người đó, ta đã thấy bớt khổ, huống hồ đây không phải là một người thường, đây là một người mà hạnh nguyện đã đi đến chỗ cao siêu, cho nên mỗi khi chúng ta tiếp xúc được với chất liệu của Quán Thế Âm, nghe tới danh hiệu của Ngài, thì phép lạ hiển hiện trong lòng ta, và nỗi khổ niềm đau của ta tan biến một cách rất mầu nhiệm.  Đây là một chuyện rất khoa học, không có gì là mê tín dị đoan.

Khi ta tạo dựng ra một trung tâm tu học như Làng Cây Phong, Làng Mai, hay Tu viện Kim Sơn, nếu chúng ta đã từng được sống ở đấy những giây phút hạnh phúc, đã từng tiếp xúc với những người an lạc, hiền lương, thì trung tâm đó trở thành một kinh nghiệm, một hình ảnh rất dễ thương trong tâm ta.  Dù sau này có đi đâu, có lạc lõng tới phương trời nào, thì mỗi khi nghe tên của trung tâm đó, hoặc thấy được hình ảnh của cảnh cũ người xưa, thì tuy là ta đang không ở tại đó mà tâm ta đã dịu lại.  Nghe tên trung tâm đó là ta hình dung được những cây thông, cây sồi, những khuôn mặt từ bi, và tâm ta thấy rất an lạc, vui mừngQuán Thế Âm Bồ Tát cũng vậy, Ngài là một hải đảo rất xanh tươi rất dịu hiền, nên mỗi khi chúng ta hình dung được Ngài, chúng ta nghe được tên Ngài, thì tự nhiên trong lòng ta thấy nhẹ nhàng, thoải mái, và những khổ đau của ta dịu bớt đi rất nhiều, như một phép lạ mầu nhiệmVì vậy niệm Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vấn đề mê tínTâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như mang hình ảnh bà mẹ dịu hiền trong tâm ta, mỗi khi nhớ tới là ta thấy êm dịu trong lòng.  Người nào mà ta thương yêutin cậy, đều có ảnh hưởng như vậy trên tâm của ta cả.

Bồ Tát Quán Thế Âm là ai?  Bồ Tát Quán Thế Âm là người thương, The person who loves, who knows how to love because she understands. Đây là một hình tượng, một nhân vật biểu hiện cho Hạnh môn, cho công dụng của kinh Pháp HoaBồ Tát Quán Thế Âm tới sau Bồ Tát Thường Bất Khinh, tới sau Bồ Tát Dược VươngDiệu ÂmBồ Tát Quán Thế Âm là một hình ảnh tuyệt diệu của sự thực tập, và chúng ta có thể học được, thực tập được những điều mà Bồ Tát thực tập:  Lắng tai nghe để hiểu và để có mặt.  Sự có mặt đó không phải là một sự có mặt tầm thường.  Sự có mặt đó có tính cách chớp nhoáng, ngay trong giây phút ấy, tại vì tâm ta đi rất nhanh.  Mỗi khi chúng ta niệm tưởng đến đức Quán Thế Âm thì Ngài có mặt ngay tại lúc đó, không chậm một giây phút nào cả.  Khi tâm ta niệm đức Quán Thế Âm, thì chất liệu Quán Thế Âm có mặt ngay.  Niệm ở đây là chánh niệm, là nhớ nghĩ, là tỉnh thức.  Niệm luôn luôn có đối tượng, ví dụ khi mình niệm hơi thở, hay mình niệm Bụt, thì hơi thở và Bụt là những đối tượng có mặt tức khắc.  — đây đối tượng là Quán Thế Âm.

Có thể nói rằng chúng ta ai cũng đã từng thương và cũng đã biết rằng thương không có nghĩa là chỉ ngồi đó để hưởng sự ngọt ngào.  Thương là một sự thực tập để đem lại niềm vui cho nhiều người, trong đó có chính bản thân ta.  Khi một người cần đến ta, thường thường ta tìm cách để đến với người đó.  Chúng ta có thể dùng điện thoại, dùng xe cộ, thư từ để có mặt với người đó.  Thấy người đó khổ là tự nhiên chúng ta muốn làm một cái gì để chứng tỏ sự có mặt của ta.  Vì mình là người thương, nên mình muốn làm việc đó.  Khi có ý hướng ấy thì tâm ta đã có chất liệu của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Ta cần làm cho chất liệu ấy lớn lên thôi.  Ta thấy khoảng cách giữa ta và đức Bồ Tát không quá lớn, tại ta cũng đã có hạt giống của thương yêu, của chăm sóc, của sự muốn có mặt.  Thương ai thì muốn có mặt với người đó khi người đó đau khổ.  Cho nên lắng tai nghe, tìm tới là những chất liệu có sẵn trong lòng của tất cả chúng taBồ Tát Quán Thế Âm thực hiện được cái tam muội gọi là Hiện Nhất Thiết Pháp Thân, cho nên Ngài có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, còn chúng ta thì chỉ có thể có mặt ở một nơi thôi.  Nhưng nếu quý vị biết thực tập thì quý vị cũng có thể có mặt ở nhiều nơi trong một lúc.  Một người đàn bà Việt-nam đảm đang cũng là một người đang thực tập hạnh Quán Thế Âm.  Một mặt mình muốn làm cho chồng có hạnh phúc, mặt khác mình muốn làm cho con hạnh phúc, dù chồng đang đi làm việc xa, dù con đang ở nội trú trong một trường đại học.  Rồi đến gia đình chồng.  Mình muốn cho mẹ chồng được no ấm đầy đủ, vì hạnh phúc này tạo ra hạnh phúc cho chồng mình và cho mình.  Vì vậy, những bà mẹ đó, tuy là người trần mắt thịt, nhưng nhìn cho kỹ thì ta thấy bà có rất nhiều cánh tay, tay này với sang bên Đông, tay kia với sang bên Tây.  Đàn ông cũng có thể thực tập như thế.  Có nhiều người biết lo cho hàng trăm người trong một lúc.  Họ muốn có mặt đồng thời ở nhiều nơi.  Đứng về phương diện hình thức mà nói thì ta chỉ có thể thấy được người đó ở một nơi thôi, nhưng trên thực tế thì người đó có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, và chúng ta phải có một máy chụp hình rất đặc biệt, mới có thể chụp được sự thực đó.  Thành ra phân biệt rằng chúng ta là người phàm, còn Bồ Tát là một vị thánh, và sự khác biệt giữa chúng taBồ Tát là một sự khác biệt tuyệt đối, là không đúng.  Bởi vì cái ước muốn, cái phương thức của chúng ta cũng giống như của Bồ Tát, nhưng tại sự thực tập của chúng ta chưa đến nơi đến chốn, thành ra mức độ thực hiện của chúng ta còn nhỏ hơn của Bồ Tát nhiều đấy thôi.  Sự thực thì tâm chúng ta có đủ các hạt giống đó.  Ai cũng muốn có mặt đồng thời ở khắp nơi để làm vơi nỗi khổ của những người mình thương, vì vậy cho nên phương pháp hiện thânphương pháp không phải chỉ có Bồ Tát Quán Thế Âm mới có thể làm, chúng ta ai cũng muốn thực tập và có khả năng làm được việc đó cả.

Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Bụt:  Bạch Thế Tôn, Bồ Tát Quán Thế Âm dạo chơi trong cõi ta bà như thế nào? Chữ dạo chơi này chúng ta đã học rồi.  Dạo chơi tức là không hấp tấp.  Bạch đức Thế Tôn, trong khi Bồ Tát Quán Thế Âm qua lại một cách thoải mái trong cõi ta bà, thì Bồ Tát thực tập việc hiện thân độ người như thế nào?  Bụt trả lời rằng: Khi cần hiện thân Bụt, thì Quán Âm Bồ Tát hiện thân Bụt, để đến với người cần mình. Nghĩ cho kỹ thì mình cũng làm được chuyện này trên một bình diện hạn hẹp hơn.  Mỗi khi mình ngồi uống trà trong tỉnh thức, người ta nhìn mình, thì người ta được độ.  Khi ta có uy nghi, an lạc, thì Bụt có mặt ở trong ta, người kia nhìn ta người kia cũng được chuyển hóa, và trở về với chánh niệm.  Điều đó ta làm được và làm được đến một mức độ nào đó.  Chiếc lá mùa Thu khi rơi xuống, nó cũng có thể rơi một cách rất thanh thản, như lượn múa trong không gian, và cũng thực hiện một hóa thânMùa Xuân, chiếc lá ở trên cành, ca hát và vẫy tay đón nhận ánh sáng, nó cũng có thể độ mình, độ một cách khác.  Cuối Thu, nó rơi xuống và độ mình một cách khác.  Khi chiếc lá đã nằm trên mặt đất, và chân mình dẫm lên, nó độ mình một cách khác nữa.  Chỉ cần mở mắt ra, nhìn cho sâu sắc là mình thấy được những hình thái hiện thân khác nhau của chiếc lá.  Ai nói rằng Bụt và Bồ Tát đã nhập diệt?  Chỉ cần mở mắt ra là thấy được Bụt và Bồ Tát ở ngay bên mình.

Bụt nói tiếp: Nếu cần hiện thân Duyên giác thì Bồ Tát hiện thân Duyên giácDuyên giác là người tu, sống một mình, thực tập quán chiếu về nhân duyên và có thể giác ngộNếu cần hiện thân Thanh văn, thì hiện thân Thanh văn.  Có những người cần một vị Thanh văn để tu học theo, họ chưa có khả năng hay chưa muốn gặp các vị Bồ TátVì vậy khi gặp một vị Thanh văn, ta đừng nói ông chỉ là người ưa pháp nhỏ thì mình sẽ mang tội.  Vì trong vị Thanh văn ấy có một hạt giống Pháp lớn đang sẵn sàng nẩy mầm.  Điều này ta phải thực tập một cách tinh chuyên.  Tiếp chuyện với các thầy Nam tông, với các thầy Bắc tông, với các Phật tử Tây tạng, ta phải cẩn thận, họ đang tu tập như vậy, có thể họ đang là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đừng chê họ tụng đọc như thế này, đốt nhang như thế kia.  Đôi khi hương họ đốt có mùi mình không ưa thích, nhưng có thể họ phải dùng loại hương ấy mới độ được người ở vùng ấy.

Nếu cần sử dụng thân của Phạm Vương, thì hiện thân Phạm Vương, nếu cần dùng thân Đế Thích thì dùng thân Đế Thích. Tiếp đó, ta thấy Bụt nêu ra một số các thân mà Bồ Tát Quán Thế Âm thường hóa hiện để độ người.  Trong đó có thân của vị Tiểu Vương, tức là một vị vua nhỏ như là Vua Tịnh Phạn [Suddhodana], hay thân của một vị trưởng giả, tức là một businessman, Bồ Tát Quán Thế Âm đôi khi hiện thân thành một nhà doanh thương.  Nói chuyện với nhà doanh thương, nếu ta thấy ông không bị kẹt vào danh lợi và quyền hành, thì ta nhận ra đó là Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiệnNếu cần dùng thân cư sĩ, Bồ Tát hiện thân cư sĩ.  Nhìn vào một vị cư sĩ, ta có thể thấy đó là đức Quán Thế Âm Bồ Tát.   Ta phải có thái độ cung kính đúng mức, dù ta đã là người xuất gia và lên tới bực vị Hoà Thượng.

Nếu cần phải hóa hiện ra thân một vị Tể tướng, một vị Bộ trưởng thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra làm Tể tướng, Bộ trưởng.  Nếu cần hiện thân một vị Bà la môn thì đức Quán Âm hiện ra Bà la mônNếu cần hiện ra thân khất sĩ, nữ khất sĩ, cận sự nam, cận sự nữ mới độ người được, thì Quán Thế Âm Bồ Tát hiện ra khất sĩ, khất sĩ nữ, cận sự nam, cận sự nữ để mà độ đời. Khi đọc những câu này, chúng ta thấy rất rõ là chúng ta không nên có mặc cảm tự tôn hay tự ti, tại vì dưới hình thức nào, với ngôi vị nào, chúng ta cũng có thể thực tập hạnh của đức Quán Thế Âm.  Chỉ cần có tình thương trong lòng thì khất sĩ cũng được, khất sĩ nữ cũng được, cư sĩ nam cũng được, cư sĩ nữ cũng được, em bé cũng được, tất cả mọi giới, nếu có tình thương là có thể độ đời.  Mang tâm trạng kỳ thị cao thấp, là chứng tỏ chưa có sự có mặt đích thực của chất liệu Quán Thế Âm trong tâm của chúng ta.

Nếu cần hiện thân phụ nữ thì hiện thân phụ nữ để thuyết pháp.  — các nước Đông Nam Á người ta thường hình dung đức Bồ Tát Quán Thế Âm như một phụ nữ.  Người phụ nữ diễn tả được tình thương dễ dàng hơn người nam, tại vì trong nền văn minh Khổng Mạnh người đàn ông có vẻ hơi khô khan.  Thương nhưng không nói ra, nghĩ rằng nói ra thì mất linh, nên chỉ để tình thương kín đáo trong tâm.  Vì vậy mà nhiều lúc đứa con nghi ngờ, không biết cha mình có thương mình thật không, nếu thương sao mà khuôn mặt lạnh như tiền như thế được?  Ngược lại, người phụ nữ được coi là giới biết biểu lộ tình thương.  Do đó, đứng về phương diện văn hóa mà xét, chúng ta hiểu được tại sao người Á Châu lại chọn lựa hình tướng của người phụ nữ để đại diện cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Trên phương diện hình thức, người phụ nữ diễn tả được tình thương của đức Quán Thế Âm hay hơn người nam giới.  Nam giới hãy cẩn thận, hãy quán chiếu, hãy học hỏi để biểu lộ tình thương của mình.

Nếu cần hình thức của một chú bé hay một cô bé thì đức Quán Thế Âm hiện ra một chú bé hay một cô bé để độ đời.  Nếu cần hóa thân làm loài Trời, loài Rồng, loài Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, loài nhân hay loài phi-nhân, để độ người, thì Bồ Tát liền hiện ra những hình thái đó. Nói tóm lại thì Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa hiện ra bất cứ một hình thái nào để cứu độ, và đôi khi những hình thái đó trông rất dễ sợ.

Tình thương có rất nhiều mặt, nhiều khi nó không hẳn phải là ngọt ngào, không hẳn phải là dịu dàng mà vẫn là tình thương.  Tại các chùa ở Việt-nam, ta thấy có ông Thiện, và ông Ác.  Ông Thiện thì khuôn mặt rất hiền, con nít ưa tới gần, nhưng ông ác thì mình ngán lắm.  Quán Âm Đại Sĩ nhiều khi hiện ra làm Diện Nhiên Vương, có khuôn mặt rất dữ, mắt trừng đổ lửa, tay chỉ chỏ dọa nạt.  Diện Nhiên Vương là một hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Vì muốn cho chúng sanh sợ mà đừng làm điều bậy nên Ngài trừng mắt dọa nạt.  Sự dọa nạt này, không bắt nguồn từ sự giận dữtrái lại đã phát sinh từ lòng thương không bến bờ.

— Việt-nam, trên con đường xe hơi đi từ Sàigòn lên Đà lạt, có một đoạn đi qua đèo rất nguy hiểm, nhiều xe hơi rơi xuống đèo, nhiều người đã bị mất mạng.  Tại đó, người ta có dựng lên một cái miếu để thờ các oan hồn.  Trong giới lái xe có những người có tu học, họ biết chỗ ấy là chỗ nguy hiểm.  Khi lái xe đến đó, tự nhiên họ phát khởi chánh niệm, và chỉ cần thực tập chánh niệm là họ đưa lại sự an toàn cho họ và cho hành khách trên xe.  Nhưng có những người lái xe không thực tập chánh niệm, họ nghĩ rằng nếu đi ngang qua đây mà không có sự cung kính thì có thể những vị thần hay những oan hồn sẽ làm cho họ mờ mắt, và xe sẽ rớt xuống đèo.  Có những người cứng đầu giống như những tay anh chị Cầu Muối, không tin ai hết, không kính nể ai cả, nhưng khi đi ngang qua ngọn đèo này, các vị đó cũng kính cẩn dỡ nón ra, không dám hỗn hào.  Đó là một hình thái hóa độ của đức Quán Thế Âm.  Ngài dọa rằng nếu anh không đàng hoàng thì anh sẽ rơi xuống đèo, nhờ vậy mà Ngài cứu được người đó và cứu luôn được những hành khách trên xe.  Tình thương có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức, đôi khi bên ngoài không có vẻ dịu dàng nhưng bên trong chứa một nội dung rất ngọt ngào.  Người Việt có câu:  Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi,  vì thương mà phải rầy rà.

Sang trang 514:  Này Bồ Tát Vô Tận Ý, vị Bồ Tát có tên là Quán Thế Âm đó đã thực hiện được bao nhiêu là công trình như tôi đã nói, đã sử dụng những hình thái khác nhau để rong chơi trong các cõi nước, mà độ thoát cho các loài chúng sanh, vì vậy quý vị nên cung kính cúng dường vị Bồ Tát đó. Trong những trường hợp nguy hiểm và có người hay hoảng sợ lo âu, Vị Bồ Tát đó thường ban cho họ một sự không sợ hãi, một sự an tâm, vì vậy mà vị Bồ Tát đó được dâng tặng một danh hiệu rất đẹp, đó là người thực tập Vô-úy-Thí.  Vô-úy-Thí là ban tặng cho món quà không sợ hãi.  Sợ là một tâm trạng làm cho chúng ta khổ đau, làm ta mất an lạc rất nhiều.  Sợ hiện tại, sợ tương lai, sợ người, sợ mình, sợ tất cả mọi thứ.  Sống trên đống lửa thì không thể nào có hạnh phúc được.  Sợ người đó không còn thương mình nữa, sợ người đó thù oán mình, sợ người đó đang tìm cách tiêu diệt mình, cái sợ đó làm cho mình mất hết niềm vui sống của chính mình.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một người có cái hạnh đem đến cho chúng ta món quà quí hóa đó, món quà Vô-úy.
Trong đạo Bụt có ba loại quà: Quà vật chất; quà phương pháp, ví dụ dạy cho ta một nghề thì đó là quà phương pháp, chỉ cho người ta cách tu học thì đó là quà pháp; và quà thứ ba là làm cho người ta không sợ.  Kỳ thực, khi biết niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm thì mình hết sợ.  Món quà này ta nhận được liền.  Bài thực tập Quay về nương tựa hải đảo tự thân, Chánh niệm là Bụt, Soi sáng xa gần…, cũng là một món quà Vô-úy.  Những lúc ta hoảng hốt, không biết phải làm gì, chúng ta bất an, thực tập bài đó là phương cách hay nhất mà chúng ta có thể làm trong giây phút ấy.  Không có cái gì hay hơn là trở về nương tựa, tức là thực tập quy y, dùng hơi thở vào, ra, đem lại cho mình sự an lạc, thanh tịnh, vì vậy, đó cũng là một món quà chứa đựng chất liệu vô úy.

Ví dụ ta đang ở trên một chiếc máy bay và máy bay đang gặp khó khăn, không biết có đáp xuống được an toàn hay không.  Lúc đó nếu ta cuống lên, la hét, khóc than, thì hành động ấy chỉ có thể làm hại cho mình, và làm cho người khác mất tinh thần.  Ngược lại nếu lúc đó ta biết thực tập quy y, thì tự nhiên ta đem lại cho tâm hồn ta sự vô úy, ta giúp cho ta thanh tịnh, giúp cho người khác thanh tịnh và trong trạng thái thanh tịnh đó, ta sáng suốt hơn, ta biết cần làm gì, và không được làm gì để cho tình trạng sáng sủa thêm ra.  Đó là những điều mà Bụt đã nói ra để trả lời câu hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ý.

Chúng ta có một bài tán đức Quán Thế Âm cần dịch ra tiếng Việt, tại vì bản chữ Nho hay lắm:

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài,
Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai,
Tường quang thước phá thiên sinh bịnh,
Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai,
Thúy liễu phất khai kim thế giới,
Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài,
Ngã kim khể thủ phần hương tán,
Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tàiTrí tuệ rộng và sâu, từ trí tuệ đó mà phát hiện một biện tài lớn.  Biện tài là khả năng có thể diễn tả được những cái khó diễn tả, có thể chinh phục những người khó chinh phục.  Trí tuệ là chất liệu ở bên dưới, còn biện tài là nghệ thuật ở bên trên.

Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai: Đứng một cách trang nghiêmtuyệt diệu trên các đợt sóng.  Đây là một hình ảnh rất đẹp mà các nghệ sĩ thường dùng để diễn tả đức Quán Thế Âm.  Đứng trên những làn sóng mà không bị những làn sóng kia xô đẩy, làm chìm đắmTuyệt trần ai có nghĩa là không dính một mảnh bụi nào, rất tinh khiết, nhẹ nhàng.  Tuy đứng trên sóng sinh tử nhưng không bị chìm đắm trong sóng sanh tử.

Tường quang thước phá thiên sinh bịnh: Tường quang là ánh sáng lành của đức Quán Thế Âm, có khả năng công phá và chữa lành được muôn ngàn bệnh tật.  Bệnh khổ là một gánh nặng của kiếp người, và Quán Thế Âm là người có thể dùng cái hào quang của mình mà trị liệu tất cả những bệnh khổ đó.

Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai: Nước cam lộ trượng trưng cho tình thương của Bồ Tát có thể làm tiêu tán những tai nạn bị dồn chứa trong vạn kiếp.  Chất liệu cam lộ, tiếng Phạn là Amrta, phiên âm là A-mật-ri-đa, có thể làm tiêu trừ tai họa muôn ngàn kiếp.

Thúy liễu phất khai kim thế giới: Với cành dương liễu xanh biếc, Bồ Tát phẩy một cái là mở ra một thế giới hoàng kim.  Phất nghĩa là phẩy, như trong chữ phất trần, phẩy bụi.  Thế giới hoàng kimthế giới của hạnh phúc.

Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài: Khi đóa sen hồng mọc vượt lên, thì Ngài làm xuất hiện một tòa lâu đài bằng ngọc.  Tòa lâu đài này là tòa lâu đài của giác ngộ, của thế giới cực lạc.  Người ta thường nói kim thế giới, ngọc lâu đài, nghĩa là thế giới vàng, lâu đài ngọc.

Ngã kim khể thủ phần hương tán: Giờ đây con cúi đầu xuống, đốt hươngca ngợi Ngài.  Phần hương tức là đốt hương, tán là ca ngợi.

Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai: Xin quay mặt về phía nhân gianhiển hiện pháp thân của Ngài để chúng con được thấy.  Xin hướng về cõi người và hiện rõ chân thân của Ngài cho chúng con thấy.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bây giờ hiểu nghĩa rồi, ta hãy cố làm một bài dịch cho hay, và nếu có thể thì đặt thành nhạc luôn[11] .

Một bài tán khác cũng đã được dịch và đặt thành nhạc mà lát nữa đây Sư cô Bảo Nghiêm sẽ hát cho chúng ta nghe.  Đây là một bài Thi tán mà tôi được nghe từ hồi còn nhỏ và rất thích.  Mỗi lần nghe là cảm động, nhưng chưa bao giờ có dịp dịch ra quốc ngữ.  Mùa hè năm rồi, có Sư chú Nguyện Hải làm thị giả, ở Cốc Ngồi yên.  Thầy trò có được vài phút rãnh rỗi, tôi ngồi trên võng và lần đầu tiên dịch bài đó ra tiếng Việt.  Nguyên văn bài tán chữ Hán là:

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn,
Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn,
Dương chi nhất đích chân cam lộ,
Tán tác sơn hà đại địa Xuân.

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn: Biển động, và tiếng hải triều vang dội thành ra kinh Phổ Môn, mở rộng ra một cánh cửa để mọi người có cơ hội hiểu biết Pháp mầu.  Câu này rất hùng.

Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn: — giữa chín bông sen kia, lý tức là ở giữa, ở trong lòng, xuất hiện một em bé.  Em bé ở đây tức là sự trinh nguyên, là cái sơ tâm.  Một hình ảnh của sự giải thoát, sự giác ngộ, sự không lo lắng, không u sầuHình ảnh em bé được sử dụng trong nhiều truyền thống.  Đạo Bụt nói rằng khi chúng ta được giải thoát hay khi chúng ta sinh sang cõi cực lạc, thì chúng ta sẽ biến thành một em bé, và được thai nghén trong một bông sen.  Khi bông sen nở ra thì chúng ta lập tức thấy được Bụt A Di ĐàHoa khai kiến Phật có nghĩa là vậy.  Trong Cơ Đốc giáo cũng nói tương tự:  Nếu quý vị không trở lại thành một em bé, thì quý vị không thể nào đi vào nước Chúa. Vì vậy hình ảnh của em bé là hình ảnh của một sự sống mới, một sự chuyển hóa mới.  Người nào tu học đàng hoàng thì cũng đều biến thành em bé, sống an lạc và không có gì để lo lắng. ỘĐồng chơn nhập đạoỢ là đi tu từ hồi tuổi còn nhỏ.  Hai câu này là những hình ảnh rất đẹp.  Thứ nhất là tiếng hải triều làm ra pháp âm, thứ hai là hình ảnh của em bé ở trong bông hoa sen, không có gì đẹp bằng.

Dương chi nhất đích chân cam lộDương chi là nhành dương liễu, nhất đích là một giọt, chân cam lộ là đích thực nước cam lộ.  Một giọt nước cam lộ đích thực ở trên nhành dương liễu của Bồ Tát.

Tán tác sơn hà đại địa Xuân: Tán tức là rải lên, tác là làm thành, sơn hà là sông núi hay đất nước, đại địa là trái đất, the Great Earth.  Chỉ cần một giọt nước trên nhành dương liễu của Bồ Tát thôi, cũng đủ tạo ra một mùa Xuân cho trái đất và cho sông núi.

Bài Thi tán này hay quá làm cho ta có mặc cảm là nếu dịch ra tiếng Việt, thì không thể nào hay bằng.  Tuy vậy hôm ngồi ở Cốc Ngồi Yên, thầy trò đã cống hiến được một bản dịch sau đây, khá nghiêm chỉnh:

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng,
Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen.
Cam lồ một giọt tưới lên,
Xuân về trên khắp mọi miền núi sông,
Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm.

Hơi thơ tuy không được mạnh bằng nguyên bản, nhưng những hình ảnh của bài thơ đều đã có thể diễn tả được.

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng: Kinh Phổ Môn vọng lại từ tiếng hải triều đang dâng lên.

Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen: Một em bé đột nhiên xuất hiện trong lòng bông sen.

Cam lồ một giọt tưới lên: Bài dịch thiếu mất chữ dương-chi.  Đúng ra thì phải dịch là Cam lồ từ nhành dương liễu một giọt tưới lên, nhưng như vậy thì dài quá, thơ lục bát mình chỉ được dùng có sáu chữ thôi.  Nếu nói Cam lồ giọt liễu tưới lên thì cũng được, nhưng lại thiếu mất chữ một.  Chữ một rất quan trọng, chỉ cần một giọt thôi cũng đủ làm cho Xuân về trên khắp mọi miền núi sông.

Bây giờ xin mời Sư Cô Bảo Nghiêm lên hát cho đại chúng nghe…

Trước đây chúng ta đã nói đến danh từ Vô úy thí [Abhaya-d€na], một trong những món quà mà ta có thể dâng tặng cho người khác: Món quà giúp họ đừng sợ hãi.  Chúng ta sợ nhiều thứ lắm:  Sợ sanh, lão, bệnh, tử, sợ những sự bất trắc, chúng ta sợ cuộc đời, đôi khi chúng ta sợ chính bản thân của chúng ta nữa.   Vì vậy thực tập để có sự vô úy, thực tập để có sự không sợ là một pháp thực tập rất sâu sắc.  Khi đạt tới vô úy chúng ta mới có khả năng hiến tặng người khác sự không sợ hãi đó.  Đây là một pháp môn đặc biệt của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Người tu nào cũng phải thực tập cả, để khi đứng trước những thứ làm cho người thường run sợ, người tu có đủ khả năng vượt thoát sự sợ hãi, có sự vô úy thiết lập thân tâm vững chãi trong giây phút hiện tại.

Sau khi được nghe Bụt nói như vậy rồi thì Bồ Tát Vô Tận Ý rất lấy làm cảm phụcBồ Tát nói: Bạch đức Thế Tôn, bây giờ con phải cúng dường Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát liền đứng dậy, tháo chuỗi ngọc rất giá trị đang đeo ở cổ, trao lên cho Bồ Tát Quán Thế Âm và nói rằng: Xin Bồ Tát nhận chuỗi ngọc này do tôi cúng dường.  Lúc bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận.  Chúng ta thấy hình ảnh hiến tặng viên ngọc đã được sử dụng trong kinh Duy Ma.  — đây, kinh Pháp Hoa sử dụng lại hình ảnh đó.  Nên biết rằng Bồ Tát Vô Tận Ý không phải là một người xuất gia, vì nếu xuất gia thì đâu có đeo ngọc ngà châu báu như vậy.  Bồ Tát Quán Thế Âm từ chối là vì Ngài tự hỏi mình nhận chuỗi ngọc này để làm gì?  Lúc đó Bồ Tát Vô Tận Ý mới khẩn khoản: Xin nhân-giả thương chúng tôichấp nhận món quà cúng dường này.  Thấy vậy, Bụt liền can thiệp vào.  Ngài nói với Bồ Tát Quán Thế Âm: Giờ đây Bồ Tát hãy đem lòng thương Bồ Tát Vô Tận Ý và tất cả bốn chúng có mặt ở đây, trong đó gồm có Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân và phi nhân  v.v… mà chấp nhận chuỗi ngọc này. Tấm lòng từ bi đó không nên chỉ hướng về một người, mà hướng về tất cả đại chúng.  Đây là một sự thực tậptính cách tập thể.  Sự cúng dường này không phải từ một mình Bồ Tát Vô Tận Ý mà là từ tất cả đại chúng có mặt trong Pháp hội, cho nên chấp nhậnchấp nhận cho cả đại chúng, và đó là điều mà Bụt đã nói với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Bụt đã không nói: hãy thương Vô Tận Ýchấp nhận.  Bụt nói hãy thương Vô Tận Ý và tất cả những người có mặt ở đây.  Chúng ta phải để ý đến những chi tiết như vậy trong kinh.

Trang 515: Lúc bấy giờ đức Bồ Tát Quán Thế Âm, vì thương tất cả bốn chúng cho nên chấp nhận chuỗi ngọc.  Đây là lần thứ hai kinh lặp lại cái ý đại chúng cúng dường đó.

Sau khi chấp nhận lễ vật, Bồ Tát chia làm hai phần, một phần dâng lên cúng dường Bụt Thích Ca, một phần dâng lên cúng dường Bụt Đa Bảo.  Tích môn và Bản môn đều có mặt như nhau, một lần.  Có Tích môn là có Bản môn, có Bản môn là có Tích môn.  Đó là cách tu tập của chúng ta, không phải Bản môn và Tích môn là hai phần tách rời.  Mình không thể nói rằng tôi chỉ muốn theo Bản môn, nói vậy thì hỏng, tại vì không có Tích môn thì sẽ không có Bản môn.  Ngược lại nếu loại bỏ Bản môn thì cũng sẽ không có Tích môn.  Vì vậy chia chuỗi ngọc ra làm hai phần để cúng dường Bản môn do Bụt Đa Bảo đại diện, và cúng dường Bụt Thích Ca tượng trưng cho Tích môn, đó là để ý tới cả hai bình diện của sự sống.  Tu học cũng vậy, mình phải để thì giờ cho cả hai phía.  Tuy rằng mình đi vào thế giới của Hoa Nghiêm, của ánh sáng, nhưng mình vẫn không thể bỏ thế giới của hiện tượng, thế giới của nồi niêu, của vườn tược, của quét dọn, mình phải chịu trách nhiệm về cả hai phía.

Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta nên biết rằng các vị Bồ Tát đều có thần lực lớn.  Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Phổ Hiền v.v… đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng kiếp trước.  Nhưng vì xuất hiện trong môn thứ ba tức là Hạnh môn, cho nên vẫn hóa hiện làm người đang còn hành đạo, và khi gặp một vị Bụt, họ vẫn cung kính đảnh lễ, tuy chính bản thân họ đã là một vị Bụt.  Sự kiện Bản môn xuất hiện trong Tích môn rất quan trọng, và cái diệu dụng mà mình thấy là Hạnh môn.  Các vị Bồ Tát ta gặp trong kinh ở đây đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng vô biên kiếp trước, nhưng đứng trước Bụt Thích Ca thì vẫn đóng vai trò của người học trò, của nhà hành đạo.  Quí vị phải để ý đến chi tiết này.  Cũng như trong lễ truyền đăng của chúng ta, khi một vị giáo thọ đã được tiếp nhận bài kệ và cây đèn rồi, trước khi vị đó đăng đàn thuyết pháp, thì tất cả mọi người trong đại chúng, kể cả các vị tôn túc, các vị trưởng thượng, đều đứng dậy cung kính hướng về vị giáo thọ mới để chào đón.  Không phải vì đây là vị giáo thọ duy nhứt, nhưng tất cả các vị kia đều đứng dậy để chứng tỏ rằng đây là một vị giáo thọ mà tất cả mọi giới thiên, nhân đều phải cung kính, tại vì vị này mang trong người một sứ mạng truyền bá chánh pháp.  Các vị Bồ Tát như Phổ Hiền, Quán Âm, Thường Bất Khinh đã thành Bụt từ lâu nhưng đối với Bụt Thích Ca, họ vẫn kính cẩn cúi lạy, vẫn hóa hiện như là người đang còn hành đạoNếu không thấy được điều đó thì chúng ta chưa thấy được rằng đây là cái Hạnh môn, được sử dụng để nối lại cảnh giới Bản môn và Tích môn.

Ta biết rằng Tông Thiên Thaiđại biểu là thầy Trí Giả, đã nghiên cứu kinh Pháp Hoa và đã chia Pháp Hoa ra làm hai môn, Tích môn và Bản môn.  Nhưng trong khóa học này chúng ta thấy sự phân chia đó không được hoàn hảo, vì vậy chúng ta đã chia lại và cho rằng ngoài Tích môn và Bản môn, còn có một môn thứ ba gọi là Hạnh môn.  Bản môn thuộc về Thể, Tích môn thuộc về Tướng, và Hạnh môn thuộc về Dụng.  Hạnh môn không phải là một danh từ mới, nó đã được dùng nhiều lần trong kinh điển đạo Bụt.  Ví dụ trong bài Sám Qui Mạng mà các Thiền Viện Việt-nam tụng đọc buổi sáng, có câu:

Khai lục độ chi Hạnh môn,
Việt tam kỳ chi kiếp hải.

Hạnh môn ở đây có nghĩa là cánh cửa của hạnh phúc.  Do đó trong kinh Pháp Hoa, ngoài hai cánh cửa của Bản môn và của Tích môn, ta thêm vào một cánh cửa thứ ba là cánh cửa Hạnh môn, cánh cửa của hành động.  Tất cả các vị Bồ Tát xuất hiện trong kinh Pháp Hoa, đều tượng trưng cho cánh cửa của hành động.  Chúng ta phải nhận diện cho được các vị Bồ Tát đó ở trong kinh Pháp Hoa.

Sau khi đã trả lời cho Bồ Tát Vô Tận Ý, Bụt Thích Ca kết luận:  Này quí vị, tôi vừa nói cho quí vị nghe về sự rong chơi của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thế giới ta bà của chúng ta, và phân tích cái thần lực cũng như cái tự do của Ngài.  Đó là câu kết luận của Bụt trong phẩm này.

Phần ta vừa đọc là phần trường hàng, tức là văn xuôi.  Nhưng chúng ta đã biết rằng ở trong các kinh phần trường hàng luôn luôn xuất hiện sau phần trùng tụng.

Bây giờ chúng ta đọc phần trùng tụng của kinh, bản chữ Việt lẫn chữ Hán.  Mấy câu đầu có lẽ mới được thêm vào khi có phần trường hàng:

Thế Tôn muôn vẻ đẹp Thế Tôn diệu tướng cụ
Con xin hỏi lại Người Ngã kim trùng vấn bỉ
Bồ Tát kia vì sao Phật tửnhân duyên
Tên là Quán Thế Âm? Danh vi Quán Thế Âm?

Bậc diệu tướng từ tôn Cụ Túc Diệu Tướng Tôn
Trả lời Vô Tận Ý: Kệ đáp Vô Tận Ý:
hạnh nguyện Quán Âm Nhữ thính Quán Âm hạnh
Dáp ứng được muôn nơi. Thiện ứng chư phương sở.

Phương sở là những địa phương khác nhau.  Hành động của Quán Âm gọi là Quán Âm hạnh, đáp ứng được với tất cả các phương sở, không phải chỉ đáp ứng được nhu yếu của một nơi, mà đáp ứng được nhu yếu của tất cả mọi nơi.

Lời thề rộng như biển Hoằng thệ thâm như hải
Vô lượng kiếp qua rồi Lịch kiếp bất tư nghị
Đã theo ngàn muôn Bụt Thị đa thiên ức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh. Phát đại thanh tịnh nguyện.

Lời nguyền của Bồ Tát này sâu như biển cả, tại vì Ngài đã trải qua vô lượng kiếp, đã gần gũi học hỏi với muôn triệu vị Bụt và đã phát đại nguyện độ đời rất thanh tịnh.

Đây nói sơ lược thôi: Ngã vị nhữ lược thuyết:
Ai nghe danh thấy hình Văn danh cập kiến thân
Mà tâm sanh chánh niệm Tâm niệm bất không quá
Thì thoát khổ mọi cõi. Năng diệt chư hữu khổ.

Chữ hữu ở đây có nghĩa là cõi nước, như trong danh từ tam hữuba cõi, là Dục, Sắc và Vô sắc.  Nếu người nào nghe được danh hiệu Quán Thế Âm hoặc thấy được hình dáng Ngài mà tâm hồn không lơ là, có một chút chánh niệm, có một chút chú ý thì đã có khả năng diệt trừ những đau khổ của các cõi.  Không quá có nghĩa  là đi qua một cách luống uổng, không lợi ích gì.  Ví dụ khi đi qua rừng trầm hương mà mình không thấy được cây trầm nào hết thì gọi là không quá.

Nếu có ai ác ý Giả sử hưng hại ý
Xô vào hầm lửa lớn Thôi lạc đại hỏa khanh
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hầm lửa biến hồ sen.  Hỏa khanh biến thành trì.

Hỏa khanh là hầm lửa, trì là cái ao, cái hồ.  Nếu ai có ác ý xô mình xuống một hầm lửa, thì nhờ niệm lực Quán Thế Âm, hầm lửa đó tức khắc biến thành một hồ sen.  Chúng ta nên biết rằng con người nhiều khi sống trong hầm lửa, ngồi trên đống than hồng, ngọn lửa của phiền não, của tham sân đốt cháy trong lòng, không khác gì ta đang ngồi trong hầm lửa.  Nếu có chất liệu của tình thương ở trong trái tim thì tất cả những ngọn lửa đó đều tắt, và tự nhiên mình thấy được mát mẻ như đang ngâm mình trong một hồ sen.  Chuyện này nhiều người đã được thực chứngVì vậy mà chỉ cần niệm Quán Thế Âm, chỉ cần làm sao để tình thương có mặt trong trái tim của ta, là hầm lửa trong ta sẽ tắt ngấm, và tự nhiên ta được bơi lội trong một hồ sen.  Niệm bỉ Quan Âm lực, Niệm ở đây là chánh niệm, tức là nhớ tưởng tới, đem sự có mặt của Quán Thế Âm [sự có mặt của tình thương] về trong trái tim ta.  Đó là Pháp niệm Bụt.  Quán Âm lực là sức mạnh, là thần lực của đức Quán Thế Âm, The power of Mindfulness.  Khi tâm của mình thực hiện chánh niệm về Quán Thế Âm, khi mình đã bắt được làn sóng đó, thì tự nhiên có sự có mặt của năng lượng Quán Thế Âm trong tâm mình.  Chánh niệm là một sức mạnh rất lớn cho nên mình gọi là Niệm lực.  Do đó Niệm bỉ Quan Âm lực nghĩa là có chánh niệm về cái thần lực của đức Quán Thế Âm, mà mình đã dịch đơn giản là dùng sức mạnh Quán Âm.

Đang trôi giạt đại dương Hoặc phiêu lưu cự hải
Gặp nạn Rồng, Quỷ, Cá Long ngư chư quỷ nạn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Sóng gió không nhận chìmBa lãng bất năng một.

Nếu bị trôi giạt trong biển cả và nếu có xảy ra những tai nạn lớn như các loài rồng, quỉ, cá mập làm hại, và nếu chúng ta dùng niệm lực Quán Thế Âm thì sóng gió sẽ không làm ta chìm đắm.  Điều này cũng có thật, tại vì nếu hoảng sợ thì chính chúng ta tự làm đắm chiếc thuyền của chúng ta.  Còn nếu an tĩnh, có định lực thì chúng ta biết nên làm gì và không nên làm gì, cho nên sóng gió không làm đắm thuyền của chúng ta được.

Đứng chóp núi Tu Di. Hoặc tại Tu Di phong
Bị người ta xô ngã Vi nhơn sở thôi đọa
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Như mặt trời trên không.        Như nhật hư không trú.
Đây là một hình ảnh rất đẹp.  Nếu ta đứng ở đỉnh núi Tu Di mà có một người đứng sau lưng, xô chúng ta ngã xuống, thì nguy hiểm không cùng.  Nhưng nếu dùng niệm lực Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ đứng lơ lửng trong hư không như là mặt trời.  Như Nhật hư không trú, đó là một hình ảnh rất tuyệt vời, không có gì động tới mình được, mình không bị sa ngã, rớt rụng được.  Khi có tình thương ở trong trái tim rồi thì dù mình đang ở vào tình trạng khó khăn giống như đứng ở đỉnh núi Tu Di, và bị người khác dẫn dụ, lôi kéo, xô đẩy vào vực thẳm, vào đường tội lỗi, thì mình cũng sẽ vững chãi như mặt trời trong hư không, chẳng hề bị lay chuyển, sa ngã.  Có một năm làm thiệp chúc Tết, Làng Mai đã dùng năm chữ Như Nhật Hư Không Trú để chúc mừng năm mới cho mọi người.

Bị người dữ đuổi chạy Hoặc bị ác nhân trục
Rơi xuống núi Kim Cương Đọa lạc Kim Cang sơn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Không hao một mảy lông. Bất năng tổn nhất mao.

Bị oán tặc vây hãm Hoặc bị oán tặc nhiễu
Cầm đao thương sát hại Các chấp đao gia hại
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán tặc thấy thương tình. Hàm tức khởi từ tâm.

Nếu bị những oán tặc vây hãm, cầm dao, cầm kiếm định làm hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả đều phát khởi lòng thương.

Bị khổ nạn vua quan Hoặc tao vương nạn khổ
Sắp sửa bị gia hình Lâm hình dục thọ chung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đao kiếm gãy từng khúc. Đao tầm đoạn đoạn hoại.

Nếu bị chính quyền bắt bớ một cách oan ức và đem ra hành hình, mà dùng niệm lực Quán Âm, thì quan quân sẽ không xử trảm mình được, và lúc đó đao kiếm sẽ gãy ra từng khúc.

Nơi tù ngục xiềng xích Hoặc tù cấm già tỏa
Chân tay bị gông cùm Thủ túc bị nữu giới
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Được tháo gỡ tự doThích nhiên đắc giải thoát.

Nếu bị bắt, bị tra tấn, bị tù đày mà biết dùng niệm lực Quán Âm thì sẽ tháo gỡ được những thứ đó và sẽ được giải thoát, tự do.

Gặp thuốc độc, trù, ếm Chú trớ chư độc dược
Nguy hại đến thân mình Sở dục hại thân giả
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Người gây lại gánh chịu. Hoàn trước ư bổn nhơn.

Người ta dùng thuốc độc, dùng những phép trù, phép ếm để mong hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Âm thì những thứ độc dược đó trở lại làm hại người chủ xướng.  Đây là một đoạn kinh mà khi đọc tới tôi không thích lắm.  Cố nhiên khi mình có ác tâm thì chính mình sẽ là người phải gánh chịu cái ác tâm đó.  Có ác tâm thì khi chưa làm, trong người mình đã bị các độc tố tham sân si làm cho đau khổ rồi.  Khi đã làm, thì cố nhiên gây nhân nào sẽ chịu quả đó.  Nhưng đứng trên phương diện từ bi mà nói thì khi niệm Quán Thế Âm, mình có lòng thương ở trong trái tim của mình, thì mình chỉ muốn bản thân mình thoát khỏi cái nạn đó thôi, chứ mình không muốn thuốc độc hay những phép trù ếm trở lại làm hại tác giảVì vậy tôi nghĩ mình nên chữa lại đoạn kinh này.  Đã đành rằng hại nhân thì nhân hại, đó là theo đúng luật nhân quả, nhưng nếu niệm Quán Thế Âm thì lòng từ của Quán Thế Âm sẽ cứu mình và cứu luôn cả người đó, làm cho họ mở mắt ra, để lần sau họ không còn làm như vậy nữa.

Gặp La Sát hung dữ Hoặc ngộ ác La Sát
Rồng độc và quỷ ác Độc long chư quỷ đẳng
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hết dám làm hại ta. Thời tất bất cảm hại.

Gặp ác thú vây quanh Nhược ác thú vi nhiễu
Nanh vuốt thật hãi hùng Lợi nha trảo khả bố
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều vội vàng bỏ chạy. Tật tẩu vô biên phương.

Rắn độc và bò cạp Ngoan xà cập phúc yết
Lửa khói un hơi độc Khí độc yên hỏa nhiên
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Theo tiếng tự lui về. Tầm thanh tự hồi khứ.

Những loài rắn độc và bò cạp, những hơi độc, chất khói xuất hiện để hại mình, khi niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả những thứ đó đều nghe theo tiếng niệm và tự trở về nơi xuất xứ của chúng.

Sấm sét, mây, điện, chớp Vân lôi cổ xiết điện
Mưa đá tuôn xối xả Giáng bạc chú đại vũ
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều kịp thời tiêu tánỨng thời đắc tiêu tán.

Đây là phần nói về những tai nạn do thiên nhiên gây ra.  Sấm, sét, lụt lội, mưa đá, bão bùng.  Khi những thứ đó xuất hiện và nếu mình an trú trong niệm lực Quán Thế Âm thì tâm ta an tĩnh, đạt được sự vô úy, và những thứ đó sẽ kịp thời tiêu tán, không làm ta sợ hãi nữa.

Chúng sanh bị khốn ách Chúng sanh bị khổn ách
Vô lượng khổ bức thân Vô lượng khổ bức thân
Trí lực mầu Quán Âm Quán Âm diệu trí lực
Cứu đời muôn vạn cách. Năng cứu thế gian khổ.

Chúng sanh bị muôn vàn những khổ ách, và những khổ ách đó thường trực bức bách hình hài của mình, nhưng trí lực mầu nhiệm của đức Quán Thế Âm có thể cứu khổ được cho cả cõi đời.

Trí phương tiện quảng đại Cụ túc thần thông lực
Đầy đủ sức thần thông Quảng tu trí phương tiện
Mười phương trong các cõi Thập phương chư quốc độ
Không đâu không hiện thân. Vô sát bất hiện thân.

Quán Thế Âm đã thực hiện được tam muội Hiện-nhất-thiết pháp-thân, với trí tuệ rất sâu sắc, với phương tiện rất rộng rãi, cho nên ở tất cả các cõi trong mười phương thế giới, không có cõi nào mà Ngài lại không hiện thân.  Sát ở đây nghĩa là cõi.

Những nẻo về xấu ác Chủng chủng chư ác thú
Địa ngục, quỷ, súc sinh Địa ngục, quỷ, súc sanh
Khổ sanh, lão, bệnh, tử Sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Cũng từ từ dứt sạch. Dĩ tiệm tất linh diệt.

Chủng chủng nghĩa là nhiều loại khác nhau; chư ác thú là những nẻo đường ác độc, tức là những đường đưa về địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.  Ác là dữ, thú không phải là loài vật mà là những đường đi, những nẻo về.  Trong ý thức của mình có những nẻo đi và đường về rất là vực thẳm, mà cũng có những nẻo về rất thênh thang.  Không phải chỉ dùng hai chân mới đi được, mình có thể đi bằng cái tâm của mình. Nếu không được điều phụchộ trì, thì tâm mình thường dẫn mình đi theo con đường địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sanh.  Đi về nẻo của Thiên, Nhân, A-tu-la thì đỡ hơn. Dĩ tiệm tất linh diệt, tiệm là từ từ; linh diệt là làm cho nó mất đi.  Như vậy, khi niệm và đưa hình bóng của Quán Thế Âm ngự trong trái tim mình, thì tự nhiên những nẻo về tối tăm của tâm sẽ tiêu tan từ từ, và ánh sáng chánh niệm sẽ mở cho chúng ta những con đường quang đãngChúng ta nên biết rằng tâm của chúng ta nhiều khi dong ruổi trong những nẻo đường rất hôn mê, rất đen tối.  Có ý muốn tự tử, hay có ý muốn giúp người, đó đều là những nẻo về của ý.  Niệm Quán Thế Âm là một trong những phương pháp điều phụchộ trì tâm, để tâm ta đừng đi về những nẻo đường tăm tối như vậy. Niệm Quán Âm một thời gian, từ từ những nẻo về tăm tối đó của tâm ý sẽ dứt sạch, đó gọi là dĩ tiệm tất linh diệt.   Đây là một phương pháp chữa trị rất hữu hiệu của khoa tâm lý trị liệu.

Quán Chân, Chân quán,
quán Thanh Tịnh thanh tịnh quán
Quán Trí Tuệ rộng lớn Quảng đại Trí Tuệ quán
Quán Bi và quán Từ Bi quán cập Từ quán
Thường nguyện, thường Thường nguyện thường
chiêm ngưỡngchiêm ngưỡng.

Đây là năm phép Quán có liên hệ đến danh từ Quán Thế Âm.  Niệm Quán Thế Âm đúng theo phương pháp chính thống, thì lúc niệm ta phải thực tập năm phép quán nói trên.

Chân quán tức là quán về sự thật, nhìn rõ để thấy được sự thật, không bị vọng tưởng chi phối, không bị những cái vỏ, cái hình thái dối gạt bên ngoài làm cho mình mờ mắt.  Dùng cặp mắt quán chiếu để thấy được bản chất của sự vật thì gọi là quán chân.

Quán thanh tịnh là phép quán có thể mang lại cho mình sự bình lặng, sự trong sáng của tâm hồn.  Nó chuyển hóa, lấy đi những hắc ám, tối tăm và bụi bặm của tâm hồn thì gọi là quán thanh tịnh.
Quảng đại trí tuệ quán tức là quán về trí tuệ lớn [Mah€prajự€p€ramit€] nghĩa là quán về Bát Nhã Ba La Mật.  — đây có nghĩa là quán về Không [ệũnyat€]. Mah€prajự€ là Đại Bát Nhã.  Quảng đại là đại; trí tuệBát Nhã, cho nên Quảng đại trí tuệ quán là quán về Không.

Bi quán cập Từ quán.  Bi tiếng Phạn là KaruẾ€, Từ  là Maitrĩ. Đó là bản chất của Quán Thế Âm.   Khi ta niệm Quán Thế Âm thì trong tâm ta có những chất liệu Từ và Bi.  Nếu có những chất liệu đó thì chắc chắn sự chuyển hóa sẽ tới.  Đây không phải là vấn đề tín ngưỡng hay mê tín.  Thường nguyện thường chiêm ngưỡng tức là ta phải luôn luôn tâm nguyệnchiêm ngưỡng năm phép quán đó.  Chiêm ngưỡng ở đây tiếng Anh là Contemplation.

Quán Vô Cấu, Thanh Tịnh Vô Cấu Thanh Tịnh quán
Mặt trời Tuệ phá ám Tuệ nhật phá chư ám
Điều phục nạn, gió, lửa Năng phục tai phong hỏa
Chiếu sáng khắp thế gianPhổ minh chiếu thế gian.

Vô cấu [Vimala] có nghĩa là không dơ bẩn;  Tuệ nhật phá chư ám, là mặt trời của trí tuệ phá tan tất cả những màn hắc ám; Năng phục tai phong hỏa là điều phục được những thiên tai gió lửa.  Năm phép quán đó có tính cách vô cấu, thanh tịnh.  Đó là một mặt trời trí tuệ, có khả năng phá tan những bức màn hắc ám, điều phục được tất cả các tai nạn gió, lửa, và chiếu sáng khắp cùng thế gian.  Đó là thần lực của năm phép quán.
Tâm Bi như sấm động Bi thể giới lôi chấn
Lòng Từ như mây hiền Từ ý diệu đại vân
Pháp cam lộ mưa xuống Chú cam lồ pháp vũ
Dập trừ lửa phiền não. Diệt từ phiền não diệm.

Bi thể tức là cái chất liệu của lòng Bi, giống như tiếng sấm động.  Đại Bi Quán Thế ÂmQuán Thế Âm có lòng thương rất lớn.  — đây chúng ta thấy một hình ảnh rất đặc thù.  Lòng thương thường được so sánh với một cái gì rất dịu hiền, nhưng ở đây lòng thương được so với tiếng sấm động.   Chúng ta nhớ ở kinh Duy Ma, sự im lặng có khi được xem là sự im lặng sấm sét, im lặng nhưng có hùng lực và hiệu năng rất lớn.  — đây lòng thương được ví với sấm động, tại vì lòng thương là một năng lượng tích cực.  Không phải thương rồi chảy nước mắt và không làm gì hết.  Tâm bi không phải là một thứ năng lượng thương xót tiêu cựcSức mạnh của tâm bi hùng vĩ như sức mạnh của sấm chớp.  Lòng từ ở đây được diễn tả dưới hình thái của các trận mưa [Từ ý diệu đại vân] để cho tất cả mọi loài đều được thấm nhuần chất nước cam lộ đó.  Đây là những hình ảnh rất thi caThế gian của chúng ta như một đám cháy.  Trong ta, mỗi người là một đám cháy, chúng ta đang cháy từ trong ra ngoài.  Chúng ta là một thân cây đứng trong một khu rừng đang bốc cháy, và lòng từ bi của Quán Thế Âm như là những đám mây hiền, với sự tác động của sấm sét, những đám mây đó biến thành mưa để chữa trị những đám cháy trên thế gian, và làm cho cây cối mọc lên xanh tươi.

Nơi án tòa kiện tụng Tránh tụng kinh quan xứ
Chốn quân sự hãi hùng Bố úy quân trận trung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán thù đều tiêu tán. Chúng oán tất thối tán.

Vào các phiên tòa kiện tụng hay ra nơi trận mạc đầy bom đạn, nếu chúng ta biết sử dụng niệm lực Quán Thế Âm, thì tất cả những oán thù và tai nạn kia đều có thể vượt qua.

Tiếng Nhiệm, tiếng Quán Âm Diệu âm, Quán Thế Âm
Tiếng Phạm, tiếng Hải Triều Phạm âm, hải triều âm
Tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời Thắng bỉ thế gian âm
Hãy nên thường quán niệmThị cố tu thường niệm.

Đây là những câu rất hay trong Kinh Phổ Môn.  Năm phương pháp Quán kể trên là năm phép quán nói về chữ đầu trong danh hiệu của Bồ Tát: Quán.  — đây kinh nói về năm chữ Âm, tức là nói về năm loại âm thanhliên hệ tới Bồ Tát Quán Thế Âm.

Trước hết là Diệu âmÂm thanh của vị Bồ Tát này là một âm thanh rất nhiệm mầu, rất vi diệuQuán Thế Âm là âm thanh do sự quán chiếu về cuộc đời mà được thể hiện ra.  Ngài là một con người có đủ định lực, có đủ tình thương và nhất là có đủ thì giờ để nhìn vào cuộc đời, quán chiếu về cuộc đời mà hiểu được cuộc đời.  Đó là tiếng nói của người hiểu biết.  Không có thì giờ để nhìn, để hiểu thì không thể có tiếng nói của người hiểu biết.
Tiếng Phạm có nghĩa là tiếng cao quý, ví dụ như Brahma-vih€ra tức là bốn phạm trú, bốn nơi cư trú rất sang trọng, rất cao quí, tiếng Anh là Noble Dwellings.  Bốn phạm trú đó là Từ, Bi, Hỉ và Xả.  Bốn cư xá này là bốn cư xá số một, mình nên tìm đến đó để cư trú cho hạnh phúc, cho thảnh thơi.

Tiếng hải triều là tiếng sóng biển.  Pháp âm của Bồ Tát được ví với tiếng hải triều, hùng mạnh và có khả năng lấn át hết tất cả các tiếng rì rào, than khóc.

Thắng bỉ thế gian âm là tiếng vượt lên trên tất cả các thứ tiếng khác của thế gian, ví dụ như tiếng của danh, của lợi, tiếng của quyền hành, của tranh chấp, của đảng phái.  Tất cả các thứ tiếng đó đều bị tiếng của Bồ Tát vượt lên và chế ngự.

Chúng ta thấy có hai bức tranh, một về Quán và một về Âm, tên của Bồ Tát.  Tám câu kệ nghe như hai câu đối, rất tương xứng.  Về quán, ta có năm phép, về âm thanh ta cũng có năm loại:

Chơn quán, Thanh Tịnh quán, Quảng Đại Trí Tuệ quán, Bi quán, cập Từ quán.    

Diệu âm, Quán Thế Âm, Phạm âm, Hải triều âm, Thắng Bỉ Thế gian âm.

Từng niệm không nghi ngờ Niệm niệm vật sanh nghi
Trong ách nạn khổ chết Quán Thế Âm tịnh thánh
Quán Âmtịnh thánh Ư khổ não tử ách
Là nơi cần nương tựa. Năng vị tác y hộ.

Nghĩa là hãy tiếp tục quán niệm và đừng sanh tâm nghi ngờ, tại vì bậc thánh thanh tịnhQuán Thế Âm kia, thường hiến mình làm nơi nương tựa cho chúng sanh trong mọi trường hợp khi họ gặp tai ách, khổ nạn, và sự chết chóc.

Đầy đủ mọi công đức Cụ nhất thế công đức
Mắt thương nhìn thế gian Từ nhãn thị chúng sanh
Biển Phước chứa vô cùng Phước tụ hải vô lượng
Nên ta cần đảnh lễThị cố ưng đảnh lễ.

Bồ Tát có đầy đủ công đức, đem con mắt thương yêu để nhìn mọi ngườiTừ nhãn thị chúng sanh là năm chữ rất tuyệt diệu, ta chỉ cần làm được chừng đó là đã có hạnh phúc tràn trề rồi.  Đem con mắt thương để nhìn thì chẳng những người kia được hưởng hạnh phúc, mà chính trái tim của mình cũng được thấm nhuần những ngọt ngào của tình thương.  Ta hãy nhìn chúng sanh bằng con mắt từ bi chứ đừng đợi chúng sanh nhìn mình bằng con mắt có thiện cảm!  Biết nhìn mọi loài bằng con mắt từ bi thì không chóng thì chầy, mọi loài sẽ học được phương pháp đó, và sẽ biết nhìn lại mình bằng con mắt từ bi.  Phước tụ hải vô lượng tức là phước đức dồn về và sẽ lớn như biển cả, không thể nào đo lường được.  Thị cố ưng đảnh lễvì vậy cho nên chúng ta hãy cúi đầu đảnh lễ vị Bồ Tát đã thành Bụt từ lâu đó.

Rất tiếc là mình chưa có dịp để dịch lại toàn văn kinh Pháp Hoa, nếu dịch lại thì sẽ dễ đọc hơn nhiều.

Bây giờ ta trở về phần trường hàng kế tiếp của phẩm này.

Lúc đó Bồ Tát Trì Địa [Dh€ranỉndhara Bodhisattva] từ chỗ ngồi, đứng dậy và thưa với Bụt rằng:  Lạy đức Thế Tôn, nếu có người nào nghe được phẩm kinh nói về Bồ Tát Quán Thế Âm này mà thấy được cái sự nghiệp tự do của Ngài, thấy được cái năng lực thực hiện thần thông của Phổ Môn, thì công đức của người đó không phải là ít. Như vậy, người nào được nghe Phẩm Pháp Hoa này, thì người đó đã có công đức rất nhiều.  Nghe được Kinh Phổ Môn tức là đã tiếp xúc được với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đó là lời tuyên bố của vị Bồ Tát tên là Trì Địa.

Trì Địa là một vị Bồ Tát rất ưa lao động.  Hai bàn tay của Ngài thường dính đất, ưa làm vườn, ưa bắc cầu, ưa đào giếng.  Nghe nói rằng, hồi Bụt Thích Ca lên thăm mẹ ở cung trời Đao Lợi thì Bồ Tát Trì Địa đã đắp đường cho Bụt đi.  Ngài là một vị kiến trúc sư, một kỹ sư.  Trì là bảo vệ, duy trì, địa là trái đất, tiếng Anh là Earth Holder. Những người bảo vệ môi sinh, tranh đấu để giữ gìn cho sinh môi trái đất, đều là liên minh của Bồ Tát Trì Địa.  Đây là một vị Bồ Tát chuyên giữ gìn trái đất cho chúng ta, chúng ta cần phải liên minh với Ngài để bảo trì nguyên vẹn trái đất này lại cho con cháu.  Bồ Tát Trì Địa còn bắt cầu, đắp đường để đưa người ta lại với nhau.  Nếu có những người, những nhóm người bị chia rẽ, kẻ ở đầu sông người ở cuối, thì Bồ Tát làm một chiếc cầu đưa họ tới gần với nhau, để ký những hiệp ước hòa bình.  Thế giới của chúng ta rất cần Bồ Tát Trì Địa.

Nói đến đây thì tôi nhớ rằng Bồ Tát Địa Tạng [KỒitigarbha Bodhisattva] cũng phải được đưa vào trong Hạnh môn của kinh Pháp Hoa, vì Ngài là người có đại nguyện tìm đến những nơi đen tối nhất, u ám nhất, khổ đau nhất.  Những nơi đó là địa ngụcLời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng là Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, là chừng nào địa ngục còn có người, thì tôi nguyện còn phải đi tới và nguyện chưa an hưởng quả vị của một đức Bụt.  Bồ Tát Địa Tạnghiện thân cho đại nguyệnĐại Nguyện Địa Tạng Vương là một người luôn luôn thao thức muốn đi vào những nơi còn khổ đau, còn tăm tối.  Chúng ta biết rằng địa ngục không ở đâu xa, chỉ cần đưa tay ra là chạm địa ngục ngay, và đôi khi khỏi cần phải với tay ra bên ngoài, địa ngục cũng có ngay ở trong ta!  Vì vậy đem ánh sáng của tình thương, của hiểu biết tới với khổ đau là lời đại nguyện của Bồ Tát Địa Tạng.  Trong 14 giới Tiếp Hiện có một giới nói về chủ đề này:  Hãy tìm tới những kẻ khổ đau, đừng nhắm mắt trước khổ đau, đừng đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống.  Hãy phổ biến những pháp thoại qua băng Video và băng Audio để giúp cho mọi người bớt khổ.

Muốn cho kinh Pháp Hoa được hoàn mỹ, chúng ta có thể thêm vào một phẩm Bồ Tát Địa Tạng, đồng thời phát triển thêm phẩm Bồ Tát Trì Địa. Cố nhiên ở trong kinh Pháp Hoa chúng ta đã có Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài cũng đã thành Bụt lâu rồi, nhưng vẫn đóng vai Bồ TátĐịa vị của Phổ Hiền ở trong kinh Hoa Nghiêm rất lớn, vì vậy cho nên đến kinh Pháp Hoa chúng ta không được đọc nhiều về Bồ Tát Phổ Hiền nữa.

Tôi nghĩ Bồ Tát Phổ Hiền cần được đề cập đến nhiều hơn trong kinh này, tại vì Bồ Tát Phổ Hiền là một người tượng trưng rất nhiều cho Hạnh môn, và Hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền có tới mười điểm.  Nói tới Hạnh môn thì phải nói tới Phổ Hiềnchúng ta thường xưng tụng Phổ HiềnBồ Tát Đại Hạnh, thành ra sự có mặt của Bồ Tát Phổ Hiền trong phần Hạnh môn rất là quan trọng.
Phật tử Việt-nam ai cũng thuộc mười hạnh của Phổ Hiền, vì bài Hồi Hướng có nhắc đến mười hạnh đó:

1.  Nhất giả lễ kính chư Phật: Nghĩa là mình phải tỏ lòng tôn kính đối với bậc giác ngộ.

2.  Nhị giả xưng tán Như Lai:  Phải khen ngợi Như Lai.  Khen bằng nhiều cách, không phải bằng lời mà là bằng hành động.

3.  Tam giả quảng tu cúng dường: Phải thực hiện việc cúng dường, hiến tặng.  Cúng dường chúng sanhcúng dường Bụt.

4.  Tứ giả sám hối nghiệp chướng: Phải sám hối, luôn luôn phải đổi mới.

5.  Ngũ giả tùy hỉ công đức:  Hễ ai làm được một việc gì tốt, thành công và có niềm vui là mình phải vui theo, phải yểm trợ hết lòng.

6.  Lục giả thỉnh chuyển Pháp luân:  Người nào có khả năng làm giáo thọ, mình phải yễm trợ và cầu họ đi giảng dạy, đừng bắt họ ở ru rú trong chùa.  Những vị Bụt thành đạo chúng ta phải tới cầu xin các vị đi thuyết pháp, đừng có vì những khó khăn mà không thuyết pháp.  Nghe nói Bụt Thích Ca sau khi thành đạo đã có lúc không muốn đi thuyết pháp vì Ngài thấy giáo pháp thì khó, mà chúng sanh thì căn trí không được lanh lợi cho lắm.  Không biết có đúng vậy không, có thể Ngài đã thị hiện ra như vậy để chúng sanh phải thỉnh cầu, nhờ vậy mà thấy được rằng Pháp là quí giá.  Khi nào mình thấy một vị Bụt xuất hiện, thì mình phải thỉnh cầu vị Bụt đó chuyển Pháp luân, nghĩa là đi thuyết pháp hoằng hóa độ sanh.  Nếu thấy một người nào có khả năng thuyết pháp, mình cũng phải thỉnh cầu người đó đi thuyết pháp.

7.  Thất giả thỉnh Phật trụ thế: Là thỉnh Bụt ở lại lâu trong cõi đời để giáo hóa độ sanhBồ Tát Phổ Hiền là người chuyên đi làm những việc này.  Thấy ở cõi nào có Bụt sắp nhập diệt thì Ngài đến khẩn khoản xin Bụt lưu lại thêm một thời gian nữa để cứu độ chúng sanh.

8.  Bát giả thường tùy Phật học: Nghĩa là tinh chuyên theo học với Bụt.  Đừng nói rằng Bụt còn đó, lúc nào mình đến học cũng được.  Nay bận công việc, thôi để đến mai, hoặc năm nay mình kẹt, sang năm chắc chắn mình sẽ thu xếp để đi học.  Đó không phải là hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền; hạnh của Bồ Tát là nơi nào có Bụt giảng dạy, là nơi đó có Ngài đến học hỏi.

9.  Cửu giả hằng thuận chúng sanh: Mình phải đi theo với chúng sanh, đi theo với mọi người để hành đạo, để giúp đỡ, để điều phục chứ đừng trốn họ.  Tu không phải chỉ là tiếp thu vào trong ngũ uẩn của mình, mà phải đưa tay ra, phải tiếp xúc với chúng sanh, phải thấy được rằng những đau khổ, thao thức và ước mơ của chúng sanh là những đau khổ, thao thức và ước mơ của chính mình.  Phải tìm đủ mọi cách để đưa họ đi trên con đường tu họcchuyển hóa như mình, đó gọi là hằng thuận chúng sanh.

10.  Thập giả phổ giai hồi hướng: Khi thực hiện được một điều gì, học được một cái gì, trồng được một cây gì, làm được một điều gì trong ngày, mình đều nói rằng, cái đó là để cho hạnh phúc chung, để cho sự giác ngộ chung, chứ không phải mình đã làm việc đó riêng cho mình.  Học kinh Pháp Hoa không phải là học riêng cho mình mà là học cho tất cả mọi người.  Rửa một cái nồi, không phải chỉ rửa riêng cho mình, chỉ chuyển hóa riêng nội tâm của mình, mà làm cho mọi người và mọi loài.  Bước một bước chân tỉnh thức là bước cho tất cả nhân loại, tại vì nếu có lòng từ, lòng bi, có định, có tuệ thì bước chân đó sẽ làm lợi cho mọi loài hữu tình.   Đừng nghĩ rằng học như vậy là học riêng cho mình, tu như vậy là tu riêng cho mình.  Mình phải biết hồi hướng, tiếng Anh là Transferring the merits to all beings. Mình không có trương mục riêng, tất cả những công phu tu tập của mình đều đưa vào một trương mục mà ai cũng có thể sử dụng được hết, tu như vậy mới đúng là tu theo tinh thần của Bồ Tát Phổ Hiền.

Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện trong hội Pháp Hoa như là một trang nam tử.  Nhưng trong những hình thái tôn thờ ở nhiều nước Á Đông, thì chúng ta lại thấy Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện dưới hình thức một phụ nữ.  Điều này cũng dễ hiểu, vì phụ nữ có thể tượng trưng được tình thương một cách tự nhiên, dễ dàng hơn nam giới.  Hơn nữa, trong kinh có nói rất rõ rằng Bồ Tát Quán Thế Âmtình thương, và Ngài có thể trao tặng tình thương đó dưới nhiều hình thái khác nhau.  Vì vậy mà tôn thờ và hình dung Bồ Tát Quán Thế Âm dưới hình thức một phụ nữ, là một chuyện rất tự nhiên, rất hợp lý.

Chùa Bút Tháp ở miền Bắc Việt-nam có một tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nghìn tay, nghìn mắt rất đẹp.  Nghìn cánh tay có nghĩa là hoạt động nhiều cách.  Tình thương phải được thể hiện ra bằng nhiều cách.  Đối với những người không quen với ngôn ngữ điêu khắc của Phật giáo, thì họ sẽ lấy làm lạ khi thấy một vị tượng có nhiều tay quá.  Nhưng đối với chúng ta thì đó là một hình ảnh dễ hiểu, tại vì khi thương ai, ta muốn nâng đỡ, muốn giải quyết khổ đau giùm cho người ấy, và khi có nhiều người khổ đau quá thì ta phải có mặt ở nhiều nơi, và ta phải có nhiều cánh tay để giúp đỡ.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra.

Đó là hai câu thơ ở trong tác phẩm Nam Hải Quán Âm bằng chữ nôm.  Hai câu đó chứng tỏ rằng tình thương phải được thực hiện bằng hành động.  Nói suông rằng tôi thương anh lắm thì không giúp được gì, vì vậy mà phải có cánh tay.  Cánh tay để vươn tới.  Thành ra trong Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Phổ HiềnPhổ Hiềnđại hạnh, là hành động lớn.  Do đó chúng ta thấy cái chân lý của Hoa Nghiêm đã thấm nhuần tất cả mọi hình ảnh:  Bồ Tát Quán Thế Âm mang cánh tay của Bồ Tát Phổ Hiền.

Nghìn mắt cần thiết cho nghìn tay.  Mắt là để thấy, để hiểu.  Nhận thức mà dẫn tới hành động thì mới có kết quả, do đó vị tượng có nghìn tay thì phải có luôn nghìn mắt.  Mà con mắt là tượng trưng cho Bồ Tát Văn Thù Đại Trí.  Con mắt là để nhìn sâu, nhìn kỹ, để phát hiện ra sự thật, đó là  tác dụng của thiền quánThiền quán nghĩa là nhìn cho thật sâu, cho thật kỹ để thấy được cái chân tướng của sự vật, vì vậy mà con mắt là tượng trương cho thiền quán [VipaỐyan€].

Khi nhìn kỹ Bồ Tát Văn Thù, mình cũng thấy có trái tim của Quán Thế Âm và cánh tay của Phổ Hiền, cho nên một vị Bồ Tát chứa đựng tất cả các vị Bồ Tát khác, đó là chân lý của Hoa Nghiêm.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra,
Xem trong biển nước Nam ta,
Phổ mônđức PhậtQuán Âm.

Hình tượng đã là như vậy thì sự hành trì cũng như vậy.  Tại sao lại có một ngàn?  Một ngàn chỉ là con số tượng trưng, một ý niệm về nhiều, nhiều lắm, Thiên thủ thiên nhãn.

Vào dịp lễ kỷ niệm 2500 ngày Bụt nhập diệt ở New Delhi, Ấn độ, phái đoàn Việt-nam từ Hà nội có sang tham dự, và có thỉnh theo tượng đức Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn để cho các phái đoàn quốc tế thấy cái tác phẩm nghệ thuật đó của Việt-nam.  Hồi đó đất nước mình còn chia làm hai, miền Nam đã gởi một phái đoàn, và miền Bắc một phái đoàn khác, và hai phái đoàn đã bí mật gặp nhauẤn độPhái đoàn miền Nam do Hòa thượng Huệ Quang lãnh đạo.  Hồi đó Tổng hội Phật Giáo Việt-nam ở miền Nam có một tờ tạp chí chính thức gọi là tờ Phật Giáo Việt-nam, Hòa Thượng Huệ Quang làm chủ nhiệm, còn tôi là chủ bút.  Trong khi lãnh đạo phái đoàn sang Ấn độ, Hòa Thượng bị đứt mạch máu và viên tịch tại bên đó.  — nhà chúng tôi có ra một số báo đặc biệt để tưởng niệm cố Hòa thượng Chủ nhiệm Huệ Quang.  Hồi đó phái đoàn miền Bắc có Hòa thượng Trí Độcư sĩ Lê Đình Thám, cùng một số các vị khác.  Hai vị trên có công lớn trong việc chấn hưng đạo Bụt ở Việt-nam.  Phái đoàn miền Nam có Luật sư Trần Thanh Hiệp đi làm thông ngôn.  Tôi vẫn còn nhớ lúc anh Hiệp đến Phật học đường Nam Việt để mượn cuốn tự điển Anh Việt.  Hồi đó ở Việt-nam tiếng Anh chưa được phổ biến lắm.

Vào chùa thấy tượng Quán Âm ngàn mắt ngàn tay, nếu quen với ngôn ngữ của điêu khắc Phật giáo thì chúng ta hiểu ngay đây là hình tượng để nói lên một thứ tình thương chân thật, được xây dựng bằng cái thấy, bằng sự quán chiếu, bằng hiểu biết do sự nhìn sâu.  Đây là một thứ tình thương đích thực, không phải thứ thương suông bởi vì nó được thể hiện bằng những cánh tay.  Khi hướng dẫn khách vào chùa, ta phải giải thích như vậy để họ có thể hiểu được, nếu không họ sẽ thắc mắc, vì mỗi nền văn hóa có một thứ ngôn ngữ riêng.

Đôi khi con mắt kia mình phải tìm mới thấy.  Nhìn qua thì chúng ta chỉ thấy vị tượng có nhiều cánh tay thôi, nhưng nếu nhìn cho kỹ, ta sẽ thấy trong mỗi bàn tay có một con mắt.  Bàn tay mà có con mắt là quan trọng lắm, bàn tay mà không có con mắt là nguy hiểm vô cùng.  Hành động mà không đi theo sự hiểu biết thì sẽ đưa đến sự đau khổ cho người mình thương, chứ đừng nói người mình không thương.  Ai cũng muốn đem lại hạnh phúc cho đất nước, cho đồng bào, cho nhân loại, cho các loài, nhưng cái tình thương không có sự hiểu biết thì chưa hẳn là tình thương và có thể gây đổ vỡ dù mình có đầy tràn thiện chíThiện chí chưa phải là tình thương, cái ý muốn thương chưa phải là thương.  Khả năng thương là khả năng thấy và khả năng hiểu để hành động, vì vậy mà các nhà điêu khắc đã diễn tả tình thương rộng lớn của Bồ Tát Quán Thế Âm như cả ngàn cánh tay có con mắt trong mỗi bàn tay.  Sự tu hành của mình, nói tóm lại, là để đặt vào trong lòng bàn tay của mình một con mắt.  Chừng nào mình đặt được một con mắt vào lòng bàn tay của mình, thì lúc đó hành động của mình sẽ có an toàn.  Bất cứ hành động nào của mình cũng sẽ đem lại hạnh phúc cho người và cho chính mình.  Nếu chưa có con mắt ở trong lòng bàn tay, thì chúng ta phải cẩn thậnTu quán là để có con mắt tuệ, tuệ nhãn.  Có tuệ nhãn thì dù muốn hay không cũng sẽ có từ bi, tại vì cái thấy sâu sắc đưa tới cái thương đích thực.  Và tình thương không thể nào không biểu hiện bằng hành động.

Người hành giả như một máy thâu hình, hay máy thâu thanh, phải có những điều kiện mới có thể cảm ứng được với những luồng sóng truyền thanh hay truyền hình.  Những đài phát thanh và phát hình luôn luôn có đó, nhưng mình phải có cái đồng thanh, đồng khí thì mới tương ứng và tương cầu được với những đài phát lớn.  Bụt và các vị Bồ Tát là những đài phát thanh và phát hình lớn, luôn luôn có mặt ở trong vũ trụ, nhưng nếu cái máy thu của mình không hội đủ điều kiện, thì mình sẽ không bắt được những làn sóng đó, và mình nói rằng không có phát thanh, không có phát hình, không có làn sóng điện.  Trong bài kệ kiến giải của Sư cô Như Phước, Sư cô nói rằng cái bí mật của hạnh phúc là sống cho trọn vẹn ngày hôm nay, và tiếp nhận được tình thương đến từ muôn loài.  Tình thương đó có thật và đang đến, cũng tương tự như những làn sóng truyền thanh, truyền hình đang tới với mình luôn luôn, nhưng tại vì tâm mình bị bít lấp, cho nên mình không mở được cõi lòng để đón nhận tình thương đó.  Không khí, hay là nước trong, những thứ này sẵn sàng có mặt đó cho mình, nhưng vì mình tự trốn tránh trong cái tháp ngà đau khổ của mình, cho nên mình không đón nhận được tình thương của không khí, của nước trong, của đám mây, của mặt trời, tất cả đều có ý muốn nuôi dưỡng, che chở cho mình.  Bụt và Bồ Tát cũng vậy, đó là những sự có mặt rất thực tế mà không cần phải có một đức tin mới tìm thấy được, chỉ vì con mắt mình không mở ra, và chỉ vì trái tim mình khép kín lại, cho nên mình mới không nhận ra sự có mặt của các vị Bụt và Bồ Tát ở chung quanh mình đó thôi.

Có những vị Bụt và Bồ Tát không có tên tuổi, không được các đài truyền thanh, truyền hình, hay báo chí nhắc tới, nhưng họ có mặt ngay chung quanh chúng taTình thương của họ được thể hiện rất rõ ràng, họ là những Bồ Tát vô danh, có mặt khắp mọi nơi.  Trong bước đường hành đạotây phương, thỉnh thoảng tôi có gặp những vị Bồ Tát như vậy.  Họ là Bồ Tát lớn, nhưng không ai nhìn rõ họ để có thể nhận ra họ là những vị Bồ Tát lớn.  Ví dụ ở Hòa lan có một phụ nữ, mới trông vào, mình không thấy gì đặc biệt cả, Bà tên là Hebe KolhbrỎgge.  Bà đã giúp rất nhiều cho trẻ em ở Việt-nam.  Trong đệ nhị thế chiến, bà đã tạo nơi ẩn náu cho rất nhiều người Do thái, và đã giúp di chuyển hàng chục ngàn người Do thái sang các nước khác để họ khỏi bị chết dưới bàn tay của người phát-xít.  Một người có tâm địa và hành động như vậy, nếu ta không gọi là Bồ Tát thì gọi là gì nữa?  Vậy mà Bà đã không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, chẳng có một giấy tờ gì để công nhận việc cứu độ chúng sanh của Bà.  Tôi chỉ vì may mắn nên đã được gặp bà trên bước đường hành đạo.  Bà sống rất đơn giản, đạm bạc và đã thực hiện được điều mà mình không ngờ một phụ nữ có thể đơn phương làm được.  Trong thời gian làm việc chung, tôi thấy Bà vẫn tiếp tục giúp những người câm, người điếc ở trong các nước Xã hội chủ nghĩa một cách rất sốt sắng và âm thầm.  Bà đã không mang danh là Phật tử, không mang một danh xưng nào hết.  Mình phải có một trái tim rộng mở, phải đừng có thành kiến, mới nhận ra được những vị Bồ Tát có mặt chung quanh mình, ở cùng trong xã hội với mình.  Hiện giờ tại các nước Tây phương cũng như Đông phương, có những người đang âm thầm làm việc để cứu trợ cho biết bao nhiêu người bệnh tật, nghèo đói, cùng khổ, đang bị áp bức.  Họ làm những việc cứu trợ đó một cách rất im lặng.  Nếu ta nhởn nhơ trong hoàn cảnh của ta, thì ta không thấy được sự có mặt của những người đó, và không biết đến những hoạt động rất lặng lẽ nhưng rất thực tế của họ.  Họ không cần báo chí tường thuật, không cần đài phát thanh, phát hình đề cập đến, nhưng họ đã làm những việc như vậy từ mấy mươi năm nay, và vẫn tìm được niềm vui và sự an bình trong công tác hàng ngày.

— Huế có một Phật tử tên là bác Siêu.  Bác tuy rất im lặng, nhưng vì bác đã làm việc xã hội lâu ngày quá, nên ở Thừa thiên không ai là không biết bác, và ai cũng nghĩ bác là một vị Bồ Tát.  Bác làm việc rất âm thầm.  Vốn liếng của bác chỉ là một chiếc xe đạp rất cũ.  Vậy mà ở đâu Bác cũng đạp đến được, và bác đã giúp cho rất nhiều gia đình đơn bạc, nghèo đói, bệnh tật.  Bác không có gia tài, nhưng bác có một trái tim, vì vậy mà bác đã có nhiều bạn hữu có thể giúp bác làm công việc từ thiện.

Năm 1964, trong một chuyến về Huế, tôi đã mời bác lên chùa Từ Hiếu để được chuyện trò và học hỏi những kinh nghiệm của bác.  Hồi đó, tôi vừa thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và nghĩ rằng mình sẽ thực hiện những công tác tình thương trên toàn quốc, có tính cách hệ thốngtỷ lệ lớn hơn bác Siêu.  Đó là tại tôi nghĩ rằng mình đang làm theo phương pháp mới, mình đào tạo nhiều cán bộ cùng một lúc, và mình đã nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các nước, cho nên mình sẽ làm hay hơn bác.  Trong khi ngồi nói chuyện với bác, tôi vẫn mang cái niềm tự tin rằng mình sẽ khoa học hóa và hệ thống hóa được công việc, và tôi muốn mời bác gia nhập vào trong công tác này.

Mục đích của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội không chỉ là công việc từ thiện, mà gồm cả công việc phát triển xã hộiPhong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội là để giúp dân, giúp nước, chứ không phải là để làm từ thiện đơn thuần.  Giúp dân, giúp nước là giúp cho chính mình.  Sau khi nghiên cứu nhiều nơi, tôi trở về lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, nhằm bốn mục tiêu:

1.         Giáo dục: Nông thôn có nhiều làng không có trường học và trẻ em lêu lổng,  không có học vấn.  Vì vậy công việc đầu tiên của một tác viên xã hội khi về làng, là tìm cách chơi với các em để dạy các em.  Mình có thể chơi và dạy các em ở ngoài bờ sông hay dưới gốc đa.  Khi số lượng các em lên đến hai ba mươi đứa, lúc trời mưa, mình kéo nhau vào xin tá túc ở nhà của một dân làng để tiếp tục việc học.  Từ từ cái ý niệm xây một mái trường bằng tre và lá dừa phát sinh ra, và chính người tác viên đó sẽ đề nghị dân làng họp lại để làm ngôi trường đó cho làng.  Đừng đợi chính quyền hay một sự giúp đỡ từ bên ngoài, vì đợi thì sẽ phải đợi hoài.  Thanh niên phụng sự xã hội phải bắt đầu từ những cái gì mình có, từ những cái gì mình biết chứ không chờ đợi một sự viện trợ, dù sự viện trợ đó là từ chính quyền của nước mình.

2. Y tế: Thành lập một trạm y tế, dạy dân làng cách phòng ngừa tật bệnh, và tự thiết lập những nhà vệ sinh bằng xi-măng rẻ tiền.  Dạy trẻ em ngăn ngừa những bệnh thông thường như bệnh cảm, sốt rét, bệnh đau mắt v.v…

3.         Kinh tế: Làm sao cho sự sản xuất của dân làng tăng lên, ví dụ tìm cách tổ chức hợp tác xã; chỉ cho dân làng sử dụng phân bón đúng mức; cách chọn hạt giống; phương pháp trị liệu những chứng bệnh của cây cối mùa màng; tổ chức để dân làng có thể làm những tiểu công nghệ trong giờ rảnh rỗi để tăng thêm ngân sách gia đình; giúp cho dân làng biết phương pháp chăn nuôi gà, vịt mà không để chúng bị bệnh tật. 

4.         Tổ chức: Giúp dân làng tổ chức lại làng xã, công việc tương trợ, tại vì nếu không tổ chức lại đàng hoàng thì mình không thành công được.

Hồi đó với kiến thức, với kinh nghiệm như vậy, tôi nghĩ rằng, phong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội sẽ là một hình thái hoạt động mới, và so với hình thái hoạt động cổ điển của bác Siêu thì nó phải tiến bộ hơn nhiều.  Cho nên tôi có niềm tin rất lớn và tôi nghĩ rằng mình có thể làm hay hơn bác Siêu.

Trong lúc tiếp xúc, bác Siêu ngồi im lặng nghe những điều tôi trình bày.  Sau đó bác cũng đồng ý tham dự trong khi bác vẫn tiếp tục con đường riêng của bác.  Cho đến khi người Cộng sản lên nắm chính quyền, họ cấm hết tất cả các hoạt động của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và họ bắt đầu bắt tác viên của trường, thì tôi mới nhận ra rằng cái phương pháp của bác Siêu rất là vô tướng.  Bác vẫn tiếp tục công việc từ thiện như thường, vẫn với chiếc xe đạp cũ kĩ ọp ẹp đó, bác đi tới khắp hang cùng ngõ hẻm và vẫn làm được cái công việc mà ngày xưa tôi cho là không khoa học cho lắm.

Không ai ở Thừa thiên mà không biết cái hạnh nguyện, cái âm thầm lặng lẽ của bác.  Bác Siêu là một vị Bồ Tát không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, và báo chí không nhắc tới.  Nếu mở mắt ra, mở trái tim ra, mình sẽ tiếp xúc được với rất nhiều người như bác Siêu ở ngay trong đất nước của mình.  Trong những con người đó, có chất liệu của Quán Thế Âm, và những người đó thực sự có niệm lực của Quán Âm.  Nhờ thế mà họ mới trường kỳ công tác được như vậy, nếu không thì chỉ vài ba tháng là họ bỏ cuộc, họ chán nản.  Vì vậy khi niệm đức Quán Thế Âm, phải thực tập sâu sắc mới có thể thành công được.  Nếu cái máy thâu hình của mình hư, thì dù mình có bấm nút mấy trăm lần đi nữa, nó vẫn không tiếp nhận được hình ảnh của đài truyền hình.  Niệm danh hiệu Quán Thế Âm cũng vậy, mình phải chuẩn bị tâm của mình cho thanh tịnh, cho chí thành thì mình mới bắt được cái nguồn năng lượng đại bi kia.  Niệm mà thấy cái hiểu và cái thương có mặt trong ta, thì lúc đó niệm mới thực sự hữu hiệu, còn niệm bằng miệng mà trong lòng vẫn có hờn giận, nghi kị, tham lam, buồn chán, thì mình sẽ không bắt được cái tinh lực của đức Quán Thế Âm.  Muốn thừa hưởng được niệm lực Quán Âm thì mình phải bắt được niệm lực ấy.  Cho nên những người niệm đức Quán Âm, niệm Bụt Di Đà, hay Bụt Thích Ca mà trái tim vẫn còn cứng như đá thì ta biết rằng họ không bắt được làn sóng từ bi.  Niệm Bụt là một pháp môn rất thâm diệu đem lại một kết quả rất tốt.  Chúng ta không đặt vấn đề nghi ngờ mà chỉ đặt vấn đề niệm như thế nào để trái tim của mình có thể mở ra và để cho tình thương, sự hiểu biết và cánh tay của đức Quán Thế Âm có thể có mặt trong mình.  Trong chúng ta, người nào cũng đã có những giây phút kinh nghiệm về hiểu, về thương và về một ước muốn hành động.  Khi chúng ta có cái hiểu, cái thương và sự muốn hành động đó, thì chúng ta biết rằng hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm đã ngự trong trái tim của chúng ta rồi.  Nếu chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì không có lý do gì mà tinh lực của đức Quán Thế Âm không tiếp tục tuôn tràn vào trong trái tim của chúng ta.

Khi niệm Quán Thế Âm ta phải niệm một cách thông minh, phải biết rằng niệm theo phương pháp nào thì mới có kết quả, và ta phải giúp cho những người khác, đừng để cho họ niệm một cách mê tín, máy móc và sai lạc.  Niệm đức Quán Thế Âm như niệm một vị thần linh chỉ biết ăn hối lộ, cúng chuối, cúng xôi và mong đức Quán Thế Âm đứng về phe mình để đánh dẹp phe kia, niệm như vậy thì ngàn đời Bồ Tát Quán Thế Âm cũng không ứng hiện được trong trái tim của ta, tại vì Bồ Tát Quán Thế Âmhiện thân của cái hiểu, cái thương và cái hành động.

Mình cũng đừng có nghĩ rằng đức Bồ Tát Quán Thế Âm là một thực tại hoàn toàn ở ngoài mình.  Đây là giáo lý của Hoa Nghiêm, mà cũng là giáo lý của Pháp HoaGiáo lý này cũng căn cứ trên nguyên tắc duyên sinh [Pratĩtyasamutp€da], hay duyên khởi.  Khi chắp tay lễ Bụt, mình phải thấy rằng Bụt có trong ta và ta có trong Bụt, thì sự lễ lạy đó mới đúng với tinh thần Phật giáoChúng ta thấy trong đạo Hồi Hồi hay trong đạo Cơ Đốc cũng có sự lễ lạy, nhưng có thể sự lễ lạy này không giống như sự lễ lạy trong đạo Bụt.  Chúng ta có một pháp môn lạy mà đã mấy ngàn năm nay, người Phật tử đã thực tập rất đều đặn, rất thâm sâuDâng hương cũng là một pháp môn đặc thù, chúng ta không chỉ dâng hương trầm mà dâng hương Giới, hương Định và hương Tuệ, hương Giải Thoát và hương  Giải Thoát Tri Kiến. Có giới, có định, và có tuệ để dâng lên, thì Bụt bằng lòng hơn.  Sau khi dâng hương lên rồi, chúng ta mới quán tưởng, tức là chúng ta lạy xuống.  Phép quán tưởng này là một phép quán tưởng rất cao siêu.

một lần tôi trình bày tại Đại học Boston cho những nhà thần học nghe về phép quán tưởng này, và họ rất lấy làm ngạc nhiên, vì không có một tín đồ nào lễ lạy vị Giáo chủ của mình với một tinh thần như vậy.  Chắp tay lại mình đọc:

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghị,

có nghĩa là người kính lễ và người được kính lễ, cả hai đều không có sự có mặt riêng biệt và tách rời khỏi nhau.  Đây là đạo lý duyên sinh được nhìn nhận.  Bạch đức Thế Tôn, con đang lễ lạy Ngài và con biết rằng con được làm bằng Ngài và Ngài được làm bằng con.  Đức Thế Tôn được làm bằng những chất liệu không phải là Thế Tôn, cũng giống như một bông hoa được làm bằng những chất liệu không phải là bông hoa, như ánh sáng, đám mây, phân bón.  Đức Thế Tôn cũng vậy, Ngài được làm bằng những chất liệu không phải Thế Tôn, trong đó có con, vì vậy trong Thế Tôn có con.  Con cũng được làm bằng những chất liệu không phải là con, trong đó có Thế Tôn, vì vậy trong con có Thế Tôn và trong Thế Tôn có con.  Đó là cái ý nghĩa về tánh không tịch. Có tôn giáo nào mà người tín đồ nhìn vị Giáo chủ của mình và tuyên bố như vậy trước khi lạy không?  Cảm ứng đạo giao nan tư nghị, có nghĩa là chỉ vì con nhận thức được như vậy cho nên con biết rằng sự cảm ứng và sự giao tiếp giữa con và Ngài mới thật là mầu nhiệm, không thể nào diễn tả bằng tư tưởng và bằng ngôn ngữ được.  Nếu Ngài là một thực thể hoàn toàn độc lập, và con cũng là một thực thể hoàn toàn độc lập, thì sẽ có một vạn lý trường thành chia cách, làm thế nào giữa Ngài và con mà có sự thông cảm mầu nhiệm sâu xa được?  Trong đạo Ki-tô có những khuynh hướng thủ cựu cho rằng Đấng Tạo hóa không thể nào có cùng một bản chất với những vật thụ tạo, như là núi sông, cây, cỏ, con người v.v…  Vật thụ tạo [Creatures] và Đấng Tạo hóa [Creator] là hai thực thể tách rời.  Như vậy giữa hai bên có một bức thành kiên cố ngăn cách thì làm sao có được sự giao tiếp hai chiều, tức là có sự cảm ứng sâu sắc giữa Thượng đếcon người được?  Đạo Bụt thì nói rất rõ: Con không có thực thể riêng biệt mà Bụt cũng không có thực thể riêng biệt. Chính cái sự to gan dám so sánh đó, mới chứng tỏ được mình là một đệ tử giỏi, một học trò có thể hiểu được ý thầy.  Con không có thực thể, con là Không, và Bụt cũng không có thực thể, Bụt cũng là Không.  Đó là một lời khen rất lớn đối với Bụt, tại vì sự khen ngợi này không chỉ được làm bằng lời nói và sự cung kính, mà bằng cái tuệ giác của mình đối với giáo pháp của đức Thế Tôn.  Chính vì Bụt không có thực thể độc lập, và con cũng không có thực thể độc lập, cho nên sự cảm ứng giữa Bụt và con mới thật là sâu sắc và mầu nhiệm.  Đó là những điều mà các vị tổ của ta đã thực tập hàng ngàn năm nay.  Mỗi khi chắp tay trước đức Bổn Sư mà ta không thực tập như thế thì chúng ta có thể chỉ lễ lạy một cách cạn cợt, có khi là mê tín.  Đối với Bồ Tát Quán Thế Âm chúng ta cũng phải thực tập như vậy.

Có người thực tập phương pháp lễ lạy như sau:

Khi đưa hai tay chắp lên trán, họ đồng nhất sự cung kính của họ với ý,
Khi đưa tay xuống ngang miệng và cổ họng thì họ đồng nhất sự cung kính với lời nói,

  • Khi bàn tay rời lãnh vực ngôn ngữ, đi xuống ngang trái tim thì họ đồng nhất sự cung kính của họ với thân,

và khi lạy xuống là họ lạy với ba nghiệp Thân, Ngữ, Ý thanh tịnh. Như vậy, cái hành động kính lễ của mình rất là hiệu nghiệm:  nó gom được thân, khẩu và ý trong chánh niệm, và mình lạy xuống trong cái nhận thức là mình có Bụt trong mình, và Bụt có mình trong Bụt, như vậy là mình mở trái tim của mình ra để cho Bụt đi vào một cách rất dễ dàng.  Lúc đã có nội ứng rồi, đã có Bụt trong mình rồi, thì sự niệm Bụt trở nên rất dễ dàng và có hiệu lực.  Mình đừng có mặc cảm.  Phải tin rằng cái chất liệu của đức Quán Thế Âm đang có mặt ở trong mình, chất liệu đó sẽ được nuôi dưỡng, sẽ được phát hiện bởi phương pháp niệm Bụt của mình.  Ngược lại nếu mình có mặc cảm rằng Bụt và Bồ Tát là những bậc tuyệt vời, còn mình chỉ là người trần, mắt thịt, tội lỗi đầy đầu, và hai bên không bao giờ gặp nhau cả, thì sự niệm Bụt của mình sẽ khó thành công.

Cái pháp môn lạy Bụt chưa chấm dứt ở đó, vì ta còn tiếp tục quán chiếu:

Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.

có nghĩa là cái đạo tràng trong đó con đang đứng để hành lễ nó giống như là một màn lưới làm bằng những hạt minh châu của Vua Trời Đế Thích.  Trong cung Vua Đế Thích có một bức màn rất quý vì nó được kết toàn bằng những hạt minh châu vô giá.  Nếu đến gần, mình sẽ thấy mỗi hạt minh châu chứa đựng hình ảnh của tất cả các hạt châu khác ở trong nó.  Trong cái một có cái tất cả, cái tất cả chứa đựng cái một, đó là giáo lý kinh Hoa Nghiêm mà mình đưa ra để thực tập trong sự lễ lạy.  Trước khi lạy xuống mình quán tưởng và thấy rằng cái đạo tràng trong đó mình đang đứng, được tạo bằng tấm màn lưới của Vua Trời Đế Thích, và tất cả chư Bụt trong mười phương đều hiển hiện trước mặt mình.  Vì vậy khi lạy, mình không bỏ sót một vị Bụt nào hết, khi lạy một Bụt là mình lạy tất cả các Bụt. Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ, thân con cũng ảnh hiện như Bụt vậy, nếu Bụt hiện thânvô số thì con cũng hiện thânvô số.  Số lượng của sở lễ nhiều như thế nào thì số lượng của năng lễ nhiều như thế đó.  Nếu chư Bụt nhiều như số cát sông Hằng, thì con cũng vậy, số lượng của hiện thân con cũng nhiều như số cát sông Hằng, và trước mỗi vị Bụt trong mọi thế giới đều có con đang đứng kính lễ.

Khi quán tưởng như vậy và lạy xuống thì một cái lạy, là ta lạy tất cả chư Bụt trong thế giới tam thiên đại thiênVì vậy lễ lạy trong đạo Bụt không phải là sự khuất phục trước một uy quyền, cúi đầu hạ thấp nhân phẩm của mình trước một đấng thần linh, trái lại lúc lễ lạy ta đưa nhân phẩm của ta lên ngang hàng với nhân phẩm của chư Bụt.

Thầy Thiện Siêu đã dịch bài này như sau:

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châuđạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo-tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Mình nên dịch thế nào để cho người đọc hiểu được dễ dàng, và nương vào đó mà quán tưởng trong lúc lễ lạy, thì mỗi cái lạy mới giúp mình làm tiêu tan đi biết bao nhiêu vô minh, bao nhiêu mê mờ, bao nhiêu nghiệp chướng, đồng thời nó tạo ra một sự thông cảm lớn lao giữa mình và chư Bụt[12] .

Trong trường hợp lễ lạy đức Quán Thế Âm, nếu ta cũng áp dụng phương pháp đó thì ta sẽ thấy được rằng trong ta có một Bồ Tát Quán Âm ở trong tư thế tiềm phụcTự nhiên chúng ta sẽ có niềm tin.  Đây là lời dạy của Bụt.  Lưỡi của Bụt rất dài, che được cả tam thiên đại thiên thế giới, vì vậy cho nên những điều Bụt nói đều toàn là sự thật.  Đó là hình ảnh diễn tả trong kinh.  Khi Bụt nói mọi chúng sanh đều có một vị Bụt trong lòng, thì đó là một sự thật, vì vậy trong mỗi chúng ta đều có tiềm phục một đức Quán Thế Âm.  Nếu chúng ta tu tập cho có những điều kiện để hạt giống Quán Thế Âm ở trong ta được tưới tẩm, có không gianthời gian để phát triển, thì đó là một hình thái niệm Bụt, tại vì đức Quán Thế Âm không phải chỉ ở bên trong hay ở bên ngoài ta.  Nói rằng Ngài chỉ có ở bên trong ta thì không đúng, mà nói Ngài chỉ có ở bên ngoài thì cũng không đúng luôn.  Phật tánh có ở khắp nơi.
Khi thấy rõ được sự tiềm phục của Bồ Tát Quán Thế Âm trong ta thì tự nhiên ta sẽ có sự cung kính đối với ngũ uẩn của chúng taChúng ta không còn phiền trách, khinh thường, không còn hờ hững với ngũ uẩn của chúng ta nữa.  Đồng thời nhìn quanh, chúng ta cũng không chê trách, khinh thị, đối xử tệ bạc với những hợp thể của ngũ uẩn chung quanh ta, tức là những bạn tu, những sư anh, sư chị của chúng ta.  Họ đều có đức Quán Thế Âm trong ngũ uẩn của họ, tại vì chúng ta chưa biết cách cho nên chưa đánh động và làm sống dậy được Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong họ.  Người đó có vẻ như khôngtình thương, không có hiểu biết, không biết lo cho những người khốn khổ.  Sự thực là đức Quán Âm trong họ đang ở trong tư thế tiềm phục, và ta chưa đủ khả năng để giúp người bạn kia tiếp xúc được chất liệu cam lộ Quán Thế Âm.  Cho nên khi biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong ta, thì ta cũng biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong người khác.

Tu học là dùng những phương tiện quyền xảo để giúp người và chuyển hóa mình.  Đôi khi chỉ cần nói một câu mà mình có thể đánh động được tình thương và sự hiểu biết trong con người đó, và nhờ vậy mà người đó chuyển hóa.  Mình không cần làm nhiều mà chỉ cần làm đúng.  Làm sao để làm đúng?  Mình phải biết quán sát tâm trạng của người đó, biết người đó đang bị kẹt vào cái gì.  Thấy được rồi thì chỉ cần nói đúng một câu là tháo gỡ được cho người đó.  Đối với người bạn tu của mình cũng vậy.  Họ có thể là khô cằn, họ có thể là đa nghi, nhưng với con mắt trạch pháp của mình, với phương tiện quyền xảo của mình, với ngôn ngữtình thương của mình, mình có thể làm cho mạch tình thương ở trong họ tuôn chảy trở lại.  Đó là một hình thức lễ lạy, biến người đó thành một người bạn đồng hành của mình trên con đường thực tập từ bi.

Chúng ta có thể về Huế để tìm bác Siêu, nhưng chúng ta cũng có thể tìm được bác Siêu ở ngay đây.  Nếu bác Siêu ở trong trái tim của ta đã hiện ra rõ, thì việc đi tìm bác Siêu bên cạnh chúng ta sẽ trở nên rất dễ dàng.

[11] Bài Tán Dương Quán Âm dưới đây đã được thầy Nhất Hạnh
dịch và Sư cô Chân Quy Nghiêm phổ nhạc sau đó:

Trí tuệ bừng lên đóa biện tài,
Đứng yên trên sóng sạch trần ai,
Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh,
Hào quang quét sạch buổi nguy tai,
Liễu biếc phất bày muôn thế giới,
Sen hồng nở hé vạn lâu đài,
Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh,
Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.
[12] Làng Mai đã cống hiến bản dịch bài Quán tưởng như sau:

Trong thể tính chân như
Không chủ thể đối tượng
Đệ tử kính lạy Bụt
Trong tương cảm nhiệm mầu
Biểu hiện khắp mười phương
Như Đế châu ảnh chiếu
Nơi nào cũng có Bụt
Và có con kính lạy

Page 20

Bây giờ chúng ta hãy đi sang phẩm thứ 25, Phẩm Phổ Môn.  Phổ môn là cánh cửa phổ biến, cánh cửa mở ra cho mọi loài đi vào.  Cánh cửa này không chỉ mở ra cho một hay hai, ba hạng người, mà tất cả mọi loài đều có thể đi qua cánh cửa đó để vào Phật Pháp.  Tiếng Anh là Universal Door.  Đây là một Phẩm được tụng đọc nhiều nhất của kinh Pháp Hoa, và được gọi là kinh Phổ Môn [Samantamukha] hay là kinh Quán Âm.

Nhìn vào Bồ Tát Quán Thế Âm [AvalokiteỐvara Bodhisattva] chúng ta thấy Bồ Tát Thường Bất Khinh, chúng ta cũng thấy Bồ Tát Dược Vương, tại vì con đường của tín nghĩa, của ân tình, của sự chung thủy cũng có mặt ở đây.  Bồ Tát Quán Thế Âm đã lập nguyện là khi nào có người nhớ nghĩ tới Bồ Tát và niệm danh hiệu của Ngài, thì Ngài sẽ có mặt ngay trong giờ phút đó.  Điều này có tính cách chung thủy, ân tình.  Any time you need me, I will be there, đó là tiếng nói của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Những lúc anh cần đến tôi, tôi sẽ có mặt ở bên anh, nhất là lúc anh lâm vào tình trạng khó khăn, tuyệt vọng.
Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe những âm thanh của cuộc đời.  Chữ Quán ở đây có nghĩa là để ý tới, nhìn sâu, nhìn kỹ để có thể hiểu.  Hiểu là cái bản chất làm ra sự thương yêu, có hiểu được mới thương.  Nói đến Bồ Tát Quán Thế Âm, là ta nói tới sự thương yêuNam mô Đức Bồ Tát đại bi Quán Thế Âm.  Nếu Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho sự hiểu biết lớn, nếu Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho hành động lớn, thì Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng cho sự thương yêu lớn, cho đại từ, đại bi.

Khi được nghe danh xưng Bồ Tát Quán Thế Âm thì Bồ Tát Vô Tận Ý [AkỒayamati Bodhisattva] lấy làm xúc cảm liền lập tức.  Tên nghe hay quá, Quán thế Âm, lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời.  Danh từ Quán Thế Âm tác động vào trái tim của Bồ Tát Vô Tận Ý, nên Bồ Tát đứng dậy, chắp tay hướng về Bụt hỏi:  Bạch đức Thế Tôn, vì lý do gì mà vị Bồ Tát kia có tên là Quán Thế Âm [Avalokiteshvara]. Định nghĩa của Bụt rất rõ.  Bụt nói:  Tại vì những người khổ đau khi nghe tới danh xưng ấy mà thấy hoan hỉ và lập lại, thì Bồ Tát lập tức tìm tới để giải thoát cho người kia ra khỏi cái trạng huống khổ đau trong giờ phút đó.

Chúng ta đã biết rằng kinh Pháp Hoatính cách đại chúng,  nhưng giáo nghĩa cũng rất thâm sâu.  Nói như vậy có nghĩa là những câu kinh Pháp Hoa có thể hiểu theo tính cách đại chúng, nhưng cũng có thể hiểu được theo tính cách triết học sâu sắc.  Ví dụ với câu:  Nếu có người trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì người đó dù đi vào trong lửa cháy, lửa cũng không làm người đó cháy, tại vì uy lực của Bồ Tát rất lớn lao.  Đứng về phương diện bình dân mà nói, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì khỏi bị tai nạn về lửa, nhưng đứng về phương diện thực tập từ bi mà nói, khi mình có lòng thương ở trong trái tim thì lửa hận thù không cháy lên được, và mình không thấy nóng.  Bồ Tát Thích Quảng Đức khi ngồi xuống giữa ngã ba Phan đình Phùng, tưới dầu xăng lên người, quẹt lên que diêm, và Ngài đã ngồi yên trong lửa đỏ!  Đối với một người khác, chỉ cần phỏng một chút xíu ở tay là đã la trời la đất, nhưng ở đây lửa cháy toàn thân thể, Ngài vẫn ngồi rất yên, rất thẳng.  Nếu không có lòng thương, làm sao ngồi yên và thẳng được như vậy?  Cái biển lửa đó, đối với Bồ Tát, giống như một ao sen, rất là trong mát.  Có lòng thương thì tất cả mọi thứ đều trở thành tươi mát.  Điều này có thể thấy được trong đời sống hàng ngày của chúng ta.  Nếu có tình thương đối với người kia, thì dù có cực nhọc, chúng ta cũng không thấy cực nhọc, trái lại chúng ta lại tìm thấy niềm vui.  Trời rất lạnh và đêm rất khuya, nhưng nếu có một người bạn, một em bé đang bị thương ở bên ngoài, mà bị buộc ngồi ở trong nhà ấm, chúng ta sẽ thấy rất đau khổ.  Ngược lại, tuy trời lạnh cắt da, nhưng nhờ có tình thương, nên khi đi ra cứu giúp cho người đau khổ đó, ta cảm thấy sung sướng nhẹ nhàng hơn nhiều.  Đi vào lửa mà lửa không cháy được có nghĩa là như vậy.

Thầy Quảng Đức là một người tôi rất quen thân, vì ngày xưa tôi đã từng ở chung với thầy trong chùa Long Vĩnh.  Chùa Long Vĩnh có một bộ báo Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ bút, trong đó có nhiều bài nói về nguồn gốc của Phật giáo.  Thầy Long Vĩnh phải đi hành đạo nhiều nơi.  Ngày xưa thầy đã từng làm Kiểm tăng ở vùng Khánh Hòa, và sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại miền Nam.  Hồi đó tôi làm chủ bút tờ báo Liên Hoa.  Có những đêm tôi ngồi làm việc khuya, tự nhiên thấy sau gáy hơi âm ấm, thì ra thầy đi vào rất nhẹ bước, và để tỏ tình thương, thầy đặt lên gáy tôi một chiếc hôn nhè nhẹ, rất dễ thương.  Có nhiều khi chùa hết gạo, và vì các anh em ở trong chùa ít người biết cách làm trụ trì, cho nên nhiều khi tăng chúng đói.  Thầy đi làm Phật sự về là anh em được no đủ lại, cho nên mỗi lần thấy thầy về thì ai cũng mừng.  Đó là thầy Quảng Đức.  Hồi tự thiêu, thầy có để lại một số bài thơ, và ngôn từ của thầy không chứa đựng một chút bực bội hay căm thù nào cả.  Tự hiến mình cho lửa đỏ để mong Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính phủ bừng tỉnh, để đừng đàn áp Phật giáo nữa.  Chết, nhưng chết rất nhẹ nhàng, chết mà chết bằng thi ca.  Ngồi ở ngã tư Phan Đình Phùng, thầy đã ngồi rất thẳng, báo chí đã chụp hình, quay phim và chỉ bốn, năm tiếng đồng hồ sau là hình ảnh thầy ngồi trong lửa đỏ đã được phổ biến khắp cùng trên thế giới, làm cho thế giới chấn động.  Cố nhiên khi có niềm thương ở trong lòng rồi thì ngọn lửa đó không còn nóng nữa.  Có đức Quán Thế Âm trong lòng là mình có sự che chở.

Nếu bị nước lớn làm cho trôi thì xưng danh hiệu Bồ Tát này, liền được chỗ cạn. Tất cả những câu ở trong Kinh Phổ Môn đều phải được hiểu theo tinh thần đó.   Khi mình nghĩ tới Bồ Tát Quán Thế Âm và mình gọi tên của Ngài, thì tự nhiên cái chất liệu của từ bi, của thương yêu lập tức có mặt với mình, và có chất liệu đó rồi thì mình bớt khổ liền lập tứcChừng nào mình còn có chất liệu thương yêu ấy ở trong lòng, thì chừng đó mình sẽ còn không đau khổ.  Đây là điều mà mình có thể chứng thực được.

Chúng ta biết rằng trong giáo lý của đạo Bụt, thương yêu được làm bằng một chất liệu gọi là hiểu biết.  Khi hiểu biết thì không có sân hận oán thù.  Người kia sở dĩ như vậy là tại vì lý do này, lý do kia.  Người kia đã khổ, đã không có cơ hội để học, để hỏi là vì những điều kiện gia đình, điều kiện cha mẹ, điều kiện xã hội đã từng gây nội kết, cho nên người đó mới nói như vậy, làm như vậy.  Khi có hiểu biết rồi thì mình sẽ không khổ và không gây thêm đau khổ cho người đó.  Khi trong lòng có tình thương là ta có hiểu biết, và lúc đó ta sẽ hoặc ít khổ hoặc không khổ.

Ví dụ mình đang ở trong ngục thất hay trong trại học tập cải tạo.  Mình có thể có hận thù rất lớn đối với những người giam cầm mình.  Đồng thời có một người khác cũng cùng hoàn cảnh với mình, nhưng người đó có vẻ thanh thản, người đó có khả năng thở hít khí trời, ngồi thiền, và có khả năng mỉm cười với người cai ngục.  Người đó có đức Quán Thế Âm ở trong lòng.  Người đó hiểu được rằng, người cai tù đối xử với mình một cách tệ hại như vậy là vì ông ta là nạn nhân của sự giáo dục và tuyên truyền mà ông ta đã tiếp nhận, và ông ta đã thấy mình như một kẻ thù.  Cái nguyên nhân đưa tới vô minhhận thù đó, mình phải trông thấy, và khi thấy được rằng ông ta là nạn nhân của bao nhiêu sự tuyên truyền, lường gạt và ngu dốt đó, thì mình sẽ thương hại ông ta thay vì thù ghét ông ta.  Như vậy hai người cùng ở trong một hoàn cảnh của trại học tập cải tạo, mà một người nuôi hận thù còn một người nuôi tình thương.  Kết quả là người nuôi hận thù sẽ đau khổ hơn người nuôi tình thương gấp bội.  Người nuôi tình thươnghy vọng một ngày nào đó sẽ cảm hóa được người cai ngục, một ngày nào đó sẽ có thể nói được một câu, hay nhìn được một cái nhìn có thể chuyển hóa được người cai ngục.  Người nuôi hận thù thì không bao giờ có cơ hội làm được chuyện đó, và trong lòng thì luôn luôn đau khổ.  Thành ra nếu mình hiểu nghĩa chữ thương đúng như trong tinh thần của đạo Bụt thì mình biết rằng, hể có thương thì có hiểu, mà có hiểu thì có thể tha thứ được.  Có những đứa bé vì dại khờ, đã nói với cha mẹ những câu giống như là bất hiếu, nhưng cha mẹ vẫn không giận vì thấy chúng còn nhỏ quá.  Tất cả chúng ta trong thời thơ ấu, không ai tránh được sự dại dột đó.  Mỗi khi giận, ta thường nói những câu thiếu tình, thiếu nghĩa với cha mẹ, nhưng cha mẹ chúng ta luôn luôn tha thứ, là tại chúng ta còn nhỏ dại quá.

Như trong câu chuyện phim The Yearling, em bé thương con nai, nhưng khi con nai lớn lên, phá hoại hết mùa màng thì cha mẹ em buộc em phải bắn chết con nai ấy.  Em không bắn và rốt cuộc thì mùa màng bị phá hoại nhiều lần.  Vì vậy mà bà mẹ buộc lòng phải tự tay cầm súng bắn chết con nai!  Cảm động nhất là đoạn bà biết con trai mình sẽ rất đau khổ, nhưng bà biết nếu mình không bắn chết con nai thì cả nhà sẽ đói.  Trồng bắp hai ba mùa mà con nai, vì bản tính loài vật, đã phá hết.  Khi biết con nai của mình đã chết, em bé khóc, nổi giận lên và em đã nói một câu như không có một chút tình nghĩa nào hết với mẹ:  ỘI wish you were dead!Ợ Theo em thì ba mẹ em đã làm em khổ, ba mẹ đã giết đối tượng thương yêu của em nên em không thể nào hiểu, không thể nào còn thương ba mẹ được nữa.  Nhưng cha mẹ em không buồn giận vì biết con mình đang đau khổ đến cùng cực.  Nông trại của ông bà rất xa xóm làng nên ở đây em không có bạn, con nai là người bạn duy nhất mà em đã nuôi từ hồi nhỏ, cho nên giết con nai là làm cho em mất hết đối tượng tình thương, làm cho trái tim của em rớm máu.  Như vậy người kia có thể làm những điều dại dột, người kia có thể làm khổ mình bằng ngôn ngữ, hành động hay tư tưởng, nhưng nếu mình hiểu được thì mình sẽ không đau khổ, mình sẽ có khả năng tha thứ.  Và người có hiểu biết thì có thương yêu, nghĩa là có đức Quán Thế Âm trong lòng.  Mà khi đã có Ngài ở trong lòng rồi thì thế nào cũng cảm thấy nhẹ nhàng, ít khổ đau, tại vì đức Quán Âm là chất liệu cam lộ của tình thương, của sự mát mẻ thanh lương.

Trang 509:  Nếu chúng sanh nào có nhiều dâm dục quá mà thường cung kính thực tập, trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát, thì tính nhiều dâm dục sẽ được chuyển hóaNếu không hiểu kinh, nếu đọc kinh với những nhận biết thông thường, thì chúng ta sẽ không hiểu được những câu như thế này.  Tại sao khi trong người của mình có nhiều năng lượng về sinh lý mà niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì có thể chuyển hóa được năng lượng đó?  Thật ra thì cũng dễ hiểuChúng ta đã học rằng cái gọi là năng lượng sinh lý, sexual energy, chẳng qua chỉ là một loại năng lượngNăng lượng tiêu cực hay tích cực thì cũng chỉ là năng lượng mà thôi.  Chúng ta ai cũng có năng lượng cả.  Là người trẻ, lớn lên thế nào cũng có nhiều năng lượng, nếu không thì chúng ta làm sao học hỏi, làm việc, theo đuổi lý tưởng được?  Nhưng nếu ta không biết quản lý năng lượng thì những năng lượng ấy có thể đổ dồn về một phía, và nó sẽ bức bách ta.  Vì vậy vấn đề ở đây là phương cách quản lý năng lượng, đừng để cho năng lượng dồn về một phía tiêu cựcChúng ta phải sử dụng năng lượng để thực hiện những điều mà chúng ta cần thực hiện.  Chuyện học hỏi, chuyện tu tập, chuyện giúp đời, tất cả đều cần năng lượngNếu không làm những việc đó đúng mức thì chúng ta sẽ có dư thừa năng lượng, và năng lượng này sẽ đi về phía tạo nên nhu yếu dâm dục.  Nếu biết sử dụng thì năng lượng sẽ phục vụ chúng ta, phục vụ những người mà chúng ta muốn phục vụ.  Ngược lại nếu chúng ta không biết quản lý thì cái năng lượng đó sẽ dồn về phía sinh lý làm cho chúng ta bị bức bách.  Đó là đứng trên phương diện quản lý năng lượng của con người mà nói.

Đứng trên phương diện hiểu và thương, thì chúng ta thấy rằng cái hiểu và cái thương có thể mang đến cho chúng ta tinh thần trách nhiệm.  Nếu quả thật có hiểu và có thương thì chúng tatinh thần trách nhiệm rất lớn, và tinh thần này sẽ bảo vệ cho chúng taVấn đề dâm dục cũng như tất cả các vấn đề khác, nếu không phải thời, không đúng pháp, có thể gây ra đau khổ.  Khi hai người trẻ yêu nhau, họ muốn ngồi bên nhau, muốn gần gũi nhau, rồi đi đến chỗ hòa hợp giữa hai thân thể.  Đó là chuyện rất tự nhiên, không có gì lạ lùng hết.  Nhưng nếu có hiểu và có thương, thì họ sẽ có tinh thần trách nhiệm.  Họ biết rằng nếu không giữ gìn cho người mình thương, nếu có chuyện gì xảy ra trước khi làm đám cưới, thì sẽ có rất nhiều người đau khổ, trong đó có người mình thương, có gia đình cả hai bên, và có cả mình nữa.  Cho nên vì thương người đó mà mình phải bảo vệ cho người đó.  Cả hai người cùng phải giữ gìn cho nhau.

Trong truyện Kiều, ngày gia đình đi ăn cỗ, nàng Kiều tìm cách ở lại nhà để có dịp liên lạc với người yêu bên láng giềng.  Ruốt cuộc hai người được gặp nhau, hai người đã được uống trà, làm thơ với nhau, cắt tóc trộn với nhau và nhìn trăng thề nguyền cùng nhau.  Đó là những chuyện mà người thương nhau thường hay thực tập.  Sau khi Thúy Kiều chơi đàn thì chàng Kim muốn đi xa hơn cái ranh giới đã định cho hai người trước khi cưới nhau.  Thúy Kiều ngăn lại.  Cô nói rằng, nếu chúng ta đi xa hơn thì sự kính trọng lẫn nhau sẽ mất, và điều đó sẽ có hại cho tình yêu của chúng ta.  Khi Kiều nói lên câu đó với tâm trạng bình thản, thức tỉnh và ngọt ngào thì chàng Kim ngưng lại liền lập tức, và tự nhiên lòng thương mến, quý trọng của chàng đối với người con gái tăng lên gấp bội.  Đây là cái hiểu, hiểu rằng nếu mình không ngưng ở chỗ đó thì thương nhau trở thành hại nhau, mình làm cho hư nát cái tình yêu mà cả hai cùng trân quý.  Cho nên cái hiểu đưa đến cái thương, và cái thương này mới đích thật là thương, vì nó được làm bằng chất liệu của hiểu.  Cái thương này bảo vệ cho mình, cho người mình yêu, cho cha mẹ mình, cho thầy bạn mình.

Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là ta niệm sự hiểu biết, niệm sự thương yêu, nhờ đó mà năng lượng dâm dục sẽ biến thành năng lượng hiểu biết, năng lượng thương yêu.  Do đó mà tâm ta được điều phục và thân ta được hộ trì. Rất rõ ràng, không có gì khó hiểu cả.  Dầu người con trai đang bị người con gái thu hút như một mảnh nam châm, và người con gái cũng bị người con trai thu hút lại như thế, nhưng nếu những người ấy có cơ hội thực tập hiểu biết, thì họ sẽ thấy rất rõ được hiệu quả việc làm của họ, và họ sẽ biết rằng nếu khôngtinh thần trách nhiệm, nếu không kính trọng lẫn nhau thì người này sẽ làm cho người kia khổ và tất cả sẽ bị tan nát.  Cho nên giữ giới không phải là tuân theo những sự ràng buộc, những điều ngăn cấm, làm như vậy chưa phải là giữ giớiGiữ giớithực tập chánh niệm, giới mà không làm bằng chánh niệm thì giới đó chỉ là sự ràng buộc, cấm cản, khổ đau.  Giới thật được làm bằng chánh niệm, và chánh niệm đưa tới cái hiểu và cái thương, vì vậygiữ giới rất dễ.  Mình không muốn làm khổ người kia, không muốn làm khổ mình, không muốn làm khổ cộng đồng của mình, cho nên mình giữ giới.  Thương mà giữ giới chứ không phải vì bị bắt buộc mà giữ giới.  Có đức Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong lòng thì mình sẽ có rất nhiều hạnh phúc khi giữ giới.

Niệm đức Quán Âm sẽ đưa tới sự hiểu biết, lòng thương yêutinh thần trách nhiệm, nhờ vậy mà ta đối trị được với dâm tâm, và có khả năng chuyển hóa năng lượng dâm dục thành ra những năng lượng lành mạnh hơn.

Chúng ta đi xuống một dòng nữa:  Nếu những người nào có nhiều oán hận và nếu biết thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì sẽ được giải thoát ra khỏi sân hận. Khi hiểu được vấn đề đa dâm rồi thì ta sẽ hiểu được vấn đề đa sân.  Học đạo Bụt chúng ta biết rằng giận hờn là một ngọn lửa có thể đốt cháy tất cả mọi công trình của chúng taCông trình của chúng ta như là những khu rừng lớn, phải trồng trỉa, vun bón hàng chục năm, nhưng một đóm lửa giận hờn nhỏ, cũng có khả năng đốt thiêu rụi cả khu rừng.  Chúng ta biết rằng muốn xử lý cái giận, ta có thể thực tập chánh niệm để đưa Bồ Tát Quán Thế Âm vào lòng.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một thứ nước Cam lộ rất tươi mát, thanh lương, và nước đó có công năng dập tắt ngọn lửa hận thù trong tâm ta.  Có đức Quán Thế Âm Bồ Tát tức là có sự hiểu biết, có sự thương yêu, có tinh thần trách nhiệm, do đó khi niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì ta dịu xuống, ta sẽ không nói ra những câu nói có thể làm đổ vỡ đó, những câu nói có thể gây nội kết và tạo ra đau khổ dài dài cho những người chung quanh.

Ngu si thì cũng vậy.  Ngu si tức là thiếu hiểu biết.  Trong lúc ta niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm, ánh sáng của hiểu biết có dịp đi vào, nên dần dần ta bớt ngu si.  Trước đây chúng ta đã học rằng niệm đức Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ không bị lửa, bị nước làm hại, nay chúng ta lại học thêm được rằng niệm sức mạnh của Ngài, ta cũng sẽ không bị tham, sân, si làm hại.  Vì vậy cho nên kinh Pháp Hoa đi từ thấp lên cao, cũng giống như những bãi biển có cát, từ từ đi xuống sâu vào biển.  Cái tài năng của kinh Pháp Hoa là ở chỗ đó, tất cả mọi giới đều có thể hiểu được kinh Pháp Hoa.

Trong số những người niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm, có rất nhiều người nghĩ rằng niệm là để tránh khỏi những tai nạn từ bên ngoài đưa đến.  Họ không biết rằng những năng lượng tham dục, hận thù, và ngu si của mình là những tai nạn rất lớn do chính mình tạo ra cho mình.  Trong kinh Pháp Hoa, tham, sân, và si đã được diễn tả trong ba câu liên tiếp.  Đó là ba tai nạn căn bản của tất cả các tai nạn.

Chúng ta biết rằng nếu ta có một người thương, người đó có thể hoặc là mẹ, là cha, là thầy hay là bạn của ta, mỗi khi có vấn đề khó khăn, khổ đau, ta nhớ đến người đó, gọi tên người đó và ta thấy đỡ khổ.  Người đó chưa phải là một vị Bồ Tát nhưng khi hình bóng của người đó hiện ra trong trái tim của ta, hoặc khi nghe tên của người đó, ta đã thấy bớt khổ, huống hồ đây không phải là một người thường, đây là một người mà hạnh nguyện đã đi đến chỗ cao siêu, cho nên mỗi khi chúng ta tiếp xúc được với chất liệu của Quán Thế Âm, nghe tới danh hiệu của Ngài, thì phép lạ hiển hiện trong lòng ta, và nỗi khổ niềm đau của ta tan biến một cách rất mầu nhiệm.  Đây là một chuyện rất khoa học, không có gì là mê tín dị đoan.

Khi ta tạo dựng ra một trung tâm tu học như Làng Cây Phong, Làng Mai, hay Tu viện Kim Sơn, nếu chúng ta đã từng được sống ở đấy những giây phút hạnh phúc, đã từng tiếp xúc với những người an lạc, hiền lương, thì trung tâm đó trở thành một kinh nghiệm, một hình ảnh rất dễ thương trong tâm ta.  Dù sau này có đi đâu, có lạc lõng tới phương trời nào, thì mỗi khi nghe tên của trung tâm đó, hoặc thấy được hình ảnh của cảnh cũ người xưa, thì tuy là ta đang không ở tại đó mà tâm ta đã dịu lại.  Nghe tên trung tâm đó là ta hình dung được những cây thông, cây sồi, những khuôn mặt từ bi, và tâm ta thấy rất an lạc, vui mừngQuán Thế Âm Bồ Tát cũng vậy, Ngài là một hải đảo rất xanh tươi rất dịu hiền, nên mỗi khi chúng ta hình dung được Ngài, chúng ta nghe được tên Ngài, thì tự nhiên trong lòng ta thấy nhẹ nhàng, thoải mái, và những khổ đau của ta dịu bớt đi rất nhiều, như một phép lạ mầu nhiệmVì vậy niệm Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vấn đề mê tínTâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như mang hình ảnh bà mẹ dịu hiền trong tâm ta, mỗi khi nhớ tới là ta thấy êm dịu trong lòng.  Người nào mà ta thương yêutin cậy, đều có ảnh hưởng như vậy trên tâm của ta cả.

Bồ Tát Quán Thế Âm là ai?  Bồ Tát Quán Thế Âm là người thương, The person who loves, who knows how to love because she understands. Đây là một hình tượng, một nhân vật biểu hiện cho Hạnh môn, cho công dụng của kinh Pháp HoaBồ Tát Quán Thế Âm tới sau Bồ Tát Thường Bất Khinh, tới sau Bồ Tát Dược VươngDiệu ÂmBồ Tát Quán Thế Âm là một hình ảnh tuyệt diệu của sự thực tập, và chúng ta có thể học được, thực tập được những điều mà Bồ Tát thực tập:  Lắng tai nghe để hiểu và để có mặt.  Sự có mặt đó không phải là một sự có mặt tầm thường.  Sự có mặt đó có tính cách chớp nhoáng, ngay trong giây phút ấy, tại vì tâm ta đi rất nhanh.  Mỗi khi chúng ta niệm tưởng đến đức Quán Thế Âm thì Ngài có mặt ngay tại lúc đó, không chậm một giây phút nào cả.  Khi tâm ta niệm đức Quán Thế Âm, thì chất liệu Quán Thế Âm có mặt ngay.  Niệm ở đây là chánh niệm, là nhớ nghĩ, là tỉnh thức.  Niệm luôn luôn có đối tượng, ví dụ khi mình niệm hơi thở, hay mình niệm Bụt, thì hơi thở và Bụt là những đối tượng có mặt tức khắc.  — đây đối tượng là Quán Thế Âm.

Có thể nói rằng chúng ta ai cũng đã từng thương và cũng đã biết rằng thương không có nghĩa là chỉ ngồi đó để hưởng sự ngọt ngào.  Thương là một sự thực tập để đem lại niềm vui cho nhiều người, trong đó có chính bản thân ta.  Khi một người cần đến ta, thường thường ta tìm cách để đến với người đó.  Chúng ta có thể dùng điện thoại, dùng xe cộ, thư từ để có mặt với người đó.  Thấy người đó khổ là tự nhiên chúng ta muốn làm một cái gì để chứng tỏ sự có mặt của ta.  Vì mình là người thương, nên mình muốn làm việc đó.  Khi có ý hướng ấy thì tâm ta đã có chất liệu của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Ta cần làm cho chất liệu ấy lớn lên thôi.  Ta thấy khoảng cách giữa ta và đức Bồ Tát không quá lớn, tại ta cũng đã có hạt giống của thương yêu, của chăm sóc, của sự muốn có mặt.  Thương ai thì muốn có mặt với người đó khi người đó đau khổ.  Cho nên lắng tai nghe, tìm tới là những chất liệu có sẵn trong lòng của tất cả chúng taBồ Tát Quán Thế Âm thực hiện được cái tam muội gọi là Hiện Nhất Thiết Pháp Thân, cho nên Ngài có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, còn chúng ta thì chỉ có thể có mặt ở một nơi thôi.  Nhưng nếu quý vị biết thực tập thì quý vị cũng có thể có mặt ở nhiều nơi trong một lúc.  Một người đàn bà Việt-nam đảm đang cũng là một người đang thực tập hạnh Quán Thế Âm.  Một mặt mình muốn làm cho chồng có hạnh phúc, mặt khác mình muốn làm cho con hạnh phúc, dù chồng đang đi làm việc xa, dù con đang ở nội trú trong một trường đại học.  Rồi đến gia đình chồng.  Mình muốn cho mẹ chồng được no ấm đầy đủ, vì hạnh phúc này tạo ra hạnh phúc cho chồng mình và cho mình.  Vì vậy, những bà mẹ đó, tuy là người trần mắt thịt, nhưng nhìn cho kỹ thì ta thấy bà có rất nhiều cánh tay, tay này với sang bên Đông, tay kia với sang bên Tây.  Đàn ông cũng có thể thực tập như thế.  Có nhiều người biết lo cho hàng trăm người trong một lúc.  Họ muốn có mặt đồng thời ở nhiều nơi.  Đứng về phương diện hình thức mà nói thì ta chỉ có thể thấy được người đó ở một nơi thôi, nhưng trên thực tế thì người đó có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, và chúng ta phải có một máy chụp hình rất đặc biệt, mới có thể chụp được sự thực đó.  Thành ra phân biệt rằng chúng ta là người phàm, còn Bồ Tát là một vị thánh, và sự khác biệt giữa chúng taBồ Tát là một sự khác biệt tuyệt đối, là không đúng.  Bởi vì cái ước muốn, cái phương thức của chúng ta cũng giống như của Bồ Tát, nhưng tại sự thực tập của chúng ta chưa đến nơi đến chốn, thành ra mức độ thực hiện của chúng ta còn nhỏ hơn của Bồ Tát nhiều đấy thôi.  Sự thực thì tâm chúng ta có đủ các hạt giống đó.  Ai cũng muốn có mặt đồng thời ở khắp nơi để làm vơi nỗi khổ của những người mình thương, vì vậy cho nên phương pháp hiện thânphương pháp không phải chỉ có Bồ Tát Quán Thế Âm mới có thể làm, chúng ta ai cũng muốn thực tập và có khả năng làm được việc đó cả.

Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Bụt:  Bạch Thế Tôn, Bồ Tát Quán Thế Âm dạo chơi trong cõi ta bà như thế nào? Chữ dạo chơi này chúng ta đã học rồi.  Dạo chơi tức là không hấp tấp.  Bạch đức Thế Tôn, trong khi Bồ Tát Quán Thế Âm qua lại một cách thoải mái trong cõi ta bà, thì Bồ Tát thực tập việc hiện thân độ người như thế nào?  Bụt trả lời rằng: Khi cần hiện thân Bụt, thì Quán Âm Bồ Tát hiện thân Bụt, để đến với người cần mình. Nghĩ cho kỹ thì mình cũng làm được chuyện này trên một bình diện hạn hẹp hơn.  Mỗi khi mình ngồi uống trà trong tỉnh thức, người ta nhìn mình, thì người ta được độ.  Khi ta có uy nghi, an lạc, thì Bụt có mặt ở trong ta, người kia nhìn ta người kia cũng được chuyển hóa, và trở về với chánh niệm.  Điều đó ta làm được và làm được đến một mức độ nào đó.  Chiếc lá mùa Thu khi rơi xuống, nó cũng có thể rơi một cách rất thanh thản, như lượn múa trong không gian, và cũng thực hiện một hóa thânMùa Xuân, chiếc lá ở trên cành, ca hát và vẫy tay đón nhận ánh sáng, nó cũng có thể độ mình, độ một cách khác.  Cuối Thu, nó rơi xuống và độ mình một cách khác.  Khi chiếc lá đã nằm trên mặt đất, và chân mình dẫm lên, nó độ mình một cách khác nữa.  Chỉ cần mở mắt ra, nhìn cho sâu sắc là mình thấy được những hình thái hiện thân khác nhau của chiếc lá.  Ai nói rằng Bụt và Bồ Tát đã nhập diệt?  Chỉ cần mở mắt ra là thấy được Bụt và Bồ Tát ở ngay bên mình.

Bụt nói tiếp: Nếu cần hiện thân Duyên giác thì Bồ Tát hiện thân Duyên giácDuyên giác là người tu, sống một mình, thực tập quán chiếu về nhân duyên và có thể giác ngộNếu cần hiện thân Thanh văn, thì hiện thân Thanh văn.  Có những người cần một vị Thanh văn để tu học theo, họ chưa có khả năng hay chưa muốn gặp các vị Bồ TátVì vậy khi gặp một vị Thanh văn, ta đừng nói ông chỉ là người ưa pháp nhỏ thì mình sẽ mang tội.  Vì trong vị Thanh văn ấy có một hạt giống Pháp lớn đang sẵn sàng nẩy mầm.  Điều này ta phải thực tập một cách tinh chuyên.  Tiếp chuyện với các thầy Nam tông, với các thầy Bắc tông, với các Phật tử Tây tạng, ta phải cẩn thận, họ đang tu tập như vậy, có thể họ đang là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đừng chê họ tụng đọc như thế này, đốt nhang như thế kia.  Đôi khi hương họ đốt có mùi mình không ưa thích, nhưng có thể họ phải dùng loại hương ấy mới độ được người ở vùng ấy.

Nếu cần sử dụng thân của Phạm Vương, thì hiện thân Phạm Vương, nếu cần dùng thân Đế Thích thì dùng thân Đế Thích. Tiếp đó, ta thấy Bụt nêu ra một số các thân mà Bồ Tát Quán Thế Âm thường hóa hiện để độ người.  Trong đó có thân của vị Tiểu Vương, tức là một vị vua nhỏ như là Vua Tịnh Phạn [Suddhodana], hay thân của một vị trưởng giả, tức là một businessman, Bồ Tát Quán Thế Âm đôi khi hiện thân thành một nhà doanh thương.  Nói chuyện với nhà doanh thương, nếu ta thấy ông không bị kẹt vào danh lợi và quyền hành, thì ta nhận ra đó là Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiệnNếu cần dùng thân cư sĩ, Bồ Tát hiện thân cư sĩ.  Nhìn vào một vị cư sĩ, ta có thể thấy đó là đức Quán Thế Âm Bồ Tát.   Ta phải có thái độ cung kính đúng mức, dù ta đã là người xuất gia và lên tới bực vị Hoà Thượng.

Nếu cần phải hóa hiện ra thân một vị Tể tướng, một vị Bộ trưởng thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra làm Tể tướng, Bộ trưởng.  Nếu cần hiện thân một vị Bà la môn thì đức Quán Âm hiện ra Bà la mônNếu cần hiện ra thân khất sĩ, nữ khất sĩ, cận sự nam, cận sự nữ mới độ người được, thì Quán Thế Âm Bồ Tát hiện ra khất sĩ, khất sĩ nữ, cận sự nam, cận sự nữ để mà độ đời. Khi đọc những câu này, chúng ta thấy rất rõ là chúng ta không nên có mặc cảm tự tôn hay tự ti, tại vì dưới hình thức nào, với ngôi vị nào, chúng ta cũng có thể thực tập hạnh của đức Quán Thế Âm.  Chỉ cần có tình thương trong lòng thì khất sĩ cũng được, khất sĩ nữ cũng được, cư sĩ nam cũng được, cư sĩ nữ cũng được, em bé cũng được, tất cả mọi giới, nếu có tình thương là có thể độ đời.  Mang tâm trạng kỳ thị cao thấp, là chứng tỏ chưa có sự có mặt đích thực của chất liệu Quán Thế Âm trong tâm của chúng ta.

Nếu cần hiện thân phụ nữ thì hiện thân phụ nữ để thuyết pháp.  — các nước Đông Nam Á người ta thường hình dung đức Bồ Tát Quán Thế Âm như một phụ nữ.  Người phụ nữ diễn tả được tình thương dễ dàng hơn người nam, tại vì trong nền văn minh Khổng Mạnh người đàn ông có vẻ hơi khô khan.  Thương nhưng không nói ra, nghĩ rằng nói ra thì mất linh, nên chỉ để tình thương kín đáo trong tâm.  Vì vậy mà nhiều lúc đứa con nghi ngờ, không biết cha mình có thương mình thật không, nếu thương sao mà khuôn mặt lạnh như tiền như thế được?  Ngược lại, người phụ nữ được coi là giới biết biểu lộ tình thương.  Do đó, đứng về phương diện văn hóa mà xét, chúng ta hiểu được tại sao người Á Châu lại chọn lựa hình tướng của người phụ nữ để đại diện cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Trên phương diện hình thức, người phụ nữ diễn tả được tình thương của đức Quán Thế Âm hay hơn người nam giới.  Nam giới hãy cẩn thận, hãy quán chiếu, hãy học hỏi để biểu lộ tình thương của mình.

Nếu cần hình thức của một chú bé hay một cô bé thì đức Quán Thế Âm hiện ra một chú bé hay một cô bé để độ đời.  Nếu cần hóa thân làm loài Trời, loài Rồng, loài Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, loài nhân hay loài phi-nhân, để độ người, thì Bồ Tát liền hiện ra những hình thái đó. Nói tóm lại thì Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa hiện ra bất cứ một hình thái nào để cứu độ, và đôi khi những hình thái đó trông rất dễ sợ.

Tình thương có rất nhiều mặt, nhiều khi nó không hẳn phải là ngọt ngào, không hẳn phải là dịu dàng mà vẫn là tình thương.  Tại các chùa ở Việt-nam, ta thấy có ông Thiện, và ông Ác.  Ông Thiện thì khuôn mặt rất hiền, con nít ưa tới gần, nhưng ông ác thì mình ngán lắm.  Quán Âm Đại Sĩ nhiều khi hiện ra làm Diện Nhiên Vương, có khuôn mặt rất dữ, mắt trừng đổ lửa, tay chỉ chỏ dọa nạt.  Diện Nhiên Vương là một hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Vì muốn cho chúng sanh sợ mà đừng làm điều bậy nên Ngài trừng mắt dọa nạt.  Sự dọa nạt này, không bắt nguồn từ sự giận dữtrái lại đã phát sinh từ lòng thương không bến bờ.

— Việt-nam, trên con đường xe hơi đi từ Sàigòn lên Đà lạt, có một đoạn đi qua đèo rất nguy hiểm, nhiều xe hơi rơi xuống đèo, nhiều người đã bị mất mạng.  Tại đó, người ta có dựng lên một cái miếu để thờ các oan hồn.  Trong giới lái xe có những người có tu học, họ biết chỗ ấy là chỗ nguy hiểm.  Khi lái xe đến đó, tự nhiên họ phát khởi chánh niệm, và chỉ cần thực tập chánh niệm là họ đưa lại sự an toàn cho họ và cho hành khách trên xe.  Nhưng có những người lái xe không thực tập chánh niệm, họ nghĩ rằng nếu đi ngang qua đây mà không có sự cung kính thì có thể những vị thần hay những oan hồn sẽ làm cho họ mờ mắt, và xe sẽ rớt xuống đèo.  Có những người cứng đầu giống như những tay anh chị Cầu Muối, không tin ai hết, không kính nể ai cả, nhưng khi đi ngang qua ngọn đèo này, các vị đó cũng kính cẩn dỡ nón ra, không dám hỗn hào.  Đó là một hình thái hóa độ của đức Quán Thế Âm.  Ngài dọa rằng nếu anh không đàng hoàng thì anh sẽ rơi xuống đèo, nhờ vậy mà Ngài cứu được người đó và cứu luôn được những hành khách trên xe.  Tình thương có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức, đôi khi bên ngoài không có vẻ dịu dàng nhưng bên trong chứa một nội dung rất ngọt ngào.  Người Việt có câu:  Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi,  vì thương mà phải rầy rà.

Sang trang 514:  Này Bồ Tát Vô Tận Ý, vị Bồ Tát có tên là Quán Thế Âm đó đã thực hiện được bao nhiêu là công trình như tôi đã nói, đã sử dụng những hình thái khác nhau để rong chơi trong các cõi nước, mà độ thoát cho các loài chúng sanh, vì vậy quý vị nên cung kính cúng dường vị Bồ Tát đó. Trong những trường hợp nguy hiểm và có người hay hoảng sợ lo âu, Vị Bồ Tát đó thường ban cho họ một sự không sợ hãi, một sự an tâm, vì vậy mà vị Bồ Tát đó được dâng tặng một danh hiệu rất đẹp, đó là người thực tập Vô-úy-Thí.  Vô-úy-Thí là ban tặng cho món quà không sợ hãi.  Sợ là một tâm trạng làm cho chúng ta khổ đau, làm ta mất an lạc rất nhiều.  Sợ hiện tại, sợ tương lai, sợ người, sợ mình, sợ tất cả mọi thứ.  Sống trên đống lửa thì không thể nào có hạnh phúc được.  Sợ người đó không còn thương mình nữa, sợ người đó thù oán mình, sợ người đó đang tìm cách tiêu diệt mình, cái sợ đó làm cho mình mất hết niềm vui sống của chính mình.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một người có cái hạnh đem đến cho chúng ta món quà quí hóa đó, món quà Vô-úy.
Trong đạo Bụt có ba loại quà: Quà vật chất; quà phương pháp, ví dụ dạy cho ta một nghề thì đó là quà phương pháp, chỉ cho người ta cách tu học thì đó là quà pháp; và quà thứ ba là làm cho người ta không sợ.  Kỳ thực, khi biết niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm thì mình hết sợ.  Món quà này ta nhận được liền.  Bài thực tập Quay về nương tựa hải đảo tự thân, Chánh niệm là Bụt, Soi sáng xa gần…, cũng là một món quà Vô-úy.  Những lúc ta hoảng hốt, không biết phải làm gì, chúng ta bất an, thực tập bài đó là phương cách hay nhất mà chúng ta có thể làm trong giây phút ấy.  Không có cái gì hay hơn là trở về nương tựa, tức là thực tập quy y, dùng hơi thở vào, ra, đem lại cho mình sự an lạc, thanh tịnh, vì vậy, đó cũng là một món quà chứa đựng chất liệu vô úy.

Ví dụ ta đang ở trên một chiếc máy bay và máy bay đang gặp khó khăn, không biết có đáp xuống được an toàn hay không.  Lúc đó nếu ta cuống lên, la hét, khóc than, thì hành động ấy chỉ có thể làm hại cho mình, và làm cho người khác mất tinh thần.  Ngược lại nếu lúc đó ta biết thực tập quy y, thì tự nhiên ta đem lại cho tâm hồn ta sự vô úy, ta giúp cho ta thanh tịnh, giúp cho người khác thanh tịnh và trong trạng thái thanh tịnh đó, ta sáng suốt hơn, ta biết cần làm gì, và không được làm gì để cho tình trạng sáng sủa thêm ra.  Đó là những điều mà Bụt đã nói ra để trả lời câu hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ý.

Chúng ta có một bài tán đức Quán Thế Âm cần dịch ra tiếng Việt, tại vì bản chữ Nho hay lắm:

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài,
Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai,
Tường quang thước phá thiên sinh bịnh,
Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai,
Thúy liễu phất khai kim thế giới,
Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài,
Ngã kim khể thủ phần hương tán,
Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tàiTrí tuệ rộng và sâu, từ trí tuệ đó mà phát hiện một biện tài lớn.  Biện tài là khả năng có thể diễn tả được những cái khó diễn tả, có thể chinh phục những người khó chinh phục.  Trí tuệ là chất liệu ở bên dưới, còn biện tài là nghệ thuật ở bên trên.

Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai: Đứng một cách trang nghiêmtuyệt diệu trên các đợt sóng.  Đây là một hình ảnh rất đẹp mà các nghệ sĩ thường dùng để diễn tả đức Quán Thế Âm.  Đứng trên những làn sóng mà không bị những làn sóng kia xô đẩy, làm chìm đắmTuyệt trần ai có nghĩa là không dính một mảnh bụi nào, rất tinh khiết, nhẹ nhàng.  Tuy đứng trên sóng sinh tử nhưng không bị chìm đắm trong sóng sanh tử.

Tường quang thước phá thiên sinh bịnh: Tường quang là ánh sáng lành của đức Quán Thế Âm, có khả năng công phá và chữa lành được muôn ngàn bệnh tật.  Bệnh khổ là một gánh nặng của kiếp người, và Quán Thế Âm là người có thể dùng cái hào quang của mình mà trị liệu tất cả những bệnh khổ đó.

Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai: Nước cam lộ trượng trưng cho tình thương của Bồ Tát có thể làm tiêu tán những tai nạn bị dồn chứa trong vạn kiếp.  Chất liệu cam lộ, tiếng Phạn là Amrta, phiên âm là A-mật-ri-đa, có thể làm tiêu trừ tai họa muôn ngàn kiếp.

Thúy liễu phất khai kim thế giới: Với cành dương liễu xanh biếc, Bồ Tát phẩy một cái là mở ra một thế giới hoàng kim.  Phất nghĩa là phẩy, như trong chữ phất trần, phẩy bụi.  Thế giới hoàng kimthế giới của hạnh phúc.

Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài: Khi đóa sen hồng mọc vượt lên, thì Ngài làm xuất hiện một tòa lâu đài bằng ngọc.  Tòa lâu đài này là tòa lâu đài của giác ngộ, của thế giới cực lạc.  Người ta thường nói kim thế giới, ngọc lâu đài, nghĩa là thế giới vàng, lâu đài ngọc.

Ngã kim khể thủ phần hương tán: Giờ đây con cúi đầu xuống, đốt hươngca ngợi Ngài.  Phần hương tức là đốt hương, tán là ca ngợi.

Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai: Xin quay mặt về phía nhân gianhiển hiện pháp thân của Ngài để chúng con được thấy.  Xin hướng về cõi người và hiện rõ chân thân của Ngài cho chúng con thấy.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bây giờ hiểu nghĩa rồi, ta hãy cố làm một bài dịch cho hay, và nếu có thể thì đặt thành nhạc luôn[11] .

Một bài tán khác cũng đã được dịch và đặt thành nhạc mà lát nữa đây Sư cô Bảo Nghiêm sẽ hát cho chúng ta nghe.  Đây là một bài Thi tán mà tôi được nghe từ hồi còn nhỏ và rất thích.  Mỗi lần nghe là cảm động, nhưng chưa bao giờ có dịp dịch ra quốc ngữ.  Mùa hè năm rồi, có Sư chú Nguyện Hải làm thị giả, ở Cốc Ngồi yên.  Thầy trò có được vài phút rãnh rỗi, tôi ngồi trên võng và lần đầu tiên dịch bài đó ra tiếng Việt.  Nguyên văn bài tán chữ Hán là:

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn,
Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn,
Dương chi nhất đích chân cam lộ,
Tán tác sơn hà đại địa Xuân.

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn: Biển động, và tiếng hải triều vang dội thành ra kinh Phổ Môn, mở rộng ra một cánh cửa để mọi người có cơ hội hiểu biết Pháp mầu.  Câu này rất hùng.

Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn: — giữa chín bông sen kia, lý tức là ở giữa, ở trong lòng, xuất hiện một em bé.  Em bé ở đây tức là sự trinh nguyên, là cái sơ tâm.  Một hình ảnh của sự giải thoát, sự giác ngộ, sự không lo lắng, không u sầuHình ảnh em bé được sử dụng trong nhiều truyền thống.  Đạo Bụt nói rằng khi chúng ta được giải thoát hay khi chúng ta sinh sang cõi cực lạc, thì chúng ta sẽ biến thành một em bé, và được thai nghén trong một bông sen.  Khi bông sen nở ra thì chúng ta lập tức thấy được Bụt A Di ĐàHoa khai kiến Phật có nghĩa là vậy.  Trong Cơ Đốc giáo cũng nói tương tự:  Nếu quý vị không trở lại thành một em bé, thì quý vị không thể nào đi vào nước Chúa. Vì vậy hình ảnh của em bé là hình ảnh của một sự sống mới, một sự chuyển hóa mới.  Người nào tu học đàng hoàng thì cũng đều biến thành em bé, sống an lạc và không có gì để lo lắng. ỘĐồng chơn nhập đạoỢ là đi tu từ hồi tuổi còn nhỏ.  Hai câu này là những hình ảnh rất đẹp.  Thứ nhất là tiếng hải triều làm ra pháp âm, thứ hai là hình ảnh của em bé ở trong bông hoa sen, không có gì đẹp bằng.

Dương chi nhất đích chân cam lộDương chi là nhành dương liễu, nhất đích là một giọt, chân cam lộ là đích thực nước cam lộ.  Một giọt nước cam lộ đích thực ở trên nhành dương liễu của Bồ Tát.

Tán tác sơn hà đại địa Xuân: Tán tức là rải lên, tác là làm thành, sơn hà là sông núi hay đất nước, đại địa là trái đất, the Great Earth.  Chỉ cần một giọt nước trên nhành dương liễu của Bồ Tát thôi, cũng đủ tạo ra một mùa Xuân cho trái đất và cho sông núi.

Bài Thi tán này hay quá làm cho ta có mặc cảm là nếu dịch ra tiếng Việt, thì không thể nào hay bằng.  Tuy vậy hôm ngồi ở Cốc Ngồi Yên, thầy trò đã cống hiến được một bản dịch sau đây, khá nghiêm chỉnh:

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng,
Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen.
Cam lồ một giọt tưới lên,
Xuân về trên khắp mọi miền núi sông,
Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm.

Hơi thơ tuy không được mạnh bằng nguyên bản, nhưng những hình ảnh của bài thơ đều đã có thể diễn tả được.

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng: Kinh Phổ Môn vọng lại từ tiếng hải triều đang dâng lên.

Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen: Một em bé đột nhiên xuất hiện trong lòng bông sen.

Cam lồ một giọt tưới lên: Bài dịch thiếu mất chữ dương-chi.  Đúng ra thì phải dịch là Cam lồ từ nhành dương liễu một giọt tưới lên, nhưng như vậy thì dài quá, thơ lục bát mình chỉ được dùng có sáu chữ thôi.  Nếu nói Cam lồ giọt liễu tưới lên thì cũng được, nhưng lại thiếu mất chữ một.  Chữ một rất quan trọng, chỉ cần một giọt thôi cũng đủ làm cho Xuân về trên khắp mọi miền núi sông.

Bây giờ xin mời Sư Cô Bảo Nghiêm lên hát cho đại chúng nghe…

Trước đây chúng ta đã nói đến danh từ Vô úy thí [Abhaya-d€na], một trong những món quà mà ta có thể dâng tặng cho người khác: Món quà giúp họ đừng sợ hãi.  Chúng ta sợ nhiều thứ lắm:  Sợ sanh, lão, bệnh, tử, sợ những sự bất trắc, chúng ta sợ cuộc đời, đôi khi chúng ta sợ chính bản thân của chúng ta nữa.   Vì vậy thực tập để có sự vô úy, thực tập để có sự không sợ là một pháp thực tập rất sâu sắc.  Khi đạt tới vô úy chúng ta mới có khả năng hiến tặng người khác sự không sợ hãi đó.  Đây là một pháp môn đặc biệt của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Người tu nào cũng phải thực tập cả, để khi đứng trước những thứ làm cho người thường run sợ, người tu có đủ khả năng vượt thoát sự sợ hãi, có sự vô úy thiết lập thân tâm vững chãi trong giây phút hiện tại.

Sau khi được nghe Bụt nói như vậy rồi thì Bồ Tát Vô Tận Ý rất lấy làm cảm phụcBồ Tát nói: Bạch đức Thế Tôn, bây giờ con phải cúng dường Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát liền đứng dậy, tháo chuỗi ngọc rất giá trị đang đeo ở cổ, trao lên cho Bồ Tát Quán Thế Âm và nói rằng: Xin Bồ Tát nhận chuỗi ngọc này do tôi cúng dường.  Lúc bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận.  Chúng ta thấy hình ảnh hiến tặng viên ngọc đã được sử dụng trong kinh Duy Ma.  — đây, kinh Pháp Hoa sử dụng lại hình ảnh đó.  Nên biết rằng Bồ Tát Vô Tận Ý không phải là một người xuất gia, vì nếu xuất gia thì đâu có đeo ngọc ngà châu báu như vậy.  Bồ Tát Quán Thế Âm từ chối là vì Ngài tự hỏi mình nhận chuỗi ngọc này để làm gì?  Lúc đó Bồ Tát Vô Tận Ý mới khẩn khoản: Xin nhân-giả thương chúng tôichấp nhận món quà cúng dường này.  Thấy vậy, Bụt liền can thiệp vào.  Ngài nói với Bồ Tát Quán Thế Âm: Giờ đây Bồ Tát hãy đem lòng thương Bồ Tát Vô Tận Ý và tất cả bốn chúng có mặt ở đây, trong đó gồm có Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân và phi nhân  v.v… mà chấp nhận chuỗi ngọc này. Tấm lòng từ bi đó không nên chỉ hướng về một người, mà hướng về tất cả đại chúng.  Đây là một sự thực tậptính cách tập thể.  Sự cúng dường này không phải từ một mình Bồ Tát Vô Tận Ý mà là từ tất cả đại chúng có mặt trong Pháp hội, cho nên chấp nhậnchấp nhận cho cả đại chúng, và đó là điều mà Bụt đã nói với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Bụt đã không nói: hãy thương Vô Tận Ýchấp nhận.  Bụt nói hãy thương Vô Tận Ý và tất cả những người có mặt ở đây.  Chúng ta phải để ý đến những chi tiết như vậy trong kinh.

Trang 515: Lúc bấy giờ đức Bồ Tát Quán Thế Âm, vì thương tất cả bốn chúng cho nên chấp nhận chuỗi ngọc.  Đây là lần thứ hai kinh lặp lại cái ý đại chúng cúng dường đó.

Sau khi chấp nhận lễ vật, Bồ Tát chia làm hai phần, một phần dâng lên cúng dường Bụt Thích Ca, một phần dâng lên cúng dường Bụt Đa Bảo.  Tích môn và Bản môn đều có mặt như nhau, một lần.  Có Tích môn là có Bản môn, có Bản môn là có Tích môn.  Đó là cách tu tập của chúng ta, không phải Bản môn và Tích môn là hai phần tách rời.  Mình không thể nói rằng tôi chỉ muốn theo Bản môn, nói vậy thì hỏng, tại vì không có Tích môn thì sẽ không có Bản môn.  Ngược lại nếu loại bỏ Bản môn thì cũng sẽ không có Tích môn.  Vì vậy chia chuỗi ngọc ra làm hai phần để cúng dường Bản môn do Bụt Đa Bảo đại diện, và cúng dường Bụt Thích Ca tượng trưng cho Tích môn, đó là để ý tới cả hai bình diện của sự sống.  Tu học cũng vậy, mình phải để thì giờ cho cả hai phía.  Tuy rằng mình đi vào thế giới của Hoa Nghiêm, của ánh sáng, nhưng mình vẫn không thể bỏ thế giới của hiện tượng, thế giới của nồi niêu, của vườn tược, của quét dọn, mình phải chịu trách nhiệm về cả hai phía.

Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta nên biết rằng các vị Bồ Tát đều có thần lực lớn.  Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Phổ Hiền v.v… đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng kiếp trước.  Nhưng vì xuất hiện trong môn thứ ba tức là Hạnh môn, cho nên vẫn hóa hiện làm người đang còn hành đạo, và khi gặp một vị Bụt, họ vẫn cung kính đảnh lễ, tuy chính bản thân họ đã là một vị Bụt.  Sự kiện Bản môn xuất hiện trong Tích môn rất quan trọng, và cái diệu dụng mà mình thấy là Hạnh môn.  Các vị Bồ Tát ta gặp trong kinh ở đây đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng vô biên kiếp trước, nhưng đứng trước Bụt Thích Ca thì vẫn đóng vai trò của người học trò, của nhà hành đạo.  Quí vị phải để ý đến chi tiết này.  Cũng như trong lễ truyền đăng của chúng ta, khi một vị giáo thọ đã được tiếp nhận bài kệ và cây đèn rồi, trước khi vị đó đăng đàn thuyết pháp, thì tất cả mọi người trong đại chúng, kể cả các vị tôn túc, các vị trưởng thượng, đều đứng dậy cung kính hướng về vị giáo thọ mới để chào đón.  Không phải vì đây là vị giáo thọ duy nhứt, nhưng tất cả các vị kia đều đứng dậy để chứng tỏ rằng đây là một vị giáo thọ mà tất cả mọi giới thiên, nhân đều phải cung kính, tại vì vị này mang trong người một sứ mạng truyền bá chánh pháp.  Các vị Bồ Tát như Phổ Hiền, Quán Âm, Thường Bất Khinh đã thành Bụt từ lâu nhưng đối với Bụt Thích Ca, họ vẫn kính cẩn cúi lạy, vẫn hóa hiện như là người đang còn hành đạoNếu không thấy được điều đó thì chúng ta chưa thấy được rằng đây là cái Hạnh môn, được sử dụng để nối lại cảnh giới Bản môn và Tích môn.

Ta biết rằng Tông Thiên Thaiđại biểu là thầy Trí Giả, đã nghiên cứu kinh Pháp Hoa và đã chia Pháp Hoa ra làm hai môn, Tích môn và Bản môn.  Nhưng trong khóa học này chúng ta thấy sự phân chia đó không được hoàn hảo, vì vậy chúng ta đã chia lại và cho rằng ngoài Tích môn và Bản môn, còn có một môn thứ ba gọi là Hạnh môn.  Bản môn thuộc về Thể, Tích môn thuộc về Tướng, và Hạnh môn thuộc về Dụng.  Hạnh môn không phải là một danh từ mới, nó đã được dùng nhiều lần trong kinh điển đạo Bụt.  Ví dụ trong bài Sám Qui Mạng mà các Thiền Viện Việt-nam tụng đọc buổi sáng, có câu:

Khai lục độ chi Hạnh môn,
Việt tam kỳ chi kiếp hải.

Hạnh môn ở đây có nghĩa là cánh cửa của hạnh phúc.  Do đó trong kinh Pháp Hoa, ngoài hai cánh cửa của Bản môn và của Tích môn, ta thêm vào một cánh cửa thứ ba là cánh cửa Hạnh môn, cánh cửa của hành động.  Tất cả các vị Bồ Tát xuất hiện trong kinh Pháp Hoa, đều tượng trưng cho cánh cửa của hành động.  Chúng ta phải nhận diện cho được các vị Bồ Tát đó ở trong kinh Pháp Hoa.

Sau khi đã trả lời cho Bồ Tát Vô Tận Ý, Bụt Thích Ca kết luận:  Này quí vị, tôi vừa nói cho quí vị nghe về sự rong chơi của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thế giới ta bà của chúng ta, và phân tích cái thần lực cũng như cái tự do của Ngài.  Đó là câu kết luận của Bụt trong phẩm này.

Phần ta vừa đọc là phần trường hàng, tức là văn xuôi.  Nhưng chúng ta đã biết rằng ở trong các kinh phần trường hàng luôn luôn xuất hiện sau phần trùng tụng.

Bây giờ chúng ta đọc phần trùng tụng của kinh, bản chữ Việt lẫn chữ Hán.  Mấy câu đầu có lẽ mới được thêm vào khi có phần trường hàng:

Thế Tôn muôn vẻ đẹp Thế Tôn diệu tướng cụ
Con xin hỏi lại Người Ngã kim trùng vấn bỉ
Bồ Tát kia vì sao Phật tửnhân duyên
Tên là Quán Thế Âm? Danh vi Quán Thế Âm?

Bậc diệu tướng từ tôn Cụ Túc Diệu Tướng Tôn
Trả lời Vô Tận Ý: Kệ đáp Vô Tận Ý:
hạnh nguyện Quán Âm Nhữ thính Quán Âm hạnh
Dáp ứng được muôn nơi. Thiện ứng chư phương sở.

Phương sở là những địa phương khác nhau.  Hành động của Quán Âm gọi là Quán Âm hạnh, đáp ứng được với tất cả các phương sở, không phải chỉ đáp ứng được nhu yếu của một nơi, mà đáp ứng được nhu yếu của tất cả mọi nơi.

Lời thề rộng như biển Hoằng thệ thâm như hải
Vô lượng kiếp qua rồi Lịch kiếp bất tư nghị
Đã theo ngàn muôn Bụt Thị đa thiên ức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh. Phát đại thanh tịnh nguyện.

Lời nguyền của Bồ Tát này sâu như biển cả, tại vì Ngài đã trải qua vô lượng kiếp, đã gần gũi học hỏi với muôn triệu vị Bụt và đã phát đại nguyện độ đời rất thanh tịnh.

Đây nói sơ lược thôi: Ngã vị nhữ lược thuyết:
Ai nghe danh thấy hình Văn danh cập kiến thân
Mà tâm sanh chánh niệm Tâm niệm bất không quá
Thì thoát khổ mọi cõi. Năng diệt chư hữu khổ.

Chữ hữu ở đây có nghĩa là cõi nước, như trong danh từ tam hữuba cõi, là Dục, Sắc và Vô sắc.  Nếu người nào nghe được danh hiệu Quán Thế Âm hoặc thấy được hình dáng Ngài mà tâm hồn không lơ là, có một chút chánh niệm, có một chút chú ý thì đã có khả năng diệt trừ những đau khổ của các cõi.  Không quá có nghĩa  là đi qua một cách luống uổng, không lợi ích gì.  Ví dụ khi đi qua rừng trầm hương mà mình không thấy được cây trầm nào hết thì gọi là không quá.

Nếu có ai ác ý Giả sử hưng hại ý
Xô vào hầm lửa lớn Thôi lạc đại hỏa khanh
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hầm lửa biến hồ sen.  Hỏa khanh biến thành trì.

Hỏa khanh là hầm lửa, trì là cái ao, cái hồ.  Nếu ai có ác ý xô mình xuống một hầm lửa, thì nhờ niệm lực Quán Thế Âm, hầm lửa đó tức khắc biến thành một hồ sen.  Chúng ta nên biết rằng con người nhiều khi sống trong hầm lửa, ngồi trên đống than hồng, ngọn lửa của phiền não, của tham sân đốt cháy trong lòng, không khác gì ta đang ngồi trong hầm lửa.  Nếu có chất liệu của tình thương ở trong trái tim thì tất cả những ngọn lửa đó đều tắt, và tự nhiên mình thấy được mát mẻ như đang ngâm mình trong một hồ sen.  Chuyện này nhiều người đã được thực chứngVì vậy mà chỉ cần niệm Quán Thế Âm, chỉ cần làm sao để tình thương có mặt trong trái tim của ta, là hầm lửa trong ta sẽ tắt ngấm, và tự nhiên ta được bơi lội trong một hồ sen.  Niệm bỉ Quan Âm lực, Niệm ở đây là chánh niệm, tức là nhớ tưởng tới, đem sự có mặt của Quán Thế Âm [sự có mặt của tình thương] về trong trái tim ta.  Đó là Pháp niệm Bụt.  Quán Âm lực là sức mạnh, là thần lực của đức Quán Thế Âm, The power of Mindfulness.  Khi tâm của mình thực hiện chánh niệm về Quán Thế Âm, khi mình đã bắt được làn sóng đó, thì tự nhiên có sự có mặt của năng lượng Quán Thế Âm trong tâm mình.  Chánh niệm là một sức mạnh rất lớn cho nên mình gọi là Niệm lực.  Do đó Niệm bỉ Quan Âm lực nghĩa là có chánh niệm về cái thần lực của đức Quán Thế Âm, mà mình đã dịch đơn giản là dùng sức mạnh Quán Âm.

Đang trôi giạt đại dương Hoặc phiêu lưu cự hải
Gặp nạn Rồng, Quỷ, Cá Long ngư chư quỷ nạn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Sóng gió không nhận chìmBa lãng bất năng một.

Nếu bị trôi giạt trong biển cả và nếu có xảy ra những tai nạn lớn như các loài rồng, quỉ, cá mập làm hại, và nếu chúng ta dùng niệm lực Quán Thế Âm thì sóng gió sẽ không làm ta chìm đắm.  Điều này cũng có thật, tại vì nếu hoảng sợ thì chính chúng ta tự làm đắm chiếc thuyền của chúng ta.  Còn nếu an tĩnh, có định lực thì chúng ta biết nên làm gì và không nên làm gì, cho nên sóng gió không làm đắm thuyền của chúng ta được.

Đứng chóp núi Tu Di. Hoặc tại Tu Di phong
Bị người ta xô ngã Vi nhơn sở thôi đọa
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Như mặt trời trên không.        Như nhật hư không trú.
Đây là một hình ảnh rất đẹp.  Nếu ta đứng ở đỉnh núi Tu Di mà có một người đứng sau lưng, xô chúng ta ngã xuống, thì nguy hiểm không cùng.  Nhưng nếu dùng niệm lực Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ đứng lơ lửng trong hư không như là mặt trời.  Như Nhật hư không trú, đó là một hình ảnh rất tuyệt vời, không có gì động tới mình được, mình không bị sa ngã, rớt rụng được.  Khi có tình thương ở trong trái tim rồi thì dù mình đang ở vào tình trạng khó khăn giống như đứng ở đỉnh núi Tu Di, và bị người khác dẫn dụ, lôi kéo, xô đẩy vào vực thẳm, vào đường tội lỗi, thì mình cũng sẽ vững chãi như mặt trời trong hư không, chẳng hề bị lay chuyển, sa ngã.  Có một năm làm thiệp chúc Tết, Làng Mai đã dùng năm chữ Như Nhật Hư Không Trú để chúc mừng năm mới cho mọi người.

Bị người dữ đuổi chạy Hoặc bị ác nhân trục
Rơi xuống núi Kim Cương Đọa lạc Kim Cang sơn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Không hao một mảy lông. Bất năng tổn nhất mao.

Bị oán tặc vây hãm Hoặc bị oán tặc nhiễu
Cầm đao thương sát hại Các chấp đao gia hại
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán tặc thấy thương tình. Hàm tức khởi từ tâm.

Nếu bị những oán tặc vây hãm, cầm dao, cầm kiếm định làm hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả đều phát khởi lòng thương.

Bị khổ nạn vua quan Hoặc tao vương nạn khổ
Sắp sửa bị gia hình Lâm hình dục thọ chung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đao kiếm gãy từng khúc. Đao tầm đoạn đoạn hoại.

Nếu bị chính quyền bắt bớ một cách oan ức và đem ra hành hình, mà dùng niệm lực Quán Âm, thì quan quân sẽ không xử trảm mình được, và lúc đó đao kiếm sẽ gãy ra từng khúc.

Nơi tù ngục xiềng xích Hoặc tù cấm già tỏa
Chân tay bị gông cùm Thủ túc bị nữu giới
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Được tháo gỡ tự doThích nhiên đắc giải thoát.

Nếu bị bắt, bị tra tấn, bị tù đày mà biết dùng niệm lực Quán Âm thì sẽ tháo gỡ được những thứ đó và sẽ được giải thoát, tự do.

Gặp thuốc độc, trù, ếm Chú trớ chư độc dược
Nguy hại đến thân mình Sở dục hại thân giả
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Người gây lại gánh chịu. Hoàn trước ư bổn nhơn.

Người ta dùng thuốc độc, dùng những phép trù, phép ếm để mong hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Âm thì những thứ độc dược đó trở lại làm hại người chủ xướng.  Đây là một đoạn kinh mà khi đọc tới tôi không thích lắm.  Cố nhiên khi mình có ác tâm thì chính mình sẽ là người phải gánh chịu cái ác tâm đó.  Có ác tâm thì khi chưa làm, trong người mình đã bị các độc tố tham sân si làm cho đau khổ rồi.  Khi đã làm, thì cố nhiên gây nhân nào sẽ chịu quả đó.  Nhưng đứng trên phương diện từ bi mà nói thì khi niệm Quán Thế Âm, mình có lòng thương ở trong trái tim của mình, thì mình chỉ muốn bản thân mình thoát khỏi cái nạn đó thôi, chứ mình không muốn thuốc độc hay những phép trù ếm trở lại làm hại tác giảVì vậy tôi nghĩ mình nên chữa lại đoạn kinh này.  Đã đành rằng hại nhân thì nhân hại, đó là theo đúng luật nhân quả, nhưng nếu niệm Quán Thế Âm thì lòng từ của Quán Thế Âm sẽ cứu mình và cứu luôn cả người đó, làm cho họ mở mắt ra, để lần sau họ không còn làm như vậy nữa.

Gặp La Sát hung dữ Hoặc ngộ ác La Sát
Rồng độc và quỷ ác Độc long chư quỷ đẳng
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hết dám làm hại ta. Thời tất bất cảm hại.

Gặp ác thú vây quanh Nhược ác thú vi nhiễu
Nanh vuốt thật hãi hùng Lợi nha trảo khả bố
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều vội vàng bỏ chạy. Tật tẩu vô biên phương.

Rắn độc và bò cạp Ngoan xà cập phúc yết
Lửa khói un hơi độc Khí độc yên hỏa nhiên
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Theo tiếng tự lui về. Tầm thanh tự hồi khứ.

Những loài rắn độc và bò cạp, những hơi độc, chất khói xuất hiện để hại mình, khi niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả những thứ đó đều nghe theo tiếng niệm và tự trở về nơi xuất xứ của chúng.

Sấm sét, mây, điện, chớp Vân lôi cổ xiết điện
Mưa đá tuôn xối xả Giáng bạc chú đại vũ
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều kịp thời tiêu tánỨng thời đắc tiêu tán.

Đây là phần nói về những tai nạn do thiên nhiên gây ra.  Sấm, sét, lụt lội, mưa đá, bão bùng.  Khi những thứ đó xuất hiện và nếu mình an trú trong niệm lực Quán Thế Âm thì tâm ta an tĩnh, đạt được sự vô úy, và những thứ đó sẽ kịp thời tiêu tán, không làm ta sợ hãi nữa.

Chúng sanh bị khốn ách Chúng sanh bị khổn ách
Vô lượng khổ bức thân Vô lượng khổ bức thân
Trí lực mầu Quán Âm Quán Âm diệu trí lực
Cứu đời muôn vạn cách. Năng cứu thế gian khổ.

Chúng sanh bị muôn vàn những khổ ách, và những khổ ách đó thường trực bức bách hình hài của mình, nhưng trí lực mầu nhiệm của đức Quán Thế Âm có thể cứu khổ được cho cả cõi đời.

Trí phương tiện quảng đại Cụ túc thần thông lực
Đầy đủ sức thần thông Quảng tu trí phương tiện
Mười phương trong các cõi Thập phương chư quốc độ
Không đâu không hiện thân. Vô sát bất hiện thân.

Quán Thế Âm đã thực hiện được tam muội Hiện-nhất-thiết pháp-thân, với trí tuệ rất sâu sắc, với phương tiện rất rộng rãi, cho nên ở tất cả các cõi trong mười phương thế giới, không có cõi nào mà Ngài lại không hiện thân.  Sát ở đây nghĩa là cõi.

Những nẻo về xấu ác Chủng chủng chư ác thú
Địa ngục, quỷ, súc sinh Địa ngục, quỷ, súc sanh
Khổ sanh, lão, bệnh, tử Sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Cũng từ từ dứt sạch. Dĩ tiệm tất linh diệt.

Chủng chủng nghĩa là nhiều loại khác nhau; chư ác thú là những nẻo đường ác độc, tức là những đường đưa về địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.  Ác là dữ, thú không phải là loài vật mà là những đường đi, những nẻo về.  Trong ý thức của mình có những nẻo đi và đường về rất là vực thẳm, mà cũng có những nẻo về rất thênh thang.  Không phải chỉ dùng hai chân mới đi được, mình có thể đi bằng cái tâm của mình. Nếu không được điều phụchộ trì, thì tâm mình thường dẫn mình đi theo con đường địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sanh.  Đi về nẻo của Thiên, Nhân, A-tu-la thì đỡ hơn. Dĩ tiệm tất linh diệt, tiệm là từ từ; linh diệt là làm cho nó mất đi.  Như vậy, khi niệm và đưa hình bóng của Quán Thế Âm ngự trong trái tim mình, thì tự nhiên những nẻo về tối tăm của tâm sẽ tiêu tan từ từ, và ánh sáng chánh niệm sẽ mở cho chúng ta những con đường quang đãngChúng ta nên biết rằng tâm của chúng ta nhiều khi dong ruổi trong những nẻo đường rất hôn mê, rất đen tối.  Có ý muốn tự tử, hay có ý muốn giúp người, đó đều là những nẻo về của ý.  Niệm Quán Thế Âm là một trong những phương pháp điều phụchộ trì tâm, để tâm ta đừng đi về những nẻo đường tăm tối như vậy. Niệm Quán Âm một thời gian, từ từ những nẻo về tăm tối đó của tâm ý sẽ dứt sạch, đó gọi là dĩ tiệm tất linh diệt.   Đây là một phương pháp chữa trị rất hữu hiệu của khoa tâm lý trị liệu.

Quán Chân, Chân quán,
quán Thanh Tịnh thanh tịnh quán
Quán Trí Tuệ rộng lớn Quảng đại Trí Tuệ quán
Quán Bi và quán Từ Bi quán cập Từ quán
Thường nguyện, thường Thường nguyện thường
chiêm ngưỡngchiêm ngưỡng.

Đây là năm phép Quán có liên hệ đến danh từ Quán Thế Âm.  Niệm Quán Thế Âm đúng theo phương pháp chính thống, thì lúc niệm ta phải thực tập năm phép quán nói trên.

Chân quán tức là quán về sự thật, nhìn rõ để thấy được sự thật, không bị vọng tưởng chi phối, không bị những cái vỏ, cái hình thái dối gạt bên ngoài làm cho mình mờ mắt.  Dùng cặp mắt quán chiếu để thấy được bản chất của sự vật thì gọi là quán chân.

Quán thanh tịnh là phép quán có thể mang lại cho mình sự bình lặng, sự trong sáng của tâm hồn.  Nó chuyển hóa, lấy đi những hắc ám, tối tăm và bụi bặm của tâm hồn thì gọi là quán thanh tịnh.
Quảng đại trí tuệ quán tức là quán về trí tuệ lớn [Mah€prajự€p€ramit€] nghĩa là quán về Bát Nhã Ba La Mật.  — đây có nghĩa là quán về Không [ệũnyat€]. Mah€prajự€ là Đại Bát Nhã.  Quảng đại là đại; trí tuệBát Nhã, cho nên Quảng đại trí tuệ quán là quán về Không.

Bi quán cập Từ quán.  Bi tiếng Phạn là KaruẾ€, Từ  là Maitrĩ. Đó là bản chất của Quán Thế Âm.   Khi ta niệm Quán Thế Âm thì trong tâm ta có những chất liệu Từ và Bi.  Nếu có những chất liệu đó thì chắc chắn sự chuyển hóa sẽ tới.  Đây không phải là vấn đề tín ngưỡng hay mê tín.  Thường nguyện thường chiêm ngưỡng tức là ta phải luôn luôn tâm nguyệnchiêm ngưỡng năm phép quán đó.  Chiêm ngưỡng ở đây tiếng Anh là Contemplation.

Quán Vô Cấu, Thanh Tịnh Vô Cấu Thanh Tịnh quán
Mặt trời Tuệ phá ám Tuệ nhật phá chư ám
Điều phục nạn, gió, lửa Năng phục tai phong hỏa
Chiếu sáng khắp thế gianPhổ minh chiếu thế gian.

Vô cấu [Vimala] có nghĩa là không dơ bẩn;  Tuệ nhật phá chư ám, là mặt trời của trí tuệ phá tan tất cả những màn hắc ám; Năng phục tai phong hỏa là điều phục được những thiên tai gió lửa.  Năm phép quán đó có tính cách vô cấu, thanh tịnh.  Đó là một mặt trời trí tuệ, có khả năng phá tan những bức màn hắc ám, điều phục được tất cả các tai nạn gió, lửa, và chiếu sáng khắp cùng thế gian.  Đó là thần lực của năm phép quán.
Tâm Bi như sấm động Bi thể giới lôi chấn
Lòng Từ như mây hiền Từ ý diệu đại vân
Pháp cam lộ mưa xuống Chú cam lồ pháp vũ
Dập trừ lửa phiền não. Diệt từ phiền não diệm.

Bi thể tức là cái chất liệu của lòng Bi, giống như tiếng sấm động.  Đại Bi Quán Thế ÂmQuán Thế Âm có lòng thương rất lớn.  — đây chúng ta thấy một hình ảnh rất đặc thù.  Lòng thương thường được so sánh với một cái gì rất dịu hiền, nhưng ở đây lòng thương được so với tiếng sấm động.   Chúng ta nhớ ở kinh Duy Ma, sự im lặng có khi được xem là sự im lặng sấm sét, im lặng nhưng có hùng lực và hiệu năng rất lớn.  — đây lòng thương được ví với sấm động, tại vì lòng thương là một năng lượng tích cực.  Không phải thương rồi chảy nước mắt và không làm gì hết.  Tâm bi không phải là một thứ năng lượng thương xót tiêu cựcSức mạnh của tâm bi hùng vĩ như sức mạnh của sấm chớp.  Lòng từ ở đây được diễn tả dưới hình thái của các trận mưa [Từ ý diệu đại vân] để cho tất cả mọi loài đều được thấm nhuần chất nước cam lộ đó.  Đây là những hình ảnh rất thi caThế gian của chúng ta như một đám cháy.  Trong ta, mỗi người là một đám cháy, chúng ta đang cháy từ trong ra ngoài.  Chúng ta là một thân cây đứng trong một khu rừng đang bốc cháy, và lòng từ bi của Quán Thế Âm như là những đám mây hiền, với sự tác động của sấm sét, những đám mây đó biến thành mưa để chữa trị những đám cháy trên thế gian, và làm cho cây cối mọc lên xanh tươi.

Nơi án tòa kiện tụng Tránh tụng kinh quan xứ
Chốn quân sự hãi hùng Bố úy quân trận trung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán thù đều tiêu tán. Chúng oán tất thối tán.

Vào các phiên tòa kiện tụng hay ra nơi trận mạc đầy bom đạn, nếu chúng ta biết sử dụng niệm lực Quán Thế Âm, thì tất cả những oán thù và tai nạn kia đều có thể vượt qua.

Tiếng Nhiệm, tiếng Quán Âm Diệu âm, Quán Thế Âm
Tiếng Phạm, tiếng Hải Triều Phạm âm, hải triều âm
Tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời Thắng bỉ thế gian âm
Hãy nên thường quán niệmThị cố tu thường niệm.

Đây là những câu rất hay trong Kinh Phổ Môn.  Năm phương pháp Quán kể trên là năm phép quán nói về chữ đầu trong danh hiệu của Bồ Tát: Quán.  — đây kinh nói về năm chữ Âm, tức là nói về năm loại âm thanhliên hệ tới Bồ Tát Quán Thế Âm.

Trước hết là Diệu âmÂm thanh của vị Bồ Tát này là một âm thanh rất nhiệm mầu, rất vi diệuQuán Thế Âm là âm thanh do sự quán chiếu về cuộc đời mà được thể hiện ra.  Ngài là một con người có đủ định lực, có đủ tình thương và nhất là có đủ thì giờ để nhìn vào cuộc đời, quán chiếu về cuộc đời mà hiểu được cuộc đời.  Đó là tiếng nói của người hiểu biết.  Không có thì giờ để nhìn, để hiểu thì không thể có tiếng nói của người hiểu biết.
Tiếng Phạm có nghĩa là tiếng cao quý, ví dụ như Brahma-vih€ra tức là bốn phạm trú, bốn nơi cư trú rất sang trọng, rất cao quí, tiếng Anh là Noble Dwellings.  Bốn phạm trú đó là Từ, Bi, Hỉ và Xả.  Bốn cư xá này là bốn cư xá số một, mình nên tìm đến đó để cư trú cho hạnh phúc, cho thảnh thơi.

Tiếng hải triều là tiếng sóng biển.  Pháp âm của Bồ Tát được ví với tiếng hải triều, hùng mạnh và có khả năng lấn át hết tất cả các tiếng rì rào, than khóc.

Thắng bỉ thế gian âm là tiếng vượt lên trên tất cả các thứ tiếng khác của thế gian, ví dụ như tiếng của danh, của lợi, tiếng của quyền hành, của tranh chấp, của đảng phái.  Tất cả các thứ tiếng đó đều bị tiếng của Bồ Tát vượt lên và chế ngự.

Chúng ta thấy có hai bức tranh, một về Quán và một về Âm, tên của Bồ Tát.  Tám câu kệ nghe như hai câu đối, rất tương xứng.  Về quán, ta có năm phép, về âm thanh ta cũng có năm loại:

Chơn quán, Thanh Tịnh quán, Quảng Đại Trí Tuệ quán, Bi quán, cập Từ quán.    

Diệu âm, Quán Thế Âm, Phạm âm, Hải triều âm, Thắng Bỉ Thế gian âm.

Từng niệm không nghi ngờ Niệm niệm vật sanh nghi
Trong ách nạn khổ chết Quán Thế Âm tịnh thánh
Quán Âmtịnh thánh Ư khổ não tử ách
Là nơi cần nương tựa. Năng vị tác y hộ.

Nghĩa là hãy tiếp tục quán niệm và đừng sanh tâm nghi ngờ, tại vì bậc thánh thanh tịnhQuán Thế Âm kia, thường hiến mình làm nơi nương tựa cho chúng sanh trong mọi trường hợp khi họ gặp tai ách, khổ nạn, và sự chết chóc.

Đầy đủ mọi công đức Cụ nhất thế công đức
Mắt thương nhìn thế gian Từ nhãn thị chúng sanh
Biển Phước chứa vô cùng Phước tụ hải vô lượng
Nên ta cần đảnh lễThị cố ưng đảnh lễ.

Bồ Tát có đầy đủ công đức, đem con mắt thương yêu để nhìn mọi ngườiTừ nhãn thị chúng sanh là năm chữ rất tuyệt diệu, ta chỉ cần làm được chừng đó là đã có hạnh phúc tràn trề rồi.  Đem con mắt thương để nhìn thì chẳng những người kia được hưởng hạnh phúc, mà chính trái tim của mình cũng được thấm nhuần những ngọt ngào của tình thương.  Ta hãy nhìn chúng sanh bằng con mắt từ bi chứ đừng đợi chúng sanh nhìn mình bằng con mắt có thiện cảm!  Biết nhìn mọi loài bằng con mắt từ bi thì không chóng thì chầy, mọi loài sẽ học được phương pháp đó, và sẽ biết nhìn lại mình bằng con mắt từ bi.  Phước tụ hải vô lượng tức là phước đức dồn về và sẽ lớn như biển cả, không thể nào đo lường được.  Thị cố ưng đảnh lễvì vậy cho nên chúng ta hãy cúi đầu đảnh lễ vị Bồ Tát đã thành Bụt từ lâu đó.

Rất tiếc là mình chưa có dịp để dịch lại toàn văn kinh Pháp Hoa, nếu dịch lại thì sẽ dễ đọc hơn nhiều.

Bây giờ ta trở về phần trường hàng kế tiếp của phẩm này.

Lúc đó Bồ Tát Trì Địa [Dh€ranỉndhara Bodhisattva] từ chỗ ngồi, đứng dậy và thưa với Bụt rằng:  Lạy đức Thế Tôn, nếu có người nào nghe được phẩm kinh nói về Bồ Tát Quán Thế Âm này mà thấy được cái sự nghiệp tự do của Ngài, thấy được cái năng lực thực hiện thần thông của Phổ Môn, thì công đức của người đó không phải là ít. Như vậy, người nào được nghe Phẩm Pháp Hoa này, thì người đó đã có công đức rất nhiều.  Nghe được Kinh Phổ Môn tức là đã tiếp xúc được với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đó là lời tuyên bố của vị Bồ Tát tên là Trì Địa.

Trì Địa là một vị Bồ Tát rất ưa lao động.  Hai bàn tay của Ngài thường dính đất, ưa làm vườn, ưa bắc cầu, ưa đào giếng.  Nghe nói rằng, hồi Bụt Thích Ca lên thăm mẹ ở cung trời Đao Lợi thì Bồ Tát Trì Địa đã đắp đường cho Bụt đi.  Ngài là một vị kiến trúc sư, một kỹ sư.  Trì là bảo vệ, duy trì, địa là trái đất, tiếng Anh là Earth Holder. Những người bảo vệ môi sinh, tranh đấu để giữ gìn cho sinh môi trái đất, đều là liên minh của Bồ Tát Trì Địa.  Đây là một vị Bồ Tát chuyên giữ gìn trái đất cho chúng ta, chúng ta cần phải liên minh với Ngài để bảo trì nguyên vẹn trái đất này lại cho con cháu.  Bồ Tát Trì Địa còn bắt cầu, đắp đường để đưa người ta lại với nhau.  Nếu có những người, những nhóm người bị chia rẽ, kẻ ở đầu sông người ở cuối, thì Bồ Tát làm một chiếc cầu đưa họ tới gần với nhau, để ký những hiệp ước hòa bình.  Thế giới của chúng ta rất cần Bồ Tát Trì Địa.

Nói đến đây thì tôi nhớ rằng Bồ Tát Địa Tạng [KỒitigarbha Bodhisattva] cũng phải được đưa vào trong Hạnh môn của kinh Pháp Hoa, vì Ngài là người có đại nguyện tìm đến những nơi đen tối nhất, u ám nhất, khổ đau nhất.  Những nơi đó là địa ngụcLời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng là Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, là chừng nào địa ngục còn có người, thì tôi nguyện còn phải đi tới và nguyện chưa an hưởng quả vị của một đức Bụt.  Bồ Tát Địa Tạnghiện thân cho đại nguyệnĐại Nguyện Địa Tạng Vương là một người luôn luôn thao thức muốn đi vào những nơi còn khổ đau, còn tăm tối.  Chúng ta biết rằng địa ngục không ở đâu xa, chỉ cần đưa tay ra là chạm địa ngục ngay, và đôi khi khỏi cần phải với tay ra bên ngoài, địa ngục cũng có ngay ở trong ta!  Vì vậy đem ánh sáng của tình thương, của hiểu biết tới với khổ đau là lời đại nguyện của Bồ Tát Địa Tạng.  Trong 14 giới Tiếp Hiện có một giới nói về chủ đề này:  Hãy tìm tới những kẻ khổ đau, đừng nhắm mắt trước khổ đau, đừng đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống.  Hãy phổ biến những pháp thoại qua băng Video và băng Audio để giúp cho mọi người bớt khổ.

Muốn cho kinh Pháp Hoa được hoàn mỹ, chúng ta có thể thêm vào một phẩm Bồ Tát Địa Tạng, đồng thời phát triển thêm phẩm Bồ Tát Trì Địa. Cố nhiên ở trong kinh Pháp Hoa chúng ta đã có Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài cũng đã thành Bụt lâu rồi, nhưng vẫn đóng vai Bồ TátĐịa vị của Phổ Hiền ở trong kinh Hoa Nghiêm rất lớn, vì vậy cho nên đến kinh Pháp Hoa chúng ta không được đọc nhiều về Bồ Tát Phổ Hiền nữa.

Tôi nghĩ Bồ Tát Phổ Hiền cần được đề cập đến nhiều hơn trong kinh này, tại vì Bồ Tát Phổ Hiền là một người tượng trưng rất nhiều cho Hạnh môn, và Hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền có tới mười điểm.  Nói tới Hạnh môn thì phải nói tới Phổ Hiềnchúng ta thường xưng tụng Phổ HiềnBồ Tát Đại Hạnh, thành ra sự có mặt của Bồ Tát Phổ Hiền trong phần Hạnh môn rất là quan trọng.
Phật tử Việt-nam ai cũng thuộc mười hạnh của Phổ Hiền, vì bài Hồi Hướng có nhắc đến mười hạnh đó:

1.  Nhất giả lễ kính chư Phật: Nghĩa là mình phải tỏ lòng tôn kính đối với bậc giác ngộ.

2.  Nhị giả xưng tán Như Lai:  Phải khen ngợi Như Lai.  Khen bằng nhiều cách, không phải bằng lời mà là bằng hành động.

3.  Tam giả quảng tu cúng dường: Phải thực hiện việc cúng dường, hiến tặng.  Cúng dường chúng sanhcúng dường Bụt.

4.  Tứ giả sám hối nghiệp chướng: Phải sám hối, luôn luôn phải đổi mới.

5.  Ngũ giả tùy hỉ công đức:  Hễ ai làm được một việc gì tốt, thành công và có niềm vui là mình phải vui theo, phải yểm trợ hết lòng.

6.  Lục giả thỉnh chuyển Pháp luân:  Người nào có khả năng làm giáo thọ, mình phải yễm trợ và cầu họ đi giảng dạy, đừng bắt họ ở ru rú trong chùa.  Những vị Bụt thành đạo chúng ta phải tới cầu xin các vị đi thuyết pháp, đừng có vì những khó khăn mà không thuyết pháp.  Nghe nói Bụt Thích Ca sau khi thành đạo đã có lúc không muốn đi thuyết pháp vì Ngài thấy giáo pháp thì khó, mà chúng sanh thì căn trí không được lanh lợi cho lắm.  Không biết có đúng vậy không, có thể Ngài đã thị hiện ra như vậy để chúng sanh phải thỉnh cầu, nhờ vậy mà thấy được rằng Pháp là quí giá.  Khi nào mình thấy một vị Bụt xuất hiện, thì mình phải thỉnh cầu vị Bụt đó chuyển Pháp luân, nghĩa là đi thuyết pháp hoằng hóa độ sanh.  Nếu thấy một người nào có khả năng thuyết pháp, mình cũng phải thỉnh cầu người đó đi thuyết pháp.

7.  Thất giả thỉnh Phật trụ thế: Là thỉnh Bụt ở lại lâu trong cõi đời để giáo hóa độ sanhBồ Tát Phổ Hiền là người chuyên đi làm những việc này.  Thấy ở cõi nào có Bụt sắp nhập diệt thì Ngài đến khẩn khoản xin Bụt lưu lại thêm một thời gian nữa để cứu độ chúng sanh.

8.  Bát giả thường tùy Phật học: Nghĩa là tinh chuyên theo học với Bụt.  Đừng nói rằng Bụt còn đó, lúc nào mình đến học cũng được.  Nay bận công việc, thôi để đến mai, hoặc năm nay mình kẹt, sang năm chắc chắn mình sẽ thu xếp để đi học.  Đó không phải là hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền; hạnh của Bồ Tát là nơi nào có Bụt giảng dạy, là nơi đó có Ngài đến học hỏi.

9.  Cửu giả hằng thuận chúng sanh: Mình phải đi theo với chúng sanh, đi theo với mọi người để hành đạo, để giúp đỡ, để điều phục chứ đừng trốn họ.  Tu không phải chỉ là tiếp thu vào trong ngũ uẩn của mình, mà phải đưa tay ra, phải tiếp xúc với chúng sanh, phải thấy được rằng những đau khổ, thao thức và ước mơ của chúng sanh là những đau khổ, thao thức và ước mơ của chính mình.  Phải tìm đủ mọi cách để đưa họ đi trên con đường tu họcchuyển hóa như mình, đó gọi là hằng thuận chúng sanh.

10.  Thập giả phổ giai hồi hướng: Khi thực hiện được một điều gì, học được một cái gì, trồng được một cây gì, làm được một điều gì trong ngày, mình đều nói rằng, cái đó là để cho hạnh phúc chung, để cho sự giác ngộ chung, chứ không phải mình đã làm việc đó riêng cho mình.  Học kinh Pháp Hoa không phải là học riêng cho mình mà là học cho tất cả mọi người.  Rửa một cái nồi, không phải chỉ rửa riêng cho mình, chỉ chuyển hóa riêng nội tâm của mình, mà làm cho mọi người và mọi loài.  Bước một bước chân tỉnh thức là bước cho tất cả nhân loại, tại vì nếu có lòng từ, lòng bi, có định, có tuệ thì bước chân đó sẽ làm lợi cho mọi loài hữu tình.   Đừng nghĩ rằng học như vậy là học riêng cho mình, tu như vậy là tu riêng cho mình.  Mình phải biết hồi hướng, tiếng Anh là Transferring the merits to all beings. Mình không có trương mục riêng, tất cả những công phu tu tập của mình đều đưa vào một trương mục mà ai cũng có thể sử dụng được hết, tu như vậy mới đúng là tu theo tinh thần của Bồ Tát Phổ Hiền.

Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện trong hội Pháp Hoa như là một trang nam tử.  Nhưng trong những hình thái tôn thờ ở nhiều nước Á Đông, thì chúng ta lại thấy Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện dưới hình thức một phụ nữ.  Điều này cũng dễ hiểu, vì phụ nữ có thể tượng trưng được tình thương một cách tự nhiên, dễ dàng hơn nam giới.  Hơn nữa, trong kinh có nói rất rõ rằng Bồ Tát Quán Thế Âmtình thương, và Ngài có thể trao tặng tình thương đó dưới nhiều hình thái khác nhau.  Vì vậy mà tôn thờ và hình dung Bồ Tát Quán Thế Âm dưới hình thức một phụ nữ, là một chuyện rất tự nhiên, rất hợp lý.

Chùa Bút Tháp ở miền Bắc Việt-nam có một tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nghìn tay, nghìn mắt rất đẹp.  Nghìn cánh tay có nghĩa là hoạt động nhiều cách.  Tình thương phải được thể hiện ra bằng nhiều cách.  Đối với những người không quen với ngôn ngữ điêu khắc của Phật giáo, thì họ sẽ lấy làm lạ khi thấy một vị tượng có nhiều tay quá.  Nhưng đối với chúng ta thì đó là một hình ảnh dễ hiểu, tại vì khi thương ai, ta muốn nâng đỡ, muốn giải quyết khổ đau giùm cho người ấy, và khi có nhiều người khổ đau quá thì ta phải có mặt ở nhiều nơi, và ta phải có nhiều cánh tay để giúp đỡ.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra.

Đó là hai câu thơ ở trong tác phẩm Nam Hải Quán Âm bằng chữ nôm.  Hai câu đó chứng tỏ rằng tình thương phải được thực hiện bằng hành động.  Nói suông rằng tôi thương anh lắm thì không giúp được gì, vì vậy mà phải có cánh tay.  Cánh tay để vươn tới.  Thành ra trong Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Phổ HiềnPhổ Hiềnđại hạnh, là hành động lớn.  Do đó chúng ta thấy cái chân lý của Hoa Nghiêm đã thấm nhuần tất cả mọi hình ảnh:  Bồ Tát Quán Thế Âm mang cánh tay của Bồ Tát Phổ Hiền.

Nghìn mắt cần thiết cho nghìn tay.  Mắt là để thấy, để hiểu.  Nhận thức mà dẫn tới hành động thì mới có kết quả, do đó vị tượng có nghìn tay thì phải có luôn nghìn mắt.  Mà con mắt là tượng trưng cho Bồ Tát Văn Thù Đại Trí.  Con mắt là để nhìn sâu, nhìn kỹ, để phát hiện ra sự thật, đó là  tác dụng của thiền quánThiền quán nghĩa là nhìn cho thật sâu, cho thật kỹ để thấy được cái chân tướng của sự vật, vì vậy mà con mắt là tượng trương cho thiền quán [VipaỐyan€].

Khi nhìn kỹ Bồ Tát Văn Thù, mình cũng thấy có trái tim của Quán Thế Âm và cánh tay của Phổ Hiền, cho nên một vị Bồ Tát chứa đựng tất cả các vị Bồ Tát khác, đó là chân lý của Hoa Nghiêm.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra,
Xem trong biển nước Nam ta,
Phổ mônđức PhậtQuán Âm.

Hình tượng đã là như vậy thì sự hành trì cũng như vậy.  Tại sao lại có một ngàn?  Một ngàn chỉ là con số tượng trưng, một ý niệm về nhiều, nhiều lắm, Thiên thủ thiên nhãn.

Vào dịp lễ kỷ niệm 2500 ngày Bụt nhập diệt ở New Delhi, Ấn độ, phái đoàn Việt-nam từ Hà nội có sang tham dự, và có thỉnh theo tượng đức Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn để cho các phái đoàn quốc tế thấy cái tác phẩm nghệ thuật đó của Việt-nam.  Hồi đó đất nước mình còn chia làm hai, miền Nam đã gởi một phái đoàn, và miền Bắc một phái đoàn khác, và hai phái đoàn đã bí mật gặp nhauẤn độPhái đoàn miền Nam do Hòa thượng Huệ Quang lãnh đạo.  Hồi đó Tổng hội Phật Giáo Việt-nam ở miền Nam có một tờ tạp chí chính thức gọi là tờ Phật Giáo Việt-nam, Hòa Thượng Huệ Quang làm chủ nhiệm, còn tôi là chủ bút.  Trong khi lãnh đạo phái đoàn sang Ấn độ, Hòa Thượng bị đứt mạch máu và viên tịch tại bên đó.  — nhà chúng tôi có ra một số báo đặc biệt để tưởng niệm cố Hòa thượng Chủ nhiệm Huệ Quang.  Hồi đó phái đoàn miền Bắc có Hòa thượng Trí Độcư sĩ Lê Đình Thám, cùng một số các vị khác.  Hai vị trên có công lớn trong việc chấn hưng đạo Bụt ở Việt-nam.  Phái đoàn miền Nam có Luật sư Trần Thanh Hiệp đi làm thông ngôn.  Tôi vẫn còn nhớ lúc anh Hiệp đến Phật học đường Nam Việt để mượn cuốn tự điển Anh Việt.  Hồi đó ở Việt-nam tiếng Anh chưa được phổ biến lắm.

Vào chùa thấy tượng Quán Âm ngàn mắt ngàn tay, nếu quen với ngôn ngữ của điêu khắc Phật giáo thì chúng ta hiểu ngay đây là hình tượng để nói lên một thứ tình thương chân thật, được xây dựng bằng cái thấy, bằng sự quán chiếu, bằng hiểu biết do sự nhìn sâu.  Đây là một thứ tình thương đích thực, không phải thứ thương suông bởi vì nó được thể hiện bằng những cánh tay.  Khi hướng dẫn khách vào chùa, ta phải giải thích như vậy để họ có thể hiểu được, nếu không họ sẽ thắc mắc, vì mỗi nền văn hóa có một thứ ngôn ngữ riêng.

Đôi khi con mắt kia mình phải tìm mới thấy.  Nhìn qua thì chúng ta chỉ thấy vị tượng có nhiều cánh tay thôi, nhưng nếu nhìn cho kỹ, ta sẽ thấy trong mỗi bàn tay có một con mắt.  Bàn tay mà có con mắt là quan trọng lắm, bàn tay mà không có con mắt là nguy hiểm vô cùng.  Hành động mà không đi theo sự hiểu biết thì sẽ đưa đến sự đau khổ cho người mình thương, chứ đừng nói người mình không thương.  Ai cũng muốn đem lại hạnh phúc cho đất nước, cho đồng bào, cho nhân loại, cho các loài, nhưng cái tình thương không có sự hiểu biết thì chưa hẳn là tình thương và có thể gây đổ vỡ dù mình có đầy tràn thiện chíThiện chí chưa phải là tình thương, cái ý muốn thương chưa phải là thương.  Khả năng thương là khả năng thấy và khả năng hiểu để hành động, vì vậy mà các nhà điêu khắc đã diễn tả tình thương rộng lớn của Bồ Tát Quán Thế Âm như cả ngàn cánh tay có con mắt trong mỗi bàn tay.  Sự tu hành của mình, nói tóm lại, là để đặt vào trong lòng bàn tay của mình một con mắt.  Chừng nào mình đặt được một con mắt vào lòng bàn tay của mình, thì lúc đó hành động của mình sẽ có an toàn.  Bất cứ hành động nào của mình cũng sẽ đem lại hạnh phúc cho người và cho chính mình.  Nếu chưa có con mắt ở trong lòng bàn tay, thì chúng ta phải cẩn thậnTu quán là để có con mắt tuệ, tuệ nhãn.  Có tuệ nhãn thì dù muốn hay không cũng sẽ có từ bi, tại vì cái thấy sâu sắc đưa tới cái thương đích thực.  Và tình thương không thể nào không biểu hiện bằng hành động.

Người hành giả như một máy thâu hình, hay máy thâu thanh, phải có những điều kiện mới có thể cảm ứng được với những luồng sóng truyền thanh hay truyền hình.  Những đài phát thanh và phát hình luôn luôn có đó, nhưng mình phải có cái đồng thanh, đồng khí thì mới tương ứng và tương cầu được với những đài phát lớn.  Bụt và các vị Bồ Tát là những đài phát thanh và phát hình lớn, luôn luôn có mặt ở trong vũ trụ, nhưng nếu cái máy thu của mình không hội đủ điều kiện, thì mình sẽ không bắt được những làn sóng đó, và mình nói rằng không có phát thanh, không có phát hình, không có làn sóng điện.  Trong bài kệ kiến giải của Sư cô Như Phước, Sư cô nói rằng cái bí mật của hạnh phúc là sống cho trọn vẹn ngày hôm nay, và tiếp nhận được tình thương đến từ muôn loài.  Tình thương đó có thật và đang đến, cũng tương tự như những làn sóng truyền thanh, truyền hình đang tới với mình luôn luôn, nhưng tại vì tâm mình bị bít lấp, cho nên mình không mở được cõi lòng để đón nhận tình thương đó.  Không khí, hay là nước trong, những thứ này sẵn sàng có mặt đó cho mình, nhưng vì mình tự trốn tránh trong cái tháp ngà đau khổ của mình, cho nên mình không đón nhận được tình thương của không khí, của nước trong, của đám mây, của mặt trời, tất cả đều có ý muốn nuôi dưỡng, che chở cho mình.  Bụt và Bồ Tát cũng vậy, đó là những sự có mặt rất thực tế mà không cần phải có một đức tin mới tìm thấy được, chỉ vì con mắt mình không mở ra, và chỉ vì trái tim mình khép kín lại, cho nên mình mới không nhận ra sự có mặt của các vị Bụt và Bồ Tát ở chung quanh mình đó thôi.

Có những vị Bụt và Bồ Tát không có tên tuổi, không được các đài truyền thanh, truyền hình, hay báo chí nhắc tới, nhưng họ có mặt ngay chung quanh chúng taTình thương của họ được thể hiện rất rõ ràng, họ là những Bồ Tát vô danh, có mặt khắp mọi nơi.  Trong bước đường hành đạotây phương, thỉnh thoảng tôi có gặp những vị Bồ Tát như vậy.  Họ là Bồ Tát lớn, nhưng không ai nhìn rõ họ để có thể nhận ra họ là những vị Bồ Tát lớn.  Ví dụ ở Hòa lan có một phụ nữ, mới trông vào, mình không thấy gì đặc biệt cả, Bà tên là Hebe KolhbrỎgge.  Bà đã giúp rất nhiều cho trẻ em ở Việt-nam.  Trong đệ nhị thế chiến, bà đã tạo nơi ẩn náu cho rất nhiều người Do thái, và đã giúp di chuyển hàng chục ngàn người Do thái sang các nước khác để họ khỏi bị chết dưới bàn tay của người phát-xít.  Một người có tâm địa và hành động như vậy, nếu ta không gọi là Bồ Tát thì gọi là gì nữa?  Vậy mà Bà đã không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, chẳng có một giấy tờ gì để công nhận việc cứu độ chúng sanh của Bà.  Tôi chỉ vì may mắn nên đã được gặp bà trên bước đường hành đạo.  Bà sống rất đơn giản, đạm bạc và đã thực hiện được điều mà mình không ngờ một phụ nữ có thể đơn phương làm được.  Trong thời gian làm việc chung, tôi thấy Bà vẫn tiếp tục giúp những người câm, người điếc ở trong các nước Xã hội chủ nghĩa một cách rất sốt sắng và âm thầm.  Bà đã không mang danh là Phật tử, không mang một danh xưng nào hết.  Mình phải có một trái tim rộng mở, phải đừng có thành kiến, mới nhận ra được những vị Bồ Tát có mặt chung quanh mình, ở cùng trong xã hội với mình.  Hiện giờ tại các nước Tây phương cũng như Đông phương, có những người đang âm thầm làm việc để cứu trợ cho biết bao nhiêu người bệnh tật, nghèo đói, cùng khổ, đang bị áp bức.  Họ làm những việc cứu trợ đó một cách rất im lặng.  Nếu ta nhởn nhơ trong hoàn cảnh của ta, thì ta không thấy được sự có mặt của những người đó, và không biết đến những hoạt động rất lặng lẽ nhưng rất thực tế của họ.  Họ không cần báo chí tường thuật, không cần đài phát thanh, phát hình đề cập đến, nhưng họ đã làm những việc như vậy từ mấy mươi năm nay, và vẫn tìm được niềm vui và sự an bình trong công tác hàng ngày.

— Huế có một Phật tử tên là bác Siêu.  Bác tuy rất im lặng, nhưng vì bác đã làm việc xã hội lâu ngày quá, nên ở Thừa thiên không ai là không biết bác, và ai cũng nghĩ bác là một vị Bồ Tát.  Bác làm việc rất âm thầm.  Vốn liếng của bác chỉ là một chiếc xe đạp rất cũ.  Vậy mà ở đâu Bác cũng đạp đến được, và bác đã giúp cho rất nhiều gia đình đơn bạc, nghèo đói, bệnh tật.  Bác không có gia tài, nhưng bác có một trái tim, vì vậy mà bác đã có nhiều bạn hữu có thể giúp bác làm công việc từ thiện.

Năm 1964, trong một chuyến về Huế, tôi đã mời bác lên chùa Từ Hiếu để được chuyện trò và học hỏi những kinh nghiệm của bác.  Hồi đó, tôi vừa thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và nghĩ rằng mình sẽ thực hiện những công tác tình thương trên toàn quốc, có tính cách hệ thốngtỷ lệ lớn hơn bác Siêu.  Đó là tại tôi nghĩ rằng mình đang làm theo phương pháp mới, mình đào tạo nhiều cán bộ cùng một lúc, và mình đã nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các nước, cho nên mình sẽ làm hay hơn bác.  Trong khi ngồi nói chuyện với bác, tôi vẫn mang cái niềm tự tin rằng mình sẽ khoa học hóa và hệ thống hóa được công việc, và tôi muốn mời bác gia nhập vào trong công tác này.

Mục đích của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội không chỉ là công việc từ thiện, mà gồm cả công việc phát triển xã hộiPhong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội là để giúp dân, giúp nước, chứ không phải là để làm từ thiện đơn thuần.  Giúp dân, giúp nước là giúp cho chính mình.  Sau khi nghiên cứu nhiều nơi, tôi trở về lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, nhằm bốn mục tiêu:

1.         Giáo dục: Nông thôn có nhiều làng không có trường học và trẻ em lêu lổng,  không có học vấn.  Vì vậy công việc đầu tiên của một tác viên xã hội khi về làng, là tìm cách chơi với các em để dạy các em.  Mình có thể chơi và dạy các em ở ngoài bờ sông hay dưới gốc đa.  Khi số lượng các em lên đến hai ba mươi đứa, lúc trời mưa, mình kéo nhau vào xin tá túc ở nhà của một dân làng để tiếp tục việc học.  Từ từ cái ý niệm xây một mái trường bằng tre và lá dừa phát sinh ra, và chính người tác viên đó sẽ đề nghị dân làng họp lại để làm ngôi trường đó cho làng.  Đừng đợi chính quyền hay một sự giúp đỡ từ bên ngoài, vì đợi thì sẽ phải đợi hoài.  Thanh niên phụng sự xã hội phải bắt đầu từ những cái gì mình có, từ những cái gì mình biết chứ không chờ đợi một sự viện trợ, dù sự viện trợ đó là từ chính quyền của nước mình.

2. Y tế: Thành lập một trạm y tế, dạy dân làng cách phòng ngừa tật bệnh, và tự thiết lập những nhà vệ sinh bằng xi-măng rẻ tiền.  Dạy trẻ em ngăn ngừa những bệnh thông thường như bệnh cảm, sốt rét, bệnh đau mắt v.v…

3.         Kinh tế: Làm sao cho sự sản xuất của dân làng tăng lên, ví dụ tìm cách tổ chức hợp tác xã; chỉ cho dân làng sử dụng phân bón đúng mức; cách chọn hạt giống; phương pháp trị liệu những chứng bệnh của cây cối mùa màng; tổ chức để dân làng có thể làm những tiểu công nghệ trong giờ rảnh rỗi để tăng thêm ngân sách gia đình; giúp cho dân làng biết phương pháp chăn nuôi gà, vịt mà không để chúng bị bệnh tật. 

4.         Tổ chức: Giúp dân làng tổ chức lại làng xã, công việc tương trợ, tại vì nếu không tổ chức lại đàng hoàng thì mình không thành công được.

Hồi đó với kiến thức, với kinh nghiệm như vậy, tôi nghĩ rằng, phong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội sẽ là một hình thái hoạt động mới, và so với hình thái hoạt động cổ điển của bác Siêu thì nó phải tiến bộ hơn nhiều.  Cho nên tôi có niềm tin rất lớn và tôi nghĩ rằng mình có thể làm hay hơn bác Siêu.

Trong lúc tiếp xúc, bác Siêu ngồi im lặng nghe những điều tôi trình bày.  Sau đó bác cũng đồng ý tham dự trong khi bác vẫn tiếp tục con đường riêng của bác.  Cho đến khi người Cộng sản lên nắm chính quyền, họ cấm hết tất cả các hoạt động của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và họ bắt đầu bắt tác viên của trường, thì tôi mới nhận ra rằng cái phương pháp của bác Siêu rất là vô tướng.  Bác vẫn tiếp tục công việc từ thiện như thường, vẫn với chiếc xe đạp cũ kĩ ọp ẹp đó, bác đi tới khắp hang cùng ngõ hẻm và vẫn làm được cái công việc mà ngày xưa tôi cho là không khoa học cho lắm.

Không ai ở Thừa thiên mà không biết cái hạnh nguyện, cái âm thầm lặng lẽ của bác.  Bác Siêu là một vị Bồ Tát không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, và báo chí không nhắc tới.  Nếu mở mắt ra, mở trái tim ra, mình sẽ tiếp xúc được với rất nhiều người như bác Siêu ở ngay trong đất nước của mình.  Trong những con người đó, có chất liệu của Quán Thế Âm, và những người đó thực sự có niệm lực của Quán Âm.  Nhờ thế mà họ mới trường kỳ công tác được như vậy, nếu không thì chỉ vài ba tháng là họ bỏ cuộc, họ chán nản.  Vì vậy khi niệm đức Quán Thế Âm, phải thực tập sâu sắc mới có thể thành công được.  Nếu cái máy thâu hình của mình hư, thì dù mình có bấm nút mấy trăm lần đi nữa, nó vẫn không tiếp nhận được hình ảnh của đài truyền hình.  Niệm danh hiệu Quán Thế Âm cũng vậy, mình phải chuẩn bị tâm của mình cho thanh tịnh, cho chí thành thì mình mới bắt được cái nguồn năng lượng đại bi kia.  Niệm mà thấy cái hiểu và cái thương có mặt trong ta, thì lúc đó niệm mới thực sự hữu hiệu, còn niệm bằng miệng mà trong lòng vẫn có hờn giận, nghi kị, tham lam, buồn chán, thì mình sẽ không bắt được cái tinh lực của đức Quán Thế Âm.  Muốn thừa hưởng được niệm lực Quán Âm thì mình phải bắt được niệm lực ấy.  Cho nên những người niệm đức Quán Âm, niệm Bụt Di Đà, hay Bụt Thích Ca mà trái tim vẫn còn cứng như đá thì ta biết rằng họ không bắt được làn sóng từ bi.  Niệm Bụt là một pháp môn rất thâm diệu đem lại một kết quả rất tốt.  Chúng ta không đặt vấn đề nghi ngờ mà chỉ đặt vấn đề niệm như thế nào để trái tim của mình có thể mở ra và để cho tình thương, sự hiểu biết và cánh tay của đức Quán Thế Âm có thể có mặt trong mình.  Trong chúng ta, người nào cũng đã có những giây phút kinh nghiệm về hiểu, về thương và về một ước muốn hành động.  Khi chúng ta có cái hiểu, cái thương và sự muốn hành động đó, thì chúng ta biết rằng hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm đã ngự trong trái tim của chúng ta rồi.  Nếu chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì không có lý do gì mà tinh lực của đức Quán Thế Âm không tiếp tục tuôn tràn vào trong trái tim của chúng ta.

Khi niệm Quán Thế Âm ta phải niệm một cách thông minh, phải biết rằng niệm theo phương pháp nào thì mới có kết quả, và ta phải giúp cho những người khác, đừng để cho họ niệm một cách mê tín, máy móc và sai lạc.  Niệm đức Quán Thế Âm như niệm một vị thần linh chỉ biết ăn hối lộ, cúng chuối, cúng xôi và mong đức Quán Thế Âm đứng về phe mình để đánh dẹp phe kia, niệm như vậy thì ngàn đời Bồ Tát Quán Thế Âm cũng không ứng hiện được trong trái tim của ta, tại vì Bồ Tát Quán Thế Âmhiện thân của cái hiểu, cái thương và cái hành động.

Mình cũng đừng có nghĩ rằng đức Bồ Tát Quán Thế Âm là một thực tại hoàn toàn ở ngoài mình.  Đây là giáo lý của Hoa Nghiêm, mà cũng là giáo lý của Pháp HoaGiáo lý này cũng căn cứ trên nguyên tắc duyên sinh [Pratĩtyasamutp€da], hay duyên khởi.  Khi chắp tay lễ Bụt, mình phải thấy rằng Bụt có trong ta và ta có trong Bụt, thì sự lễ lạy đó mới đúng với tinh thần Phật giáoChúng ta thấy trong đạo Hồi Hồi hay trong đạo Cơ Đốc cũng có sự lễ lạy, nhưng có thể sự lễ lạy này không giống như sự lễ lạy trong đạo Bụt.  Chúng ta có một pháp môn lạy mà đã mấy ngàn năm nay, người Phật tử đã thực tập rất đều đặn, rất thâm sâuDâng hương cũng là một pháp môn đặc thù, chúng ta không chỉ dâng hương trầm mà dâng hương Giới, hương Định và hương Tuệ, hương Giải Thoát và hương  Giải Thoát Tri Kiến. Có giới, có định, và có tuệ để dâng lên, thì Bụt bằng lòng hơn.  Sau khi dâng hương lên rồi, chúng ta mới quán tưởng, tức là chúng ta lạy xuống.  Phép quán tưởng này là một phép quán tưởng rất cao siêu.

một lần tôi trình bày tại Đại học Boston cho những nhà thần học nghe về phép quán tưởng này, và họ rất lấy làm ngạc nhiên, vì không có một tín đồ nào lễ lạy vị Giáo chủ của mình với một tinh thần như vậy.  Chắp tay lại mình đọc:

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghị,

có nghĩa là người kính lễ và người được kính lễ, cả hai đều không có sự có mặt riêng biệt và tách rời khỏi nhau.  Đây là đạo lý duyên sinh được nhìn nhận.  Bạch đức Thế Tôn, con đang lễ lạy Ngài và con biết rằng con được làm bằng Ngài và Ngài được làm bằng con.  Đức Thế Tôn được làm bằng những chất liệu không phải là Thế Tôn, cũng giống như một bông hoa được làm bằng những chất liệu không phải là bông hoa, như ánh sáng, đám mây, phân bón.  Đức Thế Tôn cũng vậy, Ngài được làm bằng những chất liệu không phải Thế Tôn, trong đó có con, vì vậy trong Thế Tôn có con.  Con cũng được làm bằng những chất liệu không phải là con, trong đó có Thế Tôn, vì vậy trong con có Thế Tôn và trong Thế Tôn có con.  Đó là cái ý nghĩa về tánh không tịch. Có tôn giáo nào mà người tín đồ nhìn vị Giáo chủ của mình và tuyên bố như vậy trước khi lạy không?  Cảm ứng đạo giao nan tư nghị, có nghĩa là chỉ vì con nhận thức được như vậy cho nên con biết rằng sự cảm ứng và sự giao tiếp giữa con và Ngài mới thật là mầu nhiệm, không thể nào diễn tả bằng tư tưởng và bằng ngôn ngữ được.  Nếu Ngài là một thực thể hoàn toàn độc lập, và con cũng là một thực thể hoàn toàn độc lập, thì sẽ có một vạn lý trường thành chia cách, làm thế nào giữa Ngài và con mà có sự thông cảm mầu nhiệm sâu xa được?  Trong đạo Ki-tô có những khuynh hướng thủ cựu cho rằng Đấng Tạo hóa không thể nào có cùng một bản chất với những vật thụ tạo, như là núi sông, cây, cỏ, con người v.v…  Vật thụ tạo [Creatures] và Đấng Tạo hóa [Creator] là hai thực thể tách rời.  Như vậy giữa hai bên có một bức thành kiên cố ngăn cách thì làm sao có được sự giao tiếp hai chiều, tức là có sự cảm ứng sâu sắc giữa Thượng đếcon người được?  Đạo Bụt thì nói rất rõ: Con không có thực thể riêng biệt mà Bụt cũng không có thực thể riêng biệt. Chính cái sự to gan dám so sánh đó, mới chứng tỏ được mình là một đệ tử giỏi, một học trò có thể hiểu được ý thầy.  Con không có thực thể, con là Không, và Bụt cũng không có thực thể, Bụt cũng là Không.  Đó là một lời khen rất lớn đối với Bụt, tại vì sự khen ngợi này không chỉ được làm bằng lời nói và sự cung kính, mà bằng cái tuệ giác của mình đối với giáo pháp của đức Thế Tôn.  Chính vì Bụt không có thực thể độc lập, và con cũng không có thực thể độc lập, cho nên sự cảm ứng giữa Bụt và con mới thật là sâu sắc và mầu nhiệm.  Đó là những điều mà các vị tổ của ta đã thực tập hàng ngàn năm nay.  Mỗi khi chắp tay trước đức Bổn Sư mà ta không thực tập như thế thì chúng ta có thể chỉ lễ lạy một cách cạn cợt, có khi là mê tín.  Đối với Bồ Tát Quán Thế Âm chúng ta cũng phải thực tập như vậy.

Có người thực tập phương pháp lễ lạy như sau:

Khi đưa hai tay chắp lên trán, họ đồng nhất sự cung kính của họ với ý,
Khi đưa tay xuống ngang miệng và cổ họng thì họ đồng nhất sự cung kính với lời nói,

  • Khi bàn tay rời lãnh vực ngôn ngữ, đi xuống ngang trái tim thì họ đồng nhất sự cung kính của họ với thân,

và khi lạy xuống là họ lạy với ba nghiệp Thân, Ngữ, Ý thanh tịnh. Như vậy, cái hành động kính lễ của mình rất là hiệu nghiệm:  nó gom được thân, khẩu và ý trong chánh niệm, và mình lạy xuống trong cái nhận thức là mình có Bụt trong mình, và Bụt có mình trong Bụt, như vậy là mình mở trái tim của mình ra để cho Bụt đi vào một cách rất dễ dàng.  Lúc đã có nội ứng rồi, đã có Bụt trong mình rồi, thì sự niệm Bụt trở nên rất dễ dàng và có hiệu lực.  Mình đừng có mặc cảm.  Phải tin rằng cái chất liệu của đức Quán Thế Âm đang có mặt ở trong mình, chất liệu đó sẽ được nuôi dưỡng, sẽ được phát hiện bởi phương pháp niệm Bụt của mình.  Ngược lại nếu mình có mặc cảm rằng Bụt và Bồ Tát là những bậc tuyệt vời, còn mình chỉ là người trần, mắt thịt, tội lỗi đầy đầu, và hai bên không bao giờ gặp nhau cả, thì sự niệm Bụt của mình sẽ khó thành công.

Cái pháp môn lạy Bụt chưa chấm dứt ở đó, vì ta còn tiếp tục quán chiếu:

Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.

có nghĩa là cái đạo tràng trong đó con đang đứng để hành lễ nó giống như là một màn lưới làm bằng những hạt minh châu của Vua Trời Đế Thích.  Trong cung Vua Đế Thích có một bức màn rất quý vì nó được kết toàn bằng những hạt minh châu vô giá.  Nếu đến gần, mình sẽ thấy mỗi hạt minh châu chứa đựng hình ảnh của tất cả các hạt châu khác ở trong nó.  Trong cái một có cái tất cả, cái tất cả chứa đựng cái một, đó là giáo lý kinh Hoa Nghiêm mà mình đưa ra để thực tập trong sự lễ lạy.  Trước khi lạy xuống mình quán tưởng và thấy rằng cái đạo tràng trong đó mình đang đứng, được tạo bằng tấm màn lưới của Vua Trời Đế Thích, và tất cả chư Bụt trong mười phương đều hiển hiện trước mặt mình.  Vì vậy khi lạy, mình không bỏ sót một vị Bụt nào hết, khi lạy một Bụt là mình lạy tất cả các Bụt. Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ, thân con cũng ảnh hiện như Bụt vậy, nếu Bụt hiện thânvô số thì con cũng hiện thânvô số.  Số lượng của sở lễ nhiều như thế nào thì số lượng của năng lễ nhiều như thế đó.  Nếu chư Bụt nhiều như số cát sông Hằng, thì con cũng vậy, số lượng của hiện thân con cũng nhiều như số cát sông Hằng, và trước mỗi vị Bụt trong mọi thế giới đều có con đang đứng kính lễ.

Khi quán tưởng như vậy và lạy xuống thì một cái lạy, là ta lạy tất cả chư Bụt trong thế giới tam thiên đại thiênVì vậy lễ lạy trong đạo Bụt không phải là sự khuất phục trước một uy quyền, cúi đầu hạ thấp nhân phẩm của mình trước một đấng thần linh, trái lại lúc lễ lạy ta đưa nhân phẩm của ta lên ngang hàng với nhân phẩm của chư Bụt.

Thầy Thiện Siêu đã dịch bài này như sau:

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châuđạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo-tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Mình nên dịch thế nào để cho người đọc hiểu được dễ dàng, và nương vào đó mà quán tưởng trong lúc lễ lạy, thì mỗi cái lạy mới giúp mình làm tiêu tan đi biết bao nhiêu vô minh, bao nhiêu mê mờ, bao nhiêu nghiệp chướng, đồng thời nó tạo ra một sự thông cảm lớn lao giữa mình và chư Bụt[12] .

Trong trường hợp lễ lạy đức Quán Thế Âm, nếu ta cũng áp dụng phương pháp đó thì ta sẽ thấy được rằng trong ta có một Bồ Tát Quán Âm ở trong tư thế tiềm phụcTự nhiên chúng ta sẽ có niềm tin.  Đây là lời dạy của Bụt.  Lưỡi của Bụt rất dài, che được cả tam thiên đại thiên thế giới, vì vậy cho nên những điều Bụt nói đều toàn là sự thật.  Đó là hình ảnh diễn tả trong kinh.  Khi Bụt nói mọi chúng sanh đều có một vị Bụt trong lòng, thì đó là một sự thật, vì vậy trong mỗi chúng ta đều có tiềm phục một đức Quán Thế Âm.  Nếu chúng ta tu tập cho có những điều kiện để hạt giống Quán Thế Âm ở trong ta được tưới tẩm, có không gianthời gian để phát triển, thì đó là một hình thái niệm Bụt, tại vì đức Quán Thế Âm không phải chỉ ở bên trong hay ở bên ngoài ta.  Nói rằng Ngài chỉ có ở bên trong ta thì không đúng, mà nói Ngài chỉ có ở bên ngoài thì cũng không đúng luôn.  Phật tánh có ở khắp nơi.
Khi thấy rõ được sự tiềm phục của Bồ Tát Quán Thế Âm trong ta thì tự nhiên ta sẽ có sự cung kính đối với ngũ uẩn của chúng taChúng ta không còn phiền trách, khinh thường, không còn hờ hững với ngũ uẩn của chúng ta nữa.  Đồng thời nhìn quanh, chúng ta cũng không chê trách, khinh thị, đối xử tệ bạc với những hợp thể của ngũ uẩn chung quanh ta, tức là những bạn tu, những sư anh, sư chị của chúng ta.  Họ đều có đức Quán Thế Âm trong ngũ uẩn của họ, tại vì chúng ta chưa biết cách cho nên chưa đánh động và làm sống dậy được Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong họ.  Người đó có vẻ như khôngtình thương, không có hiểu biết, không biết lo cho những người khốn khổ.  Sự thực là đức Quán Âm trong họ đang ở trong tư thế tiềm phục, và ta chưa đủ khả năng để giúp người bạn kia tiếp xúc được chất liệu cam lộ Quán Thế Âm.  Cho nên khi biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong ta, thì ta cũng biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong người khác.

Tu học là dùng những phương tiện quyền xảo để giúp người và chuyển hóa mình.  Đôi khi chỉ cần nói một câu mà mình có thể đánh động được tình thương và sự hiểu biết trong con người đó, và nhờ vậy mà người đó chuyển hóa.  Mình không cần làm nhiều mà chỉ cần làm đúng.  Làm sao để làm đúng?  Mình phải biết quán sát tâm trạng của người đó, biết người đó đang bị kẹt vào cái gì.  Thấy được rồi thì chỉ cần nói đúng một câu là tháo gỡ được cho người đó.  Đối với người bạn tu của mình cũng vậy.  Họ có thể là khô cằn, họ có thể là đa nghi, nhưng với con mắt trạch pháp của mình, với phương tiện quyền xảo của mình, với ngôn ngữtình thương của mình, mình có thể làm cho mạch tình thương ở trong họ tuôn chảy trở lại.  Đó là một hình thức lễ lạy, biến người đó thành một người bạn đồng hành của mình trên con đường thực tập từ bi.

Chúng ta có thể về Huế để tìm bác Siêu, nhưng chúng ta cũng có thể tìm được bác Siêu ở ngay đây.  Nếu bác Siêu ở trong trái tim của ta đã hiện ra rõ, thì việc đi tìm bác Siêu bên cạnh chúng ta sẽ trở nên rất dễ dàng.

[11] Bài Tán Dương Quán Âm dưới đây đã được thầy Nhất Hạnh
dịch và Sư cô Chân Quy Nghiêm phổ nhạc sau đó:

Trí tuệ bừng lên đóa biện tài,
Đứng yên trên sóng sạch trần ai,
Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh,
Hào quang quét sạch buổi nguy tai,
Liễu biếc phất bày muôn thế giới,
Sen hồng nở hé vạn lâu đài,
Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh,
Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.
[12] Làng Mai đã cống hiến bản dịch bài Quán tưởng như sau:

Trong thể tính chân như
Không chủ thể đối tượng
Đệ tử kính lạy Bụt
Trong tương cảm nhiệm mầu
Biểu hiện khắp mười phương
Như Đế châu ảnh chiếu
Nơi nào cũng có Bụt
Và có con kính lạy

Page 21

Bây giờ chúng ta hãy đi sang phẩm thứ 25, Phẩm Phổ Môn.  Phổ môn là cánh cửa phổ biến, cánh cửa mở ra cho mọi loài đi vào.  Cánh cửa này không chỉ mở ra cho một hay hai, ba hạng người, mà tất cả mọi loài đều có thể đi qua cánh cửa đó để vào Phật Pháp.  Tiếng Anh là Universal Door.  Đây là một Phẩm được tụng đọc nhiều nhất của kinh Pháp Hoa, và được gọi là kinh Phổ Môn [Samantamukha] hay là kinh Quán Âm.

Nhìn vào Bồ Tát Quán Thế Âm [AvalokiteỐvara Bodhisattva] chúng ta thấy Bồ Tát Thường Bất Khinh, chúng ta cũng thấy Bồ Tát Dược Vương, tại vì con đường của tín nghĩa, của ân tình, của sự chung thủy cũng có mặt ở đây.  Bồ Tát Quán Thế Âm đã lập nguyện là khi nào có người nhớ nghĩ tới Bồ Tát và niệm danh hiệu của Ngài, thì Ngài sẽ có mặt ngay trong giờ phút đó.  Điều này có tính cách chung thủy, ân tình.  Any time you need me, I will be there, đó là tiếng nói của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Những lúc anh cần đến tôi, tôi sẽ có mặt ở bên anh, nhất là lúc anh lâm vào tình trạng khó khăn, tuyệt vọng.
Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe những âm thanh của cuộc đời.  Chữ Quán ở đây có nghĩa là để ý tới, nhìn sâu, nhìn kỹ để có thể hiểu.  Hiểu là cái bản chất làm ra sự thương yêu, có hiểu được mới thương.  Nói đến Bồ Tát Quán Thế Âm, là ta nói tới sự thương yêuNam mô Đức Bồ Tát đại bi Quán Thế Âm.  Nếu Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho sự hiểu biết lớn, nếu Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho hành động lớn, thì Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng cho sự thương yêu lớn, cho đại từ, đại bi.

Khi được nghe danh xưng Bồ Tát Quán Thế Âm thì Bồ Tát Vô Tận Ý [AkỒayamati Bodhisattva] lấy làm xúc cảm liền lập tức.  Tên nghe hay quá, Quán thế Âm, lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời.  Danh từ Quán Thế Âm tác động vào trái tim của Bồ Tát Vô Tận Ý, nên Bồ Tát đứng dậy, chắp tay hướng về Bụt hỏi:  Bạch đức Thế Tôn, vì lý do gì mà vị Bồ Tát kia có tên là Quán Thế Âm [Avalokiteshvara]. Định nghĩa của Bụt rất rõ.  Bụt nói:  Tại vì những người khổ đau khi nghe tới danh xưng ấy mà thấy hoan hỉ và lập lại, thì Bồ Tát lập tức tìm tới để giải thoát cho người kia ra khỏi cái trạng huống khổ đau trong giờ phút đó.

Chúng ta đã biết rằng kinh Pháp Hoatính cách đại chúng,  nhưng giáo nghĩa cũng rất thâm sâu.  Nói như vậy có nghĩa là những câu kinh Pháp Hoa có thể hiểu theo tính cách đại chúng, nhưng cũng có thể hiểu được theo tính cách triết học sâu sắc.  Ví dụ với câu:  Nếu có người trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì người đó dù đi vào trong lửa cháy, lửa cũng không làm người đó cháy, tại vì uy lực của Bồ Tát rất lớn lao.  Đứng về phương diện bình dân mà nói, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì khỏi bị tai nạn về lửa, nhưng đứng về phương diện thực tập từ bi mà nói, khi mình có lòng thương ở trong trái tim thì lửa hận thù không cháy lên được, và mình không thấy nóng.  Bồ Tát Thích Quảng Đức khi ngồi xuống giữa ngã ba Phan đình Phùng, tưới dầu xăng lên người, quẹt lên que diêm, và Ngài đã ngồi yên trong lửa đỏ!  Đối với một người khác, chỉ cần phỏng một chút xíu ở tay là đã la trời la đất, nhưng ở đây lửa cháy toàn thân thể, Ngài vẫn ngồi rất yên, rất thẳng.  Nếu không có lòng thương, làm sao ngồi yên và thẳng được như vậy?  Cái biển lửa đó, đối với Bồ Tát, giống như một ao sen, rất là trong mát.  Có lòng thương thì tất cả mọi thứ đều trở thành tươi mát.  Điều này có thể thấy được trong đời sống hàng ngày của chúng ta.  Nếu có tình thương đối với người kia, thì dù có cực nhọc, chúng ta cũng không thấy cực nhọc, trái lại chúng ta lại tìm thấy niềm vui.  Trời rất lạnh và đêm rất khuya, nhưng nếu có một người bạn, một em bé đang bị thương ở bên ngoài, mà bị buộc ngồi ở trong nhà ấm, chúng ta sẽ thấy rất đau khổ.  Ngược lại, tuy trời lạnh cắt da, nhưng nhờ có tình thương, nên khi đi ra cứu giúp cho người đau khổ đó, ta cảm thấy sung sướng nhẹ nhàng hơn nhiều.  Đi vào lửa mà lửa không cháy được có nghĩa là như vậy.

Thầy Quảng Đức là một người tôi rất quen thân, vì ngày xưa tôi đã từng ở chung với thầy trong chùa Long Vĩnh.  Chùa Long Vĩnh có một bộ báo Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ bút, trong đó có nhiều bài nói về nguồn gốc của Phật giáo.  Thầy Long Vĩnh phải đi hành đạo nhiều nơi.  Ngày xưa thầy đã từng làm Kiểm tăng ở vùng Khánh Hòa, và sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại miền Nam.  Hồi đó tôi làm chủ bút tờ báo Liên Hoa.  Có những đêm tôi ngồi làm việc khuya, tự nhiên thấy sau gáy hơi âm ấm, thì ra thầy đi vào rất nhẹ bước, và để tỏ tình thương, thầy đặt lên gáy tôi một chiếc hôn nhè nhẹ, rất dễ thương.  Có nhiều khi chùa hết gạo, và vì các anh em ở trong chùa ít người biết cách làm trụ trì, cho nên nhiều khi tăng chúng đói.  Thầy đi làm Phật sự về là anh em được no đủ lại, cho nên mỗi lần thấy thầy về thì ai cũng mừng.  Đó là thầy Quảng Đức.  Hồi tự thiêu, thầy có để lại một số bài thơ, và ngôn từ của thầy không chứa đựng một chút bực bội hay căm thù nào cả.  Tự hiến mình cho lửa đỏ để mong Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính phủ bừng tỉnh, để đừng đàn áp Phật giáo nữa.  Chết, nhưng chết rất nhẹ nhàng, chết mà chết bằng thi ca.  Ngồi ở ngã tư Phan Đình Phùng, thầy đã ngồi rất thẳng, báo chí đã chụp hình, quay phim và chỉ bốn, năm tiếng đồng hồ sau là hình ảnh thầy ngồi trong lửa đỏ đã được phổ biến khắp cùng trên thế giới, làm cho thế giới chấn động.  Cố nhiên khi có niềm thương ở trong lòng rồi thì ngọn lửa đó không còn nóng nữa.  Có đức Quán Thế Âm trong lòng là mình có sự che chở.

Nếu bị nước lớn làm cho trôi thì xưng danh hiệu Bồ Tát này, liền được chỗ cạn. Tất cả những câu ở trong Kinh Phổ Môn đều phải được hiểu theo tinh thần đó.   Khi mình nghĩ tới Bồ Tát Quán Thế Âm và mình gọi tên của Ngài, thì tự nhiên cái chất liệu của từ bi, của thương yêu lập tức có mặt với mình, và có chất liệu đó rồi thì mình bớt khổ liền lập tứcChừng nào mình còn có chất liệu thương yêu ấy ở trong lòng, thì chừng đó mình sẽ còn không đau khổ.  Đây là điều mà mình có thể chứng thực được.

Chúng ta biết rằng trong giáo lý của đạo Bụt, thương yêu được làm bằng một chất liệu gọi là hiểu biết.  Khi hiểu biết thì không có sân hận oán thù.  Người kia sở dĩ như vậy là tại vì lý do này, lý do kia.  Người kia đã khổ, đã không có cơ hội để học, để hỏi là vì những điều kiện gia đình, điều kiện cha mẹ, điều kiện xã hội đã từng gây nội kết, cho nên người đó mới nói như vậy, làm như vậy.  Khi có hiểu biết rồi thì mình sẽ không khổ và không gây thêm đau khổ cho người đó.  Khi trong lòng có tình thương là ta có hiểu biết, và lúc đó ta sẽ hoặc ít khổ hoặc không khổ.

Ví dụ mình đang ở trong ngục thất hay trong trại học tập cải tạo.  Mình có thể có hận thù rất lớn đối với những người giam cầm mình.  Đồng thời có một người khác cũng cùng hoàn cảnh với mình, nhưng người đó có vẻ thanh thản, người đó có khả năng thở hít khí trời, ngồi thiền, và có khả năng mỉm cười với người cai ngục.  Người đó có đức Quán Thế Âm ở trong lòng.  Người đó hiểu được rằng, người cai tù đối xử với mình một cách tệ hại như vậy là vì ông ta là nạn nhân của sự giáo dục và tuyên truyền mà ông ta đã tiếp nhận, và ông ta đã thấy mình như một kẻ thù.  Cái nguyên nhân đưa tới vô minhhận thù đó, mình phải trông thấy, và khi thấy được rằng ông ta là nạn nhân của bao nhiêu sự tuyên truyền, lường gạt và ngu dốt đó, thì mình sẽ thương hại ông ta thay vì thù ghét ông ta.  Như vậy hai người cùng ở trong một hoàn cảnh của trại học tập cải tạo, mà một người nuôi hận thù còn một người nuôi tình thương.  Kết quả là người nuôi hận thù sẽ đau khổ hơn người nuôi tình thương gấp bội.  Người nuôi tình thươnghy vọng một ngày nào đó sẽ cảm hóa được người cai ngục, một ngày nào đó sẽ có thể nói được một câu, hay nhìn được một cái nhìn có thể chuyển hóa được người cai ngục.  Người nuôi hận thù thì không bao giờ có cơ hội làm được chuyện đó, và trong lòng thì luôn luôn đau khổ.  Thành ra nếu mình hiểu nghĩa chữ thương đúng như trong tinh thần của đạo Bụt thì mình biết rằng, hể có thương thì có hiểu, mà có hiểu thì có thể tha thứ được.  Có những đứa bé vì dại khờ, đã nói với cha mẹ những câu giống như là bất hiếu, nhưng cha mẹ vẫn không giận vì thấy chúng còn nhỏ quá.  Tất cả chúng ta trong thời thơ ấu, không ai tránh được sự dại dột đó.  Mỗi khi giận, ta thường nói những câu thiếu tình, thiếu nghĩa với cha mẹ, nhưng cha mẹ chúng ta luôn luôn tha thứ, là tại chúng ta còn nhỏ dại quá.

Như trong câu chuyện phim The Yearling, em bé thương con nai, nhưng khi con nai lớn lên, phá hoại hết mùa màng thì cha mẹ em buộc em phải bắn chết con nai ấy.  Em không bắn và rốt cuộc thì mùa màng bị phá hoại nhiều lần.  Vì vậy mà bà mẹ buộc lòng phải tự tay cầm súng bắn chết con nai!  Cảm động nhất là đoạn bà biết con trai mình sẽ rất đau khổ, nhưng bà biết nếu mình không bắn chết con nai thì cả nhà sẽ đói.  Trồng bắp hai ba mùa mà con nai, vì bản tính loài vật, đã phá hết.  Khi biết con nai của mình đã chết, em bé khóc, nổi giận lên và em đã nói một câu như không có một chút tình nghĩa nào hết với mẹ:  ỘI wish you were dead!Ợ Theo em thì ba mẹ em đã làm em khổ, ba mẹ đã giết đối tượng thương yêu của em nên em không thể nào hiểu, không thể nào còn thương ba mẹ được nữa.  Nhưng cha mẹ em không buồn giận vì biết con mình đang đau khổ đến cùng cực.  Nông trại của ông bà rất xa xóm làng nên ở đây em không có bạn, con nai là người bạn duy nhất mà em đã nuôi từ hồi nhỏ, cho nên giết con nai là làm cho em mất hết đối tượng tình thương, làm cho trái tim của em rớm máu.  Như vậy người kia có thể làm những điều dại dột, người kia có thể làm khổ mình bằng ngôn ngữ, hành động hay tư tưởng, nhưng nếu mình hiểu được thì mình sẽ không đau khổ, mình sẽ có khả năng tha thứ.  Và người có hiểu biết thì có thương yêu, nghĩa là có đức Quán Thế Âm trong lòng.  Mà khi đã có Ngài ở trong lòng rồi thì thế nào cũng cảm thấy nhẹ nhàng, ít khổ đau, tại vì đức Quán Âm là chất liệu cam lộ của tình thương, của sự mát mẻ thanh lương.

Trang 509:  Nếu chúng sanh nào có nhiều dâm dục quá mà thường cung kính thực tập, trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát, thì tính nhiều dâm dục sẽ được chuyển hóaNếu không hiểu kinh, nếu đọc kinh với những nhận biết thông thường, thì chúng ta sẽ không hiểu được những câu như thế này.  Tại sao khi trong người của mình có nhiều năng lượng về sinh lý mà niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì có thể chuyển hóa được năng lượng đó?  Thật ra thì cũng dễ hiểuChúng ta đã học rằng cái gọi là năng lượng sinh lý, sexual energy, chẳng qua chỉ là một loại năng lượngNăng lượng tiêu cực hay tích cực thì cũng chỉ là năng lượng mà thôi.  Chúng ta ai cũng có năng lượng cả.  Là người trẻ, lớn lên thế nào cũng có nhiều năng lượng, nếu không thì chúng ta làm sao học hỏi, làm việc, theo đuổi lý tưởng được?  Nhưng nếu ta không biết quản lý năng lượng thì những năng lượng ấy có thể đổ dồn về một phía, và nó sẽ bức bách ta.  Vì vậy vấn đề ở đây là phương cách quản lý năng lượng, đừng để cho năng lượng dồn về một phía tiêu cựcChúng ta phải sử dụng năng lượng để thực hiện những điều mà chúng ta cần thực hiện.  Chuyện học hỏi, chuyện tu tập, chuyện giúp đời, tất cả đều cần năng lượngNếu không làm những việc đó đúng mức thì chúng ta sẽ có dư thừa năng lượng, và năng lượng này sẽ đi về phía tạo nên nhu yếu dâm dục.  Nếu biết sử dụng thì năng lượng sẽ phục vụ chúng ta, phục vụ những người mà chúng ta muốn phục vụ.  Ngược lại nếu chúng ta không biết quản lý thì cái năng lượng đó sẽ dồn về phía sinh lý làm cho chúng ta bị bức bách.  Đó là đứng trên phương diện quản lý năng lượng của con người mà nói.

Đứng trên phương diện hiểu và thương, thì chúng ta thấy rằng cái hiểu và cái thương có thể mang đến cho chúng ta tinh thần trách nhiệm.  Nếu quả thật có hiểu và có thương thì chúng tatinh thần trách nhiệm rất lớn, và tinh thần này sẽ bảo vệ cho chúng taVấn đề dâm dục cũng như tất cả các vấn đề khác, nếu không phải thời, không đúng pháp, có thể gây ra đau khổ.  Khi hai người trẻ yêu nhau, họ muốn ngồi bên nhau, muốn gần gũi nhau, rồi đi đến chỗ hòa hợp giữa hai thân thể.  Đó là chuyện rất tự nhiên, không có gì lạ lùng hết.  Nhưng nếu có hiểu và có thương, thì họ sẽ có tinh thần trách nhiệm.  Họ biết rằng nếu không giữ gìn cho người mình thương, nếu có chuyện gì xảy ra trước khi làm đám cưới, thì sẽ có rất nhiều người đau khổ, trong đó có người mình thương, có gia đình cả hai bên, và có cả mình nữa.  Cho nên vì thương người đó mà mình phải bảo vệ cho người đó.  Cả hai người cùng phải giữ gìn cho nhau.

Trong truyện Kiều, ngày gia đình đi ăn cỗ, nàng Kiều tìm cách ở lại nhà để có dịp liên lạc với người yêu bên láng giềng.  Ruốt cuộc hai người được gặp nhau, hai người đã được uống trà, làm thơ với nhau, cắt tóc trộn với nhau và nhìn trăng thề nguyền cùng nhau.  Đó là những chuyện mà người thương nhau thường hay thực tập.  Sau khi Thúy Kiều chơi đàn thì chàng Kim muốn đi xa hơn cái ranh giới đã định cho hai người trước khi cưới nhau.  Thúy Kiều ngăn lại.  Cô nói rằng, nếu chúng ta đi xa hơn thì sự kính trọng lẫn nhau sẽ mất, và điều đó sẽ có hại cho tình yêu của chúng ta.  Khi Kiều nói lên câu đó với tâm trạng bình thản, thức tỉnh và ngọt ngào thì chàng Kim ngưng lại liền lập tức, và tự nhiên lòng thương mến, quý trọng của chàng đối với người con gái tăng lên gấp bội.  Đây là cái hiểu, hiểu rằng nếu mình không ngưng ở chỗ đó thì thương nhau trở thành hại nhau, mình làm cho hư nát cái tình yêu mà cả hai cùng trân quý.  Cho nên cái hiểu đưa đến cái thương, và cái thương này mới đích thật là thương, vì nó được làm bằng chất liệu của hiểu.  Cái thương này bảo vệ cho mình, cho người mình yêu, cho cha mẹ mình, cho thầy bạn mình.

Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là ta niệm sự hiểu biết, niệm sự thương yêu, nhờ đó mà năng lượng dâm dục sẽ biến thành năng lượng hiểu biết, năng lượng thương yêu.  Do đó mà tâm ta được điều phục và thân ta được hộ trì. Rất rõ ràng, không có gì khó hiểu cả.  Dầu người con trai đang bị người con gái thu hút như một mảnh nam châm, và người con gái cũng bị người con trai thu hút lại như thế, nhưng nếu những người ấy có cơ hội thực tập hiểu biết, thì họ sẽ thấy rất rõ được hiệu quả việc làm của họ, và họ sẽ biết rằng nếu khôngtinh thần trách nhiệm, nếu không kính trọng lẫn nhau thì người này sẽ làm cho người kia khổ và tất cả sẽ bị tan nát.  Cho nên giữ giới không phải là tuân theo những sự ràng buộc, những điều ngăn cấm, làm như vậy chưa phải là giữ giớiGiữ giớithực tập chánh niệm, giới mà không làm bằng chánh niệm thì giới đó chỉ là sự ràng buộc, cấm cản, khổ đau.  Giới thật được làm bằng chánh niệm, và chánh niệm đưa tới cái hiểu và cái thương, vì vậygiữ giới rất dễ.  Mình không muốn làm khổ người kia, không muốn làm khổ mình, không muốn làm khổ cộng đồng của mình, cho nên mình giữ giới.  Thương mà giữ giới chứ không phải vì bị bắt buộc mà giữ giới.  Có đức Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong lòng thì mình sẽ có rất nhiều hạnh phúc khi giữ giới.

Niệm đức Quán Âm sẽ đưa tới sự hiểu biết, lòng thương yêutinh thần trách nhiệm, nhờ vậy mà ta đối trị được với dâm tâm, và có khả năng chuyển hóa năng lượng dâm dục thành ra những năng lượng lành mạnh hơn.

Chúng ta đi xuống một dòng nữa:  Nếu những người nào có nhiều oán hận và nếu biết thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì sẽ được giải thoát ra khỏi sân hận. Khi hiểu được vấn đề đa dâm rồi thì ta sẽ hiểu được vấn đề đa sân.  Học đạo Bụt chúng ta biết rằng giận hờn là một ngọn lửa có thể đốt cháy tất cả mọi công trình của chúng taCông trình của chúng ta như là những khu rừng lớn, phải trồng trỉa, vun bón hàng chục năm, nhưng một đóm lửa giận hờn nhỏ, cũng có khả năng đốt thiêu rụi cả khu rừng.  Chúng ta biết rằng muốn xử lý cái giận, ta có thể thực tập chánh niệm để đưa Bồ Tát Quán Thế Âm vào lòng.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một thứ nước Cam lộ rất tươi mát, thanh lương, và nước đó có công năng dập tắt ngọn lửa hận thù trong tâm ta.  Có đức Quán Thế Âm Bồ Tát tức là có sự hiểu biết, có sự thương yêu, có tinh thần trách nhiệm, do đó khi niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì ta dịu xuống, ta sẽ không nói ra những câu nói có thể làm đổ vỡ đó, những câu nói có thể gây nội kết và tạo ra đau khổ dài dài cho những người chung quanh.

Ngu si thì cũng vậy.  Ngu si tức là thiếu hiểu biết.  Trong lúc ta niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm, ánh sáng của hiểu biết có dịp đi vào, nên dần dần ta bớt ngu si.  Trước đây chúng ta đã học rằng niệm đức Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ không bị lửa, bị nước làm hại, nay chúng ta lại học thêm được rằng niệm sức mạnh của Ngài, ta cũng sẽ không bị tham, sân, si làm hại.  Vì vậy cho nên kinh Pháp Hoa đi từ thấp lên cao, cũng giống như những bãi biển có cát, từ từ đi xuống sâu vào biển.  Cái tài năng của kinh Pháp Hoa là ở chỗ đó, tất cả mọi giới đều có thể hiểu được kinh Pháp Hoa.

Trong số những người niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm, có rất nhiều người nghĩ rằng niệm là để tránh khỏi những tai nạn từ bên ngoài đưa đến.  Họ không biết rằng những năng lượng tham dục, hận thù, và ngu si của mình là những tai nạn rất lớn do chính mình tạo ra cho mình.  Trong kinh Pháp Hoa, tham, sân, và si đã được diễn tả trong ba câu liên tiếp.  Đó là ba tai nạn căn bản của tất cả các tai nạn.

Chúng ta biết rằng nếu ta có một người thương, người đó có thể hoặc là mẹ, là cha, là thầy hay là bạn của ta, mỗi khi có vấn đề khó khăn, khổ đau, ta nhớ đến người đó, gọi tên người đó và ta thấy đỡ khổ.  Người đó chưa phải là một vị Bồ Tát nhưng khi hình bóng của người đó hiện ra trong trái tim của ta, hoặc khi nghe tên của người đó, ta đã thấy bớt khổ, huống hồ đây không phải là một người thường, đây là một người mà hạnh nguyện đã đi đến chỗ cao siêu, cho nên mỗi khi chúng ta tiếp xúc được với chất liệu của Quán Thế Âm, nghe tới danh hiệu của Ngài, thì phép lạ hiển hiện trong lòng ta, và nỗi khổ niềm đau của ta tan biến một cách rất mầu nhiệm.  Đây là một chuyện rất khoa học, không có gì là mê tín dị đoan.

Khi ta tạo dựng ra một trung tâm tu học như Làng Cây Phong, Làng Mai, hay Tu viện Kim Sơn, nếu chúng ta đã từng được sống ở đấy những giây phút hạnh phúc, đã từng tiếp xúc với những người an lạc, hiền lương, thì trung tâm đó trở thành một kinh nghiệm, một hình ảnh rất dễ thương trong tâm ta.  Dù sau này có đi đâu, có lạc lõng tới phương trời nào, thì mỗi khi nghe tên của trung tâm đó, hoặc thấy được hình ảnh của cảnh cũ người xưa, thì tuy là ta đang không ở tại đó mà tâm ta đã dịu lại.  Nghe tên trung tâm đó là ta hình dung được những cây thông, cây sồi, những khuôn mặt từ bi, và tâm ta thấy rất an lạc, vui mừngQuán Thế Âm Bồ Tát cũng vậy, Ngài là một hải đảo rất xanh tươi rất dịu hiền, nên mỗi khi chúng ta hình dung được Ngài, chúng ta nghe được tên Ngài, thì tự nhiên trong lòng ta thấy nhẹ nhàng, thoải mái, và những khổ đau của ta dịu bớt đi rất nhiều, như một phép lạ mầu nhiệmVì vậy niệm Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vấn đề mê tínTâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như mang hình ảnh bà mẹ dịu hiền trong tâm ta, mỗi khi nhớ tới là ta thấy êm dịu trong lòng.  Người nào mà ta thương yêutin cậy, đều có ảnh hưởng như vậy trên tâm của ta cả.

Bồ Tát Quán Thế Âm là ai?  Bồ Tát Quán Thế Âm là người thương, The person who loves, who knows how to love because she understands. Đây là một hình tượng, một nhân vật biểu hiện cho Hạnh môn, cho công dụng của kinh Pháp HoaBồ Tát Quán Thế Âm tới sau Bồ Tát Thường Bất Khinh, tới sau Bồ Tát Dược VươngDiệu ÂmBồ Tát Quán Thế Âm là một hình ảnh tuyệt diệu của sự thực tập, và chúng ta có thể học được, thực tập được những điều mà Bồ Tát thực tập:  Lắng tai nghe để hiểu và để có mặt.  Sự có mặt đó không phải là một sự có mặt tầm thường.  Sự có mặt đó có tính cách chớp nhoáng, ngay trong giây phút ấy, tại vì tâm ta đi rất nhanh.  Mỗi khi chúng ta niệm tưởng đến đức Quán Thế Âm thì Ngài có mặt ngay tại lúc đó, không chậm một giây phút nào cả.  Khi tâm ta niệm đức Quán Thế Âm, thì chất liệu Quán Thế Âm có mặt ngay.  Niệm ở đây là chánh niệm, là nhớ nghĩ, là tỉnh thức.  Niệm luôn luôn có đối tượng, ví dụ khi mình niệm hơi thở, hay mình niệm Bụt, thì hơi thở và Bụt là những đối tượng có mặt tức khắc.  — đây đối tượng là Quán Thế Âm.

Có thể nói rằng chúng ta ai cũng đã từng thương và cũng đã biết rằng thương không có nghĩa là chỉ ngồi đó để hưởng sự ngọt ngào.  Thương là một sự thực tập để đem lại niềm vui cho nhiều người, trong đó có chính bản thân ta.  Khi một người cần đến ta, thường thường ta tìm cách để đến với người đó.  Chúng ta có thể dùng điện thoại, dùng xe cộ, thư từ để có mặt với người đó.  Thấy người đó khổ là tự nhiên chúng ta muốn làm một cái gì để chứng tỏ sự có mặt của ta.  Vì mình là người thương, nên mình muốn làm việc đó.  Khi có ý hướng ấy thì tâm ta đã có chất liệu của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Ta cần làm cho chất liệu ấy lớn lên thôi.  Ta thấy khoảng cách giữa ta và đức Bồ Tát không quá lớn, tại ta cũng đã có hạt giống của thương yêu, của chăm sóc, của sự muốn có mặt.  Thương ai thì muốn có mặt với người đó khi người đó đau khổ.  Cho nên lắng tai nghe, tìm tới là những chất liệu có sẵn trong lòng của tất cả chúng taBồ Tát Quán Thế Âm thực hiện được cái tam muội gọi là Hiện Nhất Thiết Pháp Thân, cho nên Ngài có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, còn chúng ta thì chỉ có thể có mặt ở một nơi thôi.  Nhưng nếu quý vị biết thực tập thì quý vị cũng có thể có mặt ở nhiều nơi trong một lúc.  Một người đàn bà Việt-nam đảm đang cũng là một người đang thực tập hạnh Quán Thế Âm.  Một mặt mình muốn làm cho chồng có hạnh phúc, mặt khác mình muốn làm cho con hạnh phúc, dù chồng đang đi làm việc xa, dù con đang ở nội trú trong một trường đại học.  Rồi đến gia đình chồng.  Mình muốn cho mẹ chồng được no ấm đầy đủ, vì hạnh phúc này tạo ra hạnh phúc cho chồng mình và cho mình.  Vì vậy, những bà mẹ đó, tuy là người trần mắt thịt, nhưng nhìn cho kỹ thì ta thấy bà có rất nhiều cánh tay, tay này với sang bên Đông, tay kia với sang bên Tây.  Đàn ông cũng có thể thực tập như thế.  Có nhiều người biết lo cho hàng trăm người trong một lúc.  Họ muốn có mặt đồng thời ở nhiều nơi.  Đứng về phương diện hình thức mà nói thì ta chỉ có thể thấy được người đó ở một nơi thôi, nhưng trên thực tế thì người đó có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, và chúng ta phải có một máy chụp hình rất đặc biệt, mới có thể chụp được sự thực đó.  Thành ra phân biệt rằng chúng ta là người phàm, còn Bồ Tát là một vị thánh, và sự khác biệt giữa chúng taBồ Tát là một sự khác biệt tuyệt đối, là không đúng.  Bởi vì cái ước muốn, cái phương thức của chúng ta cũng giống như của Bồ Tát, nhưng tại sự thực tập của chúng ta chưa đến nơi đến chốn, thành ra mức độ thực hiện của chúng ta còn nhỏ hơn của Bồ Tát nhiều đấy thôi.  Sự thực thì tâm chúng ta có đủ các hạt giống đó.  Ai cũng muốn có mặt đồng thời ở khắp nơi để làm vơi nỗi khổ của những người mình thương, vì vậy cho nên phương pháp hiện thânphương pháp không phải chỉ có Bồ Tát Quán Thế Âm mới có thể làm, chúng ta ai cũng muốn thực tập và có khả năng làm được việc đó cả.

Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Bụt:  Bạch Thế Tôn, Bồ Tát Quán Thế Âm dạo chơi trong cõi ta bà như thế nào? Chữ dạo chơi này chúng ta đã học rồi.  Dạo chơi tức là không hấp tấp.  Bạch đức Thế Tôn, trong khi Bồ Tát Quán Thế Âm qua lại một cách thoải mái trong cõi ta bà, thì Bồ Tát thực tập việc hiện thân độ người như thế nào?  Bụt trả lời rằng: Khi cần hiện thân Bụt, thì Quán Âm Bồ Tát hiện thân Bụt, để đến với người cần mình. Nghĩ cho kỹ thì mình cũng làm được chuyện này trên một bình diện hạn hẹp hơn.  Mỗi khi mình ngồi uống trà trong tỉnh thức, người ta nhìn mình, thì người ta được độ.  Khi ta có uy nghi, an lạc, thì Bụt có mặt ở trong ta, người kia nhìn ta người kia cũng được chuyển hóa, và trở về với chánh niệm.  Điều đó ta làm được và làm được đến một mức độ nào đó.  Chiếc lá mùa Thu khi rơi xuống, nó cũng có thể rơi một cách rất thanh thản, như lượn múa trong không gian, và cũng thực hiện một hóa thânMùa Xuân, chiếc lá ở trên cành, ca hát và vẫy tay đón nhận ánh sáng, nó cũng có thể độ mình, độ một cách khác.  Cuối Thu, nó rơi xuống và độ mình một cách khác.  Khi chiếc lá đã nằm trên mặt đất, và chân mình dẫm lên, nó độ mình một cách khác nữa.  Chỉ cần mở mắt ra, nhìn cho sâu sắc là mình thấy được những hình thái hiện thân khác nhau của chiếc lá.  Ai nói rằng Bụt và Bồ Tát đã nhập diệt?  Chỉ cần mở mắt ra là thấy được Bụt và Bồ Tát ở ngay bên mình.

Bụt nói tiếp: Nếu cần hiện thân Duyên giác thì Bồ Tát hiện thân Duyên giácDuyên giác là người tu, sống một mình, thực tập quán chiếu về nhân duyên và có thể giác ngộNếu cần hiện thân Thanh văn, thì hiện thân Thanh văn.  Có những người cần một vị Thanh văn để tu học theo, họ chưa có khả năng hay chưa muốn gặp các vị Bồ TátVì vậy khi gặp một vị Thanh văn, ta đừng nói ông chỉ là người ưa pháp nhỏ thì mình sẽ mang tội.  Vì trong vị Thanh văn ấy có một hạt giống Pháp lớn đang sẵn sàng nẩy mầm.  Điều này ta phải thực tập một cách tinh chuyên.  Tiếp chuyện với các thầy Nam tông, với các thầy Bắc tông, với các Phật tử Tây tạng, ta phải cẩn thận, họ đang tu tập như vậy, có thể họ đang là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đừng chê họ tụng đọc như thế này, đốt nhang như thế kia.  Đôi khi hương họ đốt có mùi mình không ưa thích, nhưng có thể họ phải dùng loại hương ấy mới độ được người ở vùng ấy.

Nếu cần sử dụng thân của Phạm Vương, thì hiện thân Phạm Vương, nếu cần dùng thân Đế Thích thì dùng thân Đế Thích. Tiếp đó, ta thấy Bụt nêu ra một số các thân mà Bồ Tát Quán Thế Âm thường hóa hiện để độ người.  Trong đó có thân của vị Tiểu Vương, tức là một vị vua nhỏ như là Vua Tịnh Phạn [Suddhodana], hay thân của một vị trưởng giả, tức là một businessman, Bồ Tát Quán Thế Âm đôi khi hiện thân thành một nhà doanh thương.  Nói chuyện với nhà doanh thương, nếu ta thấy ông không bị kẹt vào danh lợi và quyền hành, thì ta nhận ra đó là Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiệnNếu cần dùng thân cư sĩ, Bồ Tát hiện thân cư sĩ.  Nhìn vào một vị cư sĩ, ta có thể thấy đó là đức Quán Thế Âm Bồ Tát.   Ta phải có thái độ cung kính đúng mức, dù ta đã là người xuất gia và lên tới bực vị Hoà Thượng.

Nếu cần phải hóa hiện ra thân một vị Tể tướng, một vị Bộ trưởng thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra làm Tể tướng, Bộ trưởng.  Nếu cần hiện thân một vị Bà la môn thì đức Quán Âm hiện ra Bà la mônNếu cần hiện ra thân khất sĩ, nữ khất sĩ, cận sự nam, cận sự nữ mới độ người được, thì Quán Thế Âm Bồ Tát hiện ra khất sĩ, khất sĩ nữ, cận sự nam, cận sự nữ để mà độ đời. Khi đọc những câu này, chúng ta thấy rất rõ là chúng ta không nên có mặc cảm tự tôn hay tự ti, tại vì dưới hình thức nào, với ngôi vị nào, chúng ta cũng có thể thực tập hạnh của đức Quán Thế Âm.  Chỉ cần có tình thương trong lòng thì khất sĩ cũng được, khất sĩ nữ cũng được, cư sĩ nam cũng được, cư sĩ nữ cũng được, em bé cũng được, tất cả mọi giới, nếu có tình thương là có thể độ đời.  Mang tâm trạng kỳ thị cao thấp, là chứng tỏ chưa có sự có mặt đích thực của chất liệu Quán Thế Âm trong tâm của chúng ta.

Nếu cần hiện thân phụ nữ thì hiện thân phụ nữ để thuyết pháp.  — các nước Đông Nam Á người ta thường hình dung đức Bồ Tát Quán Thế Âm như một phụ nữ.  Người phụ nữ diễn tả được tình thương dễ dàng hơn người nam, tại vì trong nền văn minh Khổng Mạnh người đàn ông có vẻ hơi khô khan.  Thương nhưng không nói ra, nghĩ rằng nói ra thì mất linh, nên chỉ để tình thương kín đáo trong tâm.  Vì vậy mà nhiều lúc đứa con nghi ngờ, không biết cha mình có thương mình thật không, nếu thương sao mà khuôn mặt lạnh như tiền như thế được?  Ngược lại, người phụ nữ được coi là giới biết biểu lộ tình thương.  Do đó, đứng về phương diện văn hóa mà xét, chúng ta hiểu được tại sao người Á Châu lại chọn lựa hình tướng của người phụ nữ để đại diện cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Trên phương diện hình thức, người phụ nữ diễn tả được tình thương của đức Quán Thế Âm hay hơn người nam giới.  Nam giới hãy cẩn thận, hãy quán chiếu, hãy học hỏi để biểu lộ tình thương của mình.

Nếu cần hình thức của một chú bé hay một cô bé thì đức Quán Thế Âm hiện ra một chú bé hay một cô bé để độ đời.  Nếu cần hóa thân làm loài Trời, loài Rồng, loài Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, loài nhân hay loài phi-nhân, để độ người, thì Bồ Tát liền hiện ra những hình thái đó. Nói tóm lại thì Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa hiện ra bất cứ một hình thái nào để cứu độ, và đôi khi những hình thái đó trông rất dễ sợ.

Tình thương có rất nhiều mặt, nhiều khi nó không hẳn phải là ngọt ngào, không hẳn phải là dịu dàng mà vẫn là tình thương.  Tại các chùa ở Việt-nam, ta thấy có ông Thiện, và ông Ác.  Ông Thiện thì khuôn mặt rất hiền, con nít ưa tới gần, nhưng ông ác thì mình ngán lắm.  Quán Âm Đại Sĩ nhiều khi hiện ra làm Diện Nhiên Vương, có khuôn mặt rất dữ, mắt trừng đổ lửa, tay chỉ chỏ dọa nạt.  Diện Nhiên Vương là một hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Vì muốn cho chúng sanh sợ mà đừng làm điều bậy nên Ngài trừng mắt dọa nạt.  Sự dọa nạt này, không bắt nguồn từ sự giận dữtrái lại đã phát sinh từ lòng thương không bến bờ.

— Việt-nam, trên con đường xe hơi đi từ Sàigòn lên Đà lạt, có một đoạn đi qua đèo rất nguy hiểm, nhiều xe hơi rơi xuống đèo, nhiều người đã bị mất mạng.  Tại đó, người ta có dựng lên một cái miếu để thờ các oan hồn.  Trong giới lái xe có những người có tu học, họ biết chỗ ấy là chỗ nguy hiểm.  Khi lái xe đến đó, tự nhiên họ phát khởi chánh niệm, và chỉ cần thực tập chánh niệm là họ đưa lại sự an toàn cho họ và cho hành khách trên xe.  Nhưng có những người lái xe không thực tập chánh niệm, họ nghĩ rằng nếu đi ngang qua đây mà không có sự cung kính thì có thể những vị thần hay những oan hồn sẽ làm cho họ mờ mắt, và xe sẽ rớt xuống đèo.  Có những người cứng đầu giống như những tay anh chị Cầu Muối, không tin ai hết, không kính nể ai cả, nhưng khi đi ngang qua ngọn đèo này, các vị đó cũng kính cẩn dỡ nón ra, không dám hỗn hào.  Đó là một hình thái hóa độ của đức Quán Thế Âm.  Ngài dọa rằng nếu anh không đàng hoàng thì anh sẽ rơi xuống đèo, nhờ vậy mà Ngài cứu được người đó và cứu luôn được những hành khách trên xe.  Tình thương có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức, đôi khi bên ngoài không có vẻ dịu dàng nhưng bên trong chứa một nội dung rất ngọt ngào.  Người Việt có câu:  Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi,  vì thương mà phải rầy rà.

Sang trang 514:  Này Bồ Tát Vô Tận Ý, vị Bồ Tát có tên là Quán Thế Âm đó đã thực hiện được bao nhiêu là công trình như tôi đã nói, đã sử dụng những hình thái khác nhau để rong chơi trong các cõi nước, mà độ thoát cho các loài chúng sanh, vì vậy quý vị nên cung kính cúng dường vị Bồ Tát đó. Trong những trường hợp nguy hiểm và có người hay hoảng sợ lo âu, Vị Bồ Tát đó thường ban cho họ một sự không sợ hãi, một sự an tâm, vì vậy mà vị Bồ Tát đó được dâng tặng một danh hiệu rất đẹp, đó là người thực tập Vô-úy-Thí.  Vô-úy-Thí là ban tặng cho món quà không sợ hãi.  Sợ là một tâm trạng làm cho chúng ta khổ đau, làm ta mất an lạc rất nhiều.  Sợ hiện tại, sợ tương lai, sợ người, sợ mình, sợ tất cả mọi thứ.  Sống trên đống lửa thì không thể nào có hạnh phúc được.  Sợ người đó không còn thương mình nữa, sợ người đó thù oán mình, sợ người đó đang tìm cách tiêu diệt mình, cái sợ đó làm cho mình mất hết niềm vui sống của chính mình.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một người có cái hạnh đem đến cho chúng ta món quà quí hóa đó, món quà Vô-úy.
Trong đạo Bụt có ba loại quà: Quà vật chất; quà phương pháp, ví dụ dạy cho ta một nghề thì đó là quà phương pháp, chỉ cho người ta cách tu học thì đó là quà pháp; và quà thứ ba là làm cho người ta không sợ.  Kỳ thực, khi biết niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm thì mình hết sợ.  Món quà này ta nhận được liền.  Bài thực tập Quay về nương tựa hải đảo tự thân, Chánh niệm là Bụt, Soi sáng xa gần…, cũng là một món quà Vô-úy.  Những lúc ta hoảng hốt, không biết phải làm gì, chúng ta bất an, thực tập bài đó là phương cách hay nhất mà chúng ta có thể làm trong giây phút ấy.  Không có cái gì hay hơn là trở về nương tựa, tức là thực tập quy y, dùng hơi thở vào, ra, đem lại cho mình sự an lạc, thanh tịnh, vì vậy, đó cũng là một món quà chứa đựng chất liệu vô úy.

Ví dụ ta đang ở trên một chiếc máy bay và máy bay đang gặp khó khăn, không biết có đáp xuống được an toàn hay không.  Lúc đó nếu ta cuống lên, la hét, khóc than, thì hành động ấy chỉ có thể làm hại cho mình, và làm cho người khác mất tinh thần.  Ngược lại nếu lúc đó ta biết thực tập quy y, thì tự nhiên ta đem lại cho tâm hồn ta sự vô úy, ta giúp cho ta thanh tịnh, giúp cho người khác thanh tịnh và trong trạng thái thanh tịnh đó, ta sáng suốt hơn, ta biết cần làm gì, và không được làm gì để cho tình trạng sáng sủa thêm ra.  Đó là những điều mà Bụt đã nói ra để trả lời câu hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ý.

Chúng ta có một bài tán đức Quán Thế Âm cần dịch ra tiếng Việt, tại vì bản chữ Nho hay lắm:

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài,
Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai,
Tường quang thước phá thiên sinh bịnh,
Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai,
Thúy liễu phất khai kim thế giới,
Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài,
Ngã kim khể thủ phần hương tán,
Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tàiTrí tuệ rộng và sâu, từ trí tuệ đó mà phát hiện một biện tài lớn.  Biện tài là khả năng có thể diễn tả được những cái khó diễn tả, có thể chinh phục những người khó chinh phục.  Trí tuệ là chất liệu ở bên dưới, còn biện tài là nghệ thuật ở bên trên.

Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai: Đứng một cách trang nghiêmtuyệt diệu trên các đợt sóng.  Đây là một hình ảnh rất đẹp mà các nghệ sĩ thường dùng để diễn tả đức Quán Thế Âm.  Đứng trên những làn sóng mà không bị những làn sóng kia xô đẩy, làm chìm đắmTuyệt trần ai có nghĩa là không dính một mảnh bụi nào, rất tinh khiết, nhẹ nhàng.  Tuy đứng trên sóng sinh tử nhưng không bị chìm đắm trong sóng sanh tử.

Tường quang thước phá thiên sinh bịnh: Tường quang là ánh sáng lành của đức Quán Thế Âm, có khả năng công phá và chữa lành được muôn ngàn bệnh tật.  Bệnh khổ là một gánh nặng của kiếp người, và Quán Thế Âm là người có thể dùng cái hào quang của mình mà trị liệu tất cả những bệnh khổ đó.

Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai: Nước cam lộ trượng trưng cho tình thương của Bồ Tát có thể làm tiêu tán những tai nạn bị dồn chứa trong vạn kiếp.  Chất liệu cam lộ, tiếng Phạn là Amrta, phiên âm là A-mật-ri-đa, có thể làm tiêu trừ tai họa muôn ngàn kiếp.

Thúy liễu phất khai kim thế giới: Với cành dương liễu xanh biếc, Bồ Tát phẩy một cái là mở ra một thế giới hoàng kim.  Phất nghĩa là phẩy, như trong chữ phất trần, phẩy bụi.  Thế giới hoàng kimthế giới của hạnh phúc.

Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài: Khi đóa sen hồng mọc vượt lên, thì Ngài làm xuất hiện một tòa lâu đài bằng ngọc.  Tòa lâu đài này là tòa lâu đài của giác ngộ, của thế giới cực lạc.  Người ta thường nói kim thế giới, ngọc lâu đài, nghĩa là thế giới vàng, lâu đài ngọc.

Ngã kim khể thủ phần hương tán: Giờ đây con cúi đầu xuống, đốt hươngca ngợi Ngài.  Phần hương tức là đốt hương, tán là ca ngợi.

Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai: Xin quay mặt về phía nhân gianhiển hiện pháp thân của Ngài để chúng con được thấy.  Xin hướng về cõi người và hiện rõ chân thân của Ngài cho chúng con thấy.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bây giờ hiểu nghĩa rồi, ta hãy cố làm một bài dịch cho hay, và nếu có thể thì đặt thành nhạc luôn[11] .

Một bài tán khác cũng đã được dịch và đặt thành nhạc mà lát nữa đây Sư cô Bảo Nghiêm sẽ hát cho chúng ta nghe.  Đây là một bài Thi tán mà tôi được nghe từ hồi còn nhỏ và rất thích.  Mỗi lần nghe là cảm động, nhưng chưa bao giờ có dịp dịch ra quốc ngữ.  Mùa hè năm rồi, có Sư chú Nguyện Hải làm thị giả, ở Cốc Ngồi yên.  Thầy trò có được vài phút rãnh rỗi, tôi ngồi trên võng và lần đầu tiên dịch bài đó ra tiếng Việt.  Nguyên văn bài tán chữ Hán là:

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn,
Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn,
Dương chi nhất đích chân cam lộ,
Tán tác sơn hà đại địa Xuân.

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn: Biển động, và tiếng hải triều vang dội thành ra kinh Phổ Môn, mở rộng ra một cánh cửa để mọi người có cơ hội hiểu biết Pháp mầu.  Câu này rất hùng.

Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn: — giữa chín bông sen kia, lý tức là ở giữa, ở trong lòng, xuất hiện một em bé.  Em bé ở đây tức là sự trinh nguyên, là cái sơ tâm.  Một hình ảnh của sự giải thoát, sự giác ngộ, sự không lo lắng, không u sầuHình ảnh em bé được sử dụng trong nhiều truyền thống.  Đạo Bụt nói rằng khi chúng ta được giải thoát hay khi chúng ta sinh sang cõi cực lạc, thì chúng ta sẽ biến thành một em bé, và được thai nghén trong một bông sen.  Khi bông sen nở ra thì chúng ta lập tức thấy được Bụt A Di ĐàHoa khai kiến Phật có nghĩa là vậy.  Trong Cơ Đốc giáo cũng nói tương tự:  Nếu quý vị không trở lại thành một em bé, thì quý vị không thể nào đi vào nước Chúa. Vì vậy hình ảnh của em bé là hình ảnh của một sự sống mới, một sự chuyển hóa mới.  Người nào tu học đàng hoàng thì cũng đều biến thành em bé, sống an lạc và không có gì để lo lắng. ỘĐồng chơn nhập đạoỢ là đi tu từ hồi tuổi còn nhỏ.  Hai câu này là những hình ảnh rất đẹp.  Thứ nhất là tiếng hải triều làm ra pháp âm, thứ hai là hình ảnh của em bé ở trong bông hoa sen, không có gì đẹp bằng.

Dương chi nhất đích chân cam lộDương chi là nhành dương liễu, nhất đích là một giọt, chân cam lộ là đích thực nước cam lộ.  Một giọt nước cam lộ đích thực ở trên nhành dương liễu của Bồ Tát.

Tán tác sơn hà đại địa Xuân: Tán tức là rải lên, tác là làm thành, sơn hà là sông núi hay đất nước, đại địa là trái đất, the Great Earth.  Chỉ cần một giọt nước trên nhành dương liễu của Bồ Tát thôi, cũng đủ tạo ra một mùa Xuân cho trái đất và cho sông núi.

Bài Thi tán này hay quá làm cho ta có mặc cảm là nếu dịch ra tiếng Việt, thì không thể nào hay bằng.  Tuy vậy hôm ngồi ở Cốc Ngồi Yên, thầy trò đã cống hiến được một bản dịch sau đây, khá nghiêm chỉnh:

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng,
Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen.
Cam lồ một giọt tưới lên,
Xuân về trên khắp mọi miền núi sông,
Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm.

Hơi thơ tuy không được mạnh bằng nguyên bản, nhưng những hình ảnh của bài thơ đều đã có thể diễn tả được.

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng: Kinh Phổ Môn vọng lại từ tiếng hải triều đang dâng lên.

Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen: Một em bé đột nhiên xuất hiện trong lòng bông sen.

Cam lồ một giọt tưới lên: Bài dịch thiếu mất chữ dương-chi.  Đúng ra thì phải dịch là Cam lồ từ nhành dương liễu một giọt tưới lên, nhưng như vậy thì dài quá, thơ lục bát mình chỉ được dùng có sáu chữ thôi.  Nếu nói Cam lồ giọt liễu tưới lên thì cũng được, nhưng lại thiếu mất chữ một.  Chữ một rất quan trọng, chỉ cần một giọt thôi cũng đủ làm cho Xuân về trên khắp mọi miền núi sông.

Bây giờ xin mời Sư Cô Bảo Nghiêm lên hát cho đại chúng nghe…

Trước đây chúng ta đã nói đến danh từ Vô úy thí [Abhaya-d€na], một trong những món quà mà ta có thể dâng tặng cho người khác: Món quà giúp họ đừng sợ hãi.  Chúng ta sợ nhiều thứ lắm:  Sợ sanh, lão, bệnh, tử, sợ những sự bất trắc, chúng ta sợ cuộc đời, đôi khi chúng ta sợ chính bản thân của chúng ta nữa.   Vì vậy thực tập để có sự vô úy, thực tập để có sự không sợ là một pháp thực tập rất sâu sắc.  Khi đạt tới vô úy chúng ta mới có khả năng hiến tặng người khác sự không sợ hãi đó.  Đây là một pháp môn đặc biệt của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Người tu nào cũng phải thực tập cả, để khi đứng trước những thứ làm cho người thường run sợ, người tu có đủ khả năng vượt thoát sự sợ hãi, có sự vô úy thiết lập thân tâm vững chãi trong giây phút hiện tại.

Sau khi được nghe Bụt nói như vậy rồi thì Bồ Tát Vô Tận Ý rất lấy làm cảm phụcBồ Tát nói: Bạch đức Thế Tôn, bây giờ con phải cúng dường Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát liền đứng dậy, tháo chuỗi ngọc rất giá trị đang đeo ở cổ, trao lên cho Bồ Tát Quán Thế Âm và nói rằng: Xin Bồ Tát nhận chuỗi ngọc này do tôi cúng dường.  Lúc bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận.  Chúng ta thấy hình ảnh hiến tặng viên ngọc đã được sử dụng trong kinh Duy Ma.  — đây, kinh Pháp Hoa sử dụng lại hình ảnh đó.  Nên biết rằng Bồ Tát Vô Tận Ý không phải là một người xuất gia, vì nếu xuất gia thì đâu có đeo ngọc ngà châu báu như vậy.  Bồ Tát Quán Thế Âm từ chối là vì Ngài tự hỏi mình nhận chuỗi ngọc này để làm gì?  Lúc đó Bồ Tát Vô Tận Ý mới khẩn khoản: Xin nhân-giả thương chúng tôichấp nhận món quà cúng dường này.  Thấy vậy, Bụt liền can thiệp vào.  Ngài nói với Bồ Tát Quán Thế Âm: Giờ đây Bồ Tát hãy đem lòng thương Bồ Tát Vô Tận Ý và tất cả bốn chúng có mặt ở đây, trong đó gồm có Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân và phi nhân  v.v… mà chấp nhận chuỗi ngọc này. Tấm lòng từ bi đó không nên chỉ hướng về một người, mà hướng về tất cả đại chúng.  Đây là một sự thực tậptính cách tập thể.  Sự cúng dường này không phải từ một mình Bồ Tát Vô Tận Ý mà là từ tất cả đại chúng có mặt trong Pháp hội, cho nên chấp nhậnchấp nhận cho cả đại chúng, và đó là điều mà Bụt đã nói với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Bụt đã không nói: hãy thương Vô Tận Ýchấp nhận.  Bụt nói hãy thương Vô Tận Ý và tất cả những người có mặt ở đây.  Chúng ta phải để ý đến những chi tiết như vậy trong kinh.

Trang 515: Lúc bấy giờ đức Bồ Tát Quán Thế Âm, vì thương tất cả bốn chúng cho nên chấp nhận chuỗi ngọc.  Đây là lần thứ hai kinh lặp lại cái ý đại chúng cúng dường đó.

Sau khi chấp nhận lễ vật, Bồ Tát chia làm hai phần, một phần dâng lên cúng dường Bụt Thích Ca, một phần dâng lên cúng dường Bụt Đa Bảo.  Tích môn và Bản môn đều có mặt như nhau, một lần.  Có Tích môn là có Bản môn, có Bản môn là có Tích môn.  Đó là cách tu tập của chúng ta, không phải Bản môn và Tích môn là hai phần tách rời.  Mình không thể nói rằng tôi chỉ muốn theo Bản môn, nói vậy thì hỏng, tại vì không có Tích môn thì sẽ không có Bản môn.  Ngược lại nếu loại bỏ Bản môn thì cũng sẽ không có Tích môn.  Vì vậy chia chuỗi ngọc ra làm hai phần để cúng dường Bản môn do Bụt Đa Bảo đại diện, và cúng dường Bụt Thích Ca tượng trưng cho Tích môn, đó là để ý tới cả hai bình diện của sự sống.  Tu học cũng vậy, mình phải để thì giờ cho cả hai phía.  Tuy rằng mình đi vào thế giới của Hoa Nghiêm, của ánh sáng, nhưng mình vẫn không thể bỏ thế giới của hiện tượng, thế giới của nồi niêu, của vườn tược, của quét dọn, mình phải chịu trách nhiệm về cả hai phía.

Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta nên biết rằng các vị Bồ Tát đều có thần lực lớn.  Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Phổ Hiền v.v… đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng kiếp trước.  Nhưng vì xuất hiện trong môn thứ ba tức là Hạnh môn, cho nên vẫn hóa hiện làm người đang còn hành đạo, và khi gặp một vị Bụt, họ vẫn cung kính đảnh lễ, tuy chính bản thân họ đã là một vị Bụt.  Sự kiện Bản môn xuất hiện trong Tích môn rất quan trọng, và cái diệu dụng mà mình thấy là Hạnh môn.  Các vị Bồ Tát ta gặp trong kinh ở đây đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng vô biên kiếp trước, nhưng đứng trước Bụt Thích Ca thì vẫn đóng vai trò của người học trò, của nhà hành đạo.  Quí vị phải để ý đến chi tiết này.  Cũng như trong lễ truyền đăng của chúng ta, khi một vị giáo thọ đã được tiếp nhận bài kệ và cây đèn rồi, trước khi vị đó đăng đàn thuyết pháp, thì tất cả mọi người trong đại chúng, kể cả các vị tôn túc, các vị trưởng thượng, đều đứng dậy cung kính hướng về vị giáo thọ mới để chào đón.  Không phải vì đây là vị giáo thọ duy nhứt, nhưng tất cả các vị kia đều đứng dậy để chứng tỏ rằng đây là một vị giáo thọ mà tất cả mọi giới thiên, nhân đều phải cung kính, tại vì vị này mang trong người một sứ mạng truyền bá chánh pháp.  Các vị Bồ Tát như Phổ Hiền, Quán Âm, Thường Bất Khinh đã thành Bụt từ lâu nhưng đối với Bụt Thích Ca, họ vẫn kính cẩn cúi lạy, vẫn hóa hiện như là người đang còn hành đạoNếu không thấy được điều đó thì chúng ta chưa thấy được rằng đây là cái Hạnh môn, được sử dụng để nối lại cảnh giới Bản môn và Tích môn.

Ta biết rằng Tông Thiên Thaiđại biểu là thầy Trí Giả, đã nghiên cứu kinh Pháp Hoa và đã chia Pháp Hoa ra làm hai môn, Tích môn và Bản môn.  Nhưng trong khóa học này chúng ta thấy sự phân chia đó không được hoàn hảo, vì vậy chúng ta đã chia lại và cho rằng ngoài Tích môn và Bản môn, còn có một môn thứ ba gọi là Hạnh môn.  Bản môn thuộc về Thể, Tích môn thuộc về Tướng, và Hạnh môn thuộc về Dụng.  Hạnh môn không phải là một danh từ mới, nó đã được dùng nhiều lần trong kinh điển đạo Bụt.  Ví dụ trong bài Sám Qui Mạng mà các Thiền Viện Việt-nam tụng đọc buổi sáng, có câu:

Khai lục độ chi Hạnh môn,
Việt tam kỳ chi kiếp hải.

Hạnh môn ở đây có nghĩa là cánh cửa của hạnh phúc.  Do đó trong kinh Pháp Hoa, ngoài hai cánh cửa của Bản môn và của Tích môn, ta thêm vào một cánh cửa thứ ba là cánh cửa Hạnh môn, cánh cửa của hành động.  Tất cả các vị Bồ Tát xuất hiện trong kinh Pháp Hoa, đều tượng trưng cho cánh cửa của hành động.  Chúng ta phải nhận diện cho được các vị Bồ Tát đó ở trong kinh Pháp Hoa.

Sau khi đã trả lời cho Bồ Tát Vô Tận Ý, Bụt Thích Ca kết luận:  Này quí vị, tôi vừa nói cho quí vị nghe về sự rong chơi của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thế giới ta bà của chúng ta, và phân tích cái thần lực cũng như cái tự do của Ngài.  Đó là câu kết luận của Bụt trong phẩm này.

Phần ta vừa đọc là phần trường hàng, tức là văn xuôi.  Nhưng chúng ta đã biết rằng ở trong các kinh phần trường hàng luôn luôn xuất hiện sau phần trùng tụng.

Bây giờ chúng ta đọc phần trùng tụng của kinh, bản chữ Việt lẫn chữ Hán.  Mấy câu đầu có lẽ mới được thêm vào khi có phần trường hàng:

Thế Tôn muôn vẻ đẹp Thế Tôn diệu tướng cụ
Con xin hỏi lại Người Ngã kim trùng vấn bỉ
Bồ Tát kia vì sao Phật tửnhân duyên
Tên là Quán Thế Âm? Danh vi Quán Thế Âm?

Bậc diệu tướng từ tôn Cụ Túc Diệu Tướng Tôn
Trả lời Vô Tận Ý: Kệ đáp Vô Tận Ý:
hạnh nguyện Quán Âm Nhữ thính Quán Âm hạnh
Dáp ứng được muôn nơi. Thiện ứng chư phương sở.

Phương sở là những địa phương khác nhau.  Hành động của Quán Âm gọi là Quán Âm hạnh, đáp ứng được với tất cả các phương sở, không phải chỉ đáp ứng được nhu yếu của một nơi, mà đáp ứng được nhu yếu của tất cả mọi nơi.

Lời thề rộng như biển Hoằng thệ thâm như hải
Vô lượng kiếp qua rồi Lịch kiếp bất tư nghị
Đã theo ngàn muôn Bụt Thị đa thiên ức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh. Phát đại thanh tịnh nguyện.

Lời nguyền của Bồ Tát này sâu như biển cả, tại vì Ngài đã trải qua vô lượng kiếp, đã gần gũi học hỏi với muôn triệu vị Bụt và đã phát đại nguyện độ đời rất thanh tịnh.

Đây nói sơ lược thôi: Ngã vị nhữ lược thuyết:
Ai nghe danh thấy hình Văn danh cập kiến thân
Mà tâm sanh chánh niệm Tâm niệm bất không quá
Thì thoát khổ mọi cõi. Năng diệt chư hữu khổ.

Chữ hữu ở đây có nghĩa là cõi nước, như trong danh từ tam hữuba cõi, là Dục, Sắc và Vô sắc.  Nếu người nào nghe được danh hiệu Quán Thế Âm hoặc thấy được hình dáng Ngài mà tâm hồn không lơ là, có một chút chánh niệm, có một chút chú ý thì đã có khả năng diệt trừ những đau khổ của các cõi.  Không quá có nghĩa  là đi qua một cách luống uổng, không lợi ích gì.  Ví dụ khi đi qua rừng trầm hương mà mình không thấy được cây trầm nào hết thì gọi là không quá.

Nếu có ai ác ý Giả sử hưng hại ý
Xô vào hầm lửa lớn Thôi lạc đại hỏa khanh
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hầm lửa biến hồ sen.  Hỏa khanh biến thành trì.

Hỏa khanh là hầm lửa, trì là cái ao, cái hồ.  Nếu ai có ác ý xô mình xuống một hầm lửa, thì nhờ niệm lực Quán Thế Âm, hầm lửa đó tức khắc biến thành một hồ sen.  Chúng ta nên biết rằng con người nhiều khi sống trong hầm lửa, ngồi trên đống than hồng, ngọn lửa của phiền não, của tham sân đốt cháy trong lòng, không khác gì ta đang ngồi trong hầm lửa.  Nếu có chất liệu của tình thương ở trong trái tim thì tất cả những ngọn lửa đó đều tắt, và tự nhiên mình thấy được mát mẻ như đang ngâm mình trong một hồ sen.  Chuyện này nhiều người đã được thực chứngVì vậy mà chỉ cần niệm Quán Thế Âm, chỉ cần làm sao để tình thương có mặt trong trái tim của ta, là hầm lửa trong ta sẽ tắt ngấm, và tự nhiên ta được bơi lội trong một hồ sen.  Niệm bỉ Quan Âm lực, Niệm ở đây là chánh niệm, tức là nhớ tưởng tới, đem sự có mặt của Quán Thế Âm [sự có mặt của tình thương] về trong trái tim ta.  Đó là Pháp niệm Bụt.  Quán Âm lực là sức mạnh, là thần lực của đức Quán Thế Âm, The power of Mindfulness.  Khi tâm của mình thực hiện chánh niệm về Quán Thế Âm, khi mình đã bắt được làn sóng đó, thì tự nhiên có sự có mặt của năng lượng Quán Thế Âm trong tâm mình.  Chánh niệm là một sức mạnh rất lớn cho nên mình gọi là Niệm lực.  Do đó Niệm bỉ Quan Âm lực nghĩa là có chánh niệm về cái thần lực của đức Quán Thế Âm, mà mình đã dịch đơn giản là dùng sức mạnh Quán Âm.

Đang trôi giạt đại dương Hoặc phiêu lưu cự hải
Gặp nạn Rồng, Quỷ, Cá Long ngư chư quỷ nạn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Sóng gió không nhận chìmBa lãng bất năng một.

Nếu bị trôi giạt trong biển cả và nếu có xảy ra những tai nạn lớn như các loài rồng, quỉ, cá mập làm hại, và nếu chúng ta dùng niệm lực Quán Thế Âm thì sóng gió sẽ không làm ta chìm đắm.  Điều này cũng có thật, tại vì nếu hoảng sợ thì chính chúng ta tự làm đắm chiếc thuyền của chúng ta.  Còn nếu an tĩnh, có định lực thì chúng ta biết nên làm gì và không nên làm gì, cho nên sóng gió không làm đắm thuyền của chúng ta được.

Đứng chóp núi Tu Di. Hoặc tại Tu Di phong
Bị người ta xô ngã Vi nhơn sở thôi đọa
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Như mặt trời trên không.        Như nhật hư không trú.
Đây là một hình ảnh rất đẹp.  Nếu ta đứng ở đỉnh núi Tu Di mà có một người đứng sau lưng, xô chúng ta ngã xuống, thì nguy hiểm không cùng.  Nhưng nếu dùng niệm lực Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ đứng lơ lửng trong hư không như là mặt trời.  Như Nhật hư không trú, đó là một hình ảnh rất tuyệt vời, không có gì động tới mình được, mình không bị sa ngã, rớt rụng được.  Khi có tình thương ở trong trái tim rồi thì dù mình đang ở vào tình trạng khó khăn giống như đứng ở đỉnh núi Tu Di, và bị người khác dẫn dụ, lôi kéo, xô đẩy vào vực thẳm, vào đường tội lỗi, thì mình cũng sẽ vững chãi như mặt trời trong hư không, chẳng hề bị lay chuyển, sa ngã.  Có một năm làm thiệp chúc Tết, Làng Mai đã dùng năm chữ Như Nhật Hư Không Trú để chúc mừng năm mới cho mọi người.

Bị người dữ đuổi chạy Hoặc bị ác nhân trục
Rơi xuống núi Kim Cương Đọa lạc Kim Cang sơn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Không hao một mảy lông. Bất năng tổn nhất mao.

Bị oán tặc vây hãm Hoặc bị oán tặc nhiễu
Cầm đao thương sát hại Các chấp đao gia hại
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán tặc thấy thương tình. Hàm tức khởi từ tâm.

Nếu bị những oán tặc vây hãm, cầm dao, cầm kiếm định làm hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả đều phát khởi lòng thương.

Bị khổ nạn vua quan Hoặc tao vương nạn khổ
Sắp sửa bị gia hình Lâm hình dục thọ chung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đao kiếm gãy từng khúc. Đao tầm đoạn đoạn hoại.

Nếu bị chính quyền bắt bớ một cách oan ức và đem ra hành hình, mà dùng niệm lực Quán Âm, thì quan quân sẽ không xử trảm mình được, và lúc đó đao kiếm sẽ gãy ra từng khúc.

Nơi tù ngục xiềng xích Hoặc tù cấm già tỏa
Chân tay bị gông cùm Thủ túc bị nữu giới
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Được tháo gỡ tự doThích nhiên đắc giải thoát.

Nếu bị bắt, bị tra tấn, bị tù đày mà biết dùng niệm lực Quán Âm thì sẽ tháo gỡ được những thứ đó và sẽ được giải thoát, tự do.

Gặp thuốc độc, trù, ếm Chú trớ chư độc dược
Nguy hại đến thân mình Sở dục hại thân giả
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Người gây lại gánh chịu. Hoàn trước ư bổn nhơn.

Người ta dùng thuốc độc, dùng những phép trù, phép ếm để mong hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Âm thì những thứ độc dược đó trở lại làm hại người chủ xướng.  Đây là một đoạn kinh mà khi đọc tới tôi không thích lắm.  Cố nhiên khi mình có ác tâm thì chính mình sẽ là người phải gánh chịu cái ác tâm đó.  Có ác tâm thì khi chưa làm, trong người mình đã bị các độc tố tham sân si làm cho đau khổ rồi.  Khi đã làm, thì cố nhiên gây nhân nào sẽ chịu quả đó.  Nhưng đứng trên phương diện từ bi mà nói thì khi niệm Quán Thế Âm, mình có lòng thương ở trong trái tim của mình, thì mình chỉ muốn bản thân mình thoát khỏi cái nạn đó thôi, chứ mình không muốn thuốc độc hay những phép trù ếm trở lại làm hại tác giảVì vậy tôi nghĩ mình nên chữa lại đoạn kinh này.  Đã đành rằng hại nhân thì nhân hại, đó là theo đúng luật nhân quả, nhưng nếu niệm Quán Thế Âm thì lòng từ của Quán Thế Âm sẽ cứu mình và cứu luôn cả người đó, làm cho họ mở mắt ra, để lần sau họ không còn làm như vậy nữa.

Gặp La Sát hung dữ Hoặc ngộ ác La Sát
Rồng độc và quỷ ác Độc long chư quỷ đẳng
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hết dám làm hại ta. Thời tất bất cảm hại.

Gặp ác thú vây quanh Nhược ác thú vi nhiễu
Nanh vuốt thật hãi hùng Lợi nha trảo khả bố
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều vội vàng bỏ chạy. Tật tẩu vô biên phương.

Rắn độc và bò cạp Ngoan xà cập phúc yết
Lửa khói un hơi độc Khí độc yên hỏa nhiên
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Theo tiếng tự lui về. Tầm thanh tự hồi khứ.

Những loài rắn độc và bò cạp, những hơi độc, chất khói xuất hiện để hại mình, khi niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả những thứ đó đều nghe theo tiếng niệm và tự trở về nơi xuất xứ của chúng.

Sấm sét, mây, điện, chớp Vân lôi cổ xiết điện
Mưa đá tuôn xối xả Giáng bạc chú đại vũ
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều kịp thời tiêu tánỨng thời đắc tiêu tán.

Đây là phần nói về những tai nạn do thiên nhiên gây ra.  Sấm, sét, lụt lội, mưa đá, bão bùng.  Khi những thứ đó xuất hiện và nếu mình an trú trong niệm lực Quán Thế Âm thì tâm ta an tĩnh, đạt được sự vô úy, và những thứ đó sẽ kịp thời tiêu tán, không làm ta sợ hãi nữa.

Chúng sanh bị khốn ách Chúng sanh bị khổn ách
Vô lượng khổ bức thân Vô lượng khổ bức thân
Trí lực mầu Quán Âm Quán Âm diệu trí lực
Cứu đời muôn vạn cách. Năng cứu thế gian khổ.

Chúng sanh bị muôn vàn những khổ ách, và những khổ ách đó thường trực bức bách hình hài của mình, nhưng trí lực mầu nhiệm của đức Quán Thế Âm có thể cứu khổ được cho cả cõi đời.

Trí phương tiện quảng đại Cụ túc thần thông lực
Đầy đủ sức thần thông Quảng tu trí phương tiện
Mười phương trong các cõi Thập phương chư quốc độ
Không đâu không hiện thân. Vô sát bất hiện thân.

Quán Thế Âm đã thực hiện được tam muội Hiện-nhất-thiết pháp-thân, với trí tuệ rất sâu sắc, với phương tiện rất rộng rãi, cho nên ở tất cả các cõi trong mười phương thế giới, không có cõi nào mà Ngài lại không hiện thân.  Sát ở đây nghĩa là cõi.

Những nẻo về xấu ác Chủng chủng chư ác thú
Địa ngục, quỷ, súc sinh Địa ngục, quỷ, súc sanh
Khổ sanh, lão, bệnh, tử Sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Cũng từ từ dứt sạch. Dĩ tiệm tất linh diệt.

Chủng chủng nghĩa là nhiều loại khác nhau; chư ác thú là những nẻo đường ác độc, tức là những đường đưa về địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.  Ác là dữ, thú không phải là loài vật mà là những đường đi, những nẻo về.  Trong ý thức của mình có những nẻo đi và đường về rất là vực thẳm, mà cũng có những nẻo về rất thênh thang.  Không phải chỉ dùng hai chân mới đi được, mình có thể đi bằng cái tâm của mình. Nếu không được điều phụchộ trì, thì tâm mình thường dẫn mình đi theo con đường địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sanh.  Đi về nẻo của Thiên, Nhân, A-tu-la thì đỡ hơn. Dĩ tiệm tất linh diệt, tiệm là từ từ; linh diệt là làm cho nó mất đi.  Như vậy, khi niệm và đưa hình bóng của Quán Thế Âm ngự trong trái tim mình, thì tự nhiên những nẻo về tối tăm của tâm sẽ tiêu tan từ từ, và ánh sáng chánh niệm sẽ mở cho chúng ta những con đường quang đãngChúng ta nên biết rằng tâm của chúng ta nhiều khi dong ruổi trong những nẻo đường rất hôn mê, rất đen tối.  Có ý muốn tự tử, hay có ý muốn giúp người, đó đều là những nẻo về của ý.  Niệm Quán Thế Âm là một trong những phương pháp điều phụchộ trì tâm, để tâm ta đừng đi về những nẻo đường tăm tối như vậy. Niệm Quán Âm một thời gian, từ từ những nẻo về tăm tối đó của tâm ý sẽ dứt sạch, đó gọi là dĩ tiệm tất linh diệt.   Đây là một phương pháp chữa trị rất hữu hiệu của khoa tâm lý trị liệu.

Quán Chân, Chân quán,
quán Thanh Tịnh thanh tịnh quán
Quán Trí Tuệ rộng lớn Quảng đại Trí Tuệ quán
Quán Bi và quán Từ Bi quán cập Từ quán
Thường nguyện, thường Thường nguyện thường
chiêm ngưỡngchiêm ngưỡng.

Đây là năm phép Quán có liên hệ đến danh từ Quán Thế Âm.  Niệm Quán Thế Âm đúng theo phương pháp chính thống, thì lúc niệm ta phải thực tập năm phép quán nói trên.

Chân quán tức là quán về sự thật, nhìn rõ để thấy được sự thật, không bị vọng tưởng chi phối, không bị những cái vỏ, cái hình thái dối gạt bên ngoài làm cho mình mờ mắt.  Dùng cặp mắt quán chiếu để thấy được bản chất của sự vật thì gọi là quán chân.

Quán thanh tịnh là phép quán có thể mang lại cho mình sự bình lặng, sự trong sáng của tâm hồn.  Nó chuyển hóa, lấy đi những hắc ám, tối tăm và bụi bặm của tâm hồn thì gọi là quán thanh tịnh.
Quảng đại trí tuệ quán tức là quán về trí tuệ lớn [Mah€prajự€p€ramit€] nghĩa là quán về Bát Nhã Ba La Mật.  — đây có nghĩa là quán về Không [ệũnyat€]. Mah€prajự€ là Đại Bát Nhã.  Quảng đại là đại; trí tuệBát Nhã, cho nên Quảng đại trí tuệ quán là quán về Không.

Bi quán cập Từ quán.  Bi tiếng Phạn là KaruẾ€, Từ  là Maitrĩ. Đó là bản chất của Quán Thế Âm.   Khi ta niệm Quán Thế Âm thì trong tâm ta có những chất liệu Từ và Bi.  Nếu có những chất liệu đó thì chắc chắn sự chuyển hóa sẽ tới.  Đây không phải là vấn đề tín ngưỡng hay mê tín.  Thường nguyện thường chiêm ngưỡng tức là ta phải luôn luôn tâm nguyệnchiêm ngưỡng năm phép quán đó.  Chiêm ngưỡng ở đây tiếng Anh là Contemplation.

Quán Vô Cấu, Thanh Tịnh Vô Cấu Thanh Tịnh quán
Mặt trời Tuệ phá ám Tuệ nhật phá chư ám
Điều phục nạn, gió, lửa Năng phục tai phong hỏa
Chiếu sáng khắp thế gianPhổ minh chiếu thế gian.

Vô cấu [Vimala] có nghĩa là không dơ bẩn;  Tuệ nhật phá chư ám, là mặt trời của trí tuệ phá tan tất cả những màn hắc ám; Năng phục tai phong hỏa là điều phục được những thiên tai gió lửa.  Năm phép quán đó có tính cách vô cấu, thanh tịnh.  Đó là một mặt trời trí tuệ, có khả năng phá tan những bức màn hắc ám, điều phục được tất cả các tai nạn gió, lửa, và chiếu sáng khắp cùng thế gian.  Đó là thần lực của năm phép quán.
Tâm Bi như sấm động Bi thể giới lôi chấn
Lòng Từ như mây hiền Từ ý diệu đại vân
Pháp cam lộ mưa xuống Chú cam lồ pháp vũ
Dập trừ lửa phiền não. Diệt từ phiền não diệm.

Bi thể tức là cái chất liệu của lòng Bi, giống như tiếng sấm động.  Đại Bi Quán Thế ÂmQuán Thế Âm có lòng thương rất lớn.  — đây chúng ta thấy một hình ảnh rất đặc thù.  Lòng thương thường được so sánh với một cái gì rất dịu hiền, nhưng ở đây lòng thương được so với tiếng sấm động.   Chúng ta nhớ ở kinh Duy Ma, sự im lặng có khi được xem là sự im lặng sấm sét, im lặng nhưng có hùng lực và hiệu năng rất lớn.  — đây lòng thương được ví với sấm động, tại vì lòng thương là một năng lượng tích cực.  Không phải thương rồi chảy nước mắt và không làm gì hết.  Tâm bi không phải là một thứ năng lượng thương xót tiêu cựcSức mạnh của tâm bi hùng vĩ như sức mạnh của sấm chớp.  Lòng từ ở đây được diễn tả dưới hình thái của các trận mưa [Từ ý diệu đại vân] để cho tất cả mọi loài đều được thấm nhuần chất nước cam lộ đó.  Đây là những hình ảnh rất thi caThế gian của chúng ta như một đám cháy.  Trong ta, mỗi người là một đám cháy, chúng ta đang cháy từ trong ra ngoài.  Chúng ta là một thân cây đứng trong một khu rừng đang bốc cháy, và lòng từ bi của Quán Thế Âm như là những đám mây hiền, với sự tác động của sấm sét, những đám mây đó biến thành mưa để chữa trị những đám cháy trên thế gian, và làm cho cây cối mọc lên xanh tươi.

Nơi án tòa kiện tụng Tránh tụng kinh quan xứ
Chốn quân sự hãi hùng Bố úy quân trận trung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán thù đều tiêu tán. Chúng oán tất thối tán.

Vào các phiên tòa kiện tụng hay ra nơi trận mạc đầy bom đạn, nếu chúng ta biết sử dụng niệm lực Quán Thế Âm, thì tất cả những oán thù và tai nạn kia đều có thể vượt qua.

Tiếng Nhiệm, tiếng Quán Âm Diệu âm, Quán Thế Âm
Tiếng Phạm, tiếng Hải Triều Phạm âm, hải triều âm
Tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời Thắng bỉ thế gian âm
Hãy nên thường quán niệmThị cố tu thường niệm.

Đây là những câu rất hay trong Kinh Phổ Môn.  Năm phương pháp Quán kể trên là năm phép quán nói về chữ đầu trong danh hiệu của Bồ Tát: Quán.  — đây kinh nói về năm chữ Âm, tức là nói về năm loại âm thanhliên hệ tới Bồ Tát Quán Thế Âm.

Trước hết là Diệu âmÂm thanh của vị Bồ Tát này là một âm thanh rất nhiệm mầu, rất vi diệuQuán Thế Âm là âm thanh do sự quán chiếu về cuộc đời mà được thể hiện ra.  Ngài là một con người có đủ định lực, có đủ tình thương và nhất là có đủ thì giờ để nhìn vào cuộc đời, quán chiếu về cuộc đời mà hiểu được cuộc đời.  Đó là tiếng nói của người hiểu biết.  Không có thì giờ để nhìn, để hiểu thì không thể có tiếng nói của người hiểu biết.
Tiếng Phạm có nghĩa là tiếng cao quý, ví dụ như Brahma-vih€ra tức là bốn phạm trú, bốn nơi cư trú rất sang trọng, rất cao quí, tiếng Anh là Noble Dwellings.  Bốn phạm trú đó là Từ, Bi, Hỉ và Xả.  Bốn cư xá này là bốn cư xá số một, mình nên tìm đến đó để cư trú cho hạnh phúc, cho thảnh thơi.

Tiếng hải triều là tiếng sóng biển.  Pháp âm của Bồ Tát được ví với tiếng hải triều, hùng mạnh và có khả năng lấn át hết tất cả các tiếng rì rào, than khóc.

Thắng bỉ thế gian âm là tiếng vượt lên trên tất cả các thứ tiếng khác của thế gian, ví dụ như tiếng của danh, của lợi, tiếng của quyền hành, của tranh chấp, của đảng phái.  Tất cả các thứ tiếng đó đều bị tiếng của Bồ Tát vượt lên và chế ngự.

Chúng ta thấy có hai bức tranh, một về Quán và một về Âm, tên của Bồ Tát.  Tám câu kệ nghe như hai câu đối, rất tương xứng.  Về quán, ta có năm phép, về âm thanh ta cũng có năm loại:

Chơn quán, Thanh Tịnh quán, Quảng Đại Trí Tuệ quán, Bi quán, cập Từ quán.    

Diệu âm, Quán Thế Âm, Phạm âm, Hải triều âm, Thắng Bỉ Thế gian âm.

Từng niệm không nghi ngờ Niệm niệm vật sanh nghi
Trong ách nạn khổ chết Quán Thế Âm tịnh thánh
Quán Âmtịnh thánh Ư khổ não tử ách
Là nơi cần nương tựa. Năng vị tác y hộ.

Nghĩa là hãy tiếp tục quán niệm và đừng sanh tâm nghi ngờ, tại vì bậc thánh thanh tịnhQuán Thế Âm kia, thường hiến mình làm nơi nương tựa cho chúng sanh trong mọi trường hợp khi họ gặp tai ách, khổ nạn, và sự chết chóc.

Đầy đủ mọi công đức Cụ nhất thế công đức
Mắt thương nhìn thế gian Từ nhãn thị chúng sanh
Biển Phước chứa vô cùng Phước tụ hải vô lượng
Nên ta cần đảnh lễThị cố ưng đảnh lễ.

Bồ Tát có đầy đủ công đức, đem con mắt thương yêu để nhìn mọi ngườiTừ nhãn thị chúng sanh là năm chữ rất tuyệt diệu, ta chỉ cần làm được chừng đó là đã có hạnh phúc tràn trề rồi.  Đem con mắt thương để nhìn thì chẳng những người kia được hưởng hạnh phúc, mà chính trái tim của mình cũng được thấm nhuần những ngọt ngào của tình thương.  Ta hãy nhìn chúng sanh bằng con mắt từ bi chứ đừng đợi chúng sanh nhìn mình bằng con mắt có thiện cảm!  Biết nhìn mọi loài bằng con mắt từ bi thì không chóng thì chầy, mọi loài sẽ học được phương pháp đó, và sẽ biết nhìn lại mình bằng con mắt từ bi.  Phước tụ hải vô lượng tức là phước đức dồn về và sẽ lớn như biển cả, không thể nào đo lường được.  Thị cố ưng đảnh lễvì vậy cho nên chúng ta hãy cúi đầu đảnh lễ vị Bồ Tát đã thành Bụt từ lâu đó.

Rất tiếc là mình chưa có dịp để dịch lại toàn văn kinh Pháp Hoa, nếu dịch lại thì sẽ dễ đọc hơn nhiều.

Bây giờ ta trở về phần trường hàng kế tiếp của phẩm này.

Lúc đó Bồ Tát Trì Địa [Dh€ranỉndhara Bodhisattva] từ chỗ ngồi, đứng dậy và thưa với Bụt rằng:  Lạy đức Thế Tôn, nếu có người nào nghe được phẩm kinh nói về Bồ Tát Quán Thế Âm này mà thấy được cái sự nghiệp tự do của Ngài, thấy được cái năng lực thực hiện thần thông của Phổ Môn, thì công đức của người đó không phải là ít. Như vậy, người nào được nghe Phẩm Pháp Hoa này, thì người đó đã có công đức rất nhiều.  Nghe được Kinh Phổ Môn tức là đã tiếp xúc được với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đó là lời tuyên bố của vị Bồ Tát tên là Trì Địa.

Trì Địa là một vị Bồ Tát rất ưa lao động.  Hai bàn tay của Ngài thường dính đất, ưa làm vườn, ưa bắc cầu, ưa đào giếng.  Nghe nói rằng, hồi Bụt Thích Ca lên thăm mẹ ở cung trời Đao Lợi thì Bồ Tát Trì Địa đã đắp đường cho Bụt đi.  Ngài là một vị kiến trúc sư, một kỹ sư.  Trì là bảo vệ, duy trì, địa là trái đất, tiếng Anh là Earth Holder. Những người bảo vệ môi sinh, tranh đấu để giữ gìn cho sinh môi trái đất, đều là liên minh của Bồ Tát Trì Địa.  Đây là một vị Bồ Tát chuyên giữ gìn trái đất cho chúng ta, chúng ta cần phải liên minh với Ngài để bảo trì nguyên vẹn trái đất này lại cho con cháu.  Bồ Tát Trì Địa còn bắt cầu, đắp đường để đưa người ta lại với nhau.  Nếu có những người, những nhóm người bị chia rẽ, kẻ ở đầu sông người ở cuối, thì Bồ Tát làm một chiếc cầu đưa họ tới gần với nhau, để ký những hiệp ước hòa bình.  Thế giới của chúng ta rất cần Bồ Tát Trì Địa.

Nói đến đây thì tôi nhớ rằng Bồ Tát Địa Tạng [KỒitigarbha Bodhisattva] cũng phải được đưa vào trong Hạnh môn của kinh Pháp Hoa, vì Ngài là người có đại nguyện tìm đến những nơi đen tối nhất, u ám nhất, khổ đau nhất.  Những nơi đó là địa ngụcLời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng là Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, là chừng nào địa ngục còn có người, thì tôi nguyện còn phải đi tới và nguyện chưa an hưởng quả vị của một đức Bụt.  Bồ Tát Địa Tạnghiện thân cho đại nguyệnĐại Nguyện Địa Tạng Vương là một người luôn luôn thao thức muốn đi vào những nơi còn khổ đau, còn tăm tối.  Chúng ta biết rằng địa ngục không ở đâu xa, chỉ cần đưa tay ra là chạm địa ngục ngay, và đôi khi khỏi cần phải với tay ra bên ngoài, địa ngục cũng có ngay ở trong ta!  Vì vậy đem ánh sáng của tình thương, của hiểu biết tới với khổ đau là lời đại nguyện của Bồ Tát Địa Tạng.  Trong 14 giới Tiếp Hiện có một giới nói về chủ đề này:  Hãy tìm tới những kẻ khổ đau, đừng nhắm mắt trước khổ đau, đừng đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống.  Hãy phổ biến những pháp thoại qua băng Video và băng Audio để giúp cho mọi người bớt khổ.

Muốn cho kinh Pháp Hoa được hoàn mỹ, chúng ta có thể thêm vào một phẩm Bồ Tát Địa Tạng, đồng thời phát triển thêm phẩm Bồ Tát Trì Địa. Cố nhiên ở trong kinh Pháp Hoa chúng ta đã có Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài cũng đã thành Bụt lâu rồi, nhưng vẫn đóng vai Bồ TátĐịa vị của Phổ Hiền ở trong kinh Hoa Nghiêm rất lớn, vì vậy cho nên đến kinh Pháp Hoa chúng ta không được đọc nhiều về Bồ Tát Phổ Hiền nữa.

Tôi nghĩ Bồ Tát Phổ Hiền cần được đề cập đến nhiều hơn trong kinh này, tại vì Bồ Tát Phổ Hiền là một người tượng trưng rất nhiều cho Hạnh môn, và Hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền có tới mười điểm.  Nói tới Hạnh môn thì phải nói tới Phổ Hiềnchúng ta thường xưng tụng Phổ HiềnBồ Tát Đại Hạnh, thành ra sự có mặt của Bồ Tát Phổ Hiền trong phần Hạnh môn rất là quan trọng.
Phật tử Việt-nam ai cũng thuộc mười hạnh của Phổ Hiền, vì bài Hồi Hướng có nhắc đến mười hạnh đó:

1.  Nhất giả lễ kính chư Phật: Nghĩa là mình phải tỏ lòng tôn kính đối với bậc giác ngộ.

2.  Nhị giả xưng tán Như Lai:  Phải khen ngợi Như Lai.  Khen bằng nhiều cách, không phải bằng lời mà là bằng hành động.

3.  Tam giả quảng tu cúng dường: Phải thực hiện việc cúng dường, hiến tặng.  Cúng dường chúng sanhcúng dường Bụt.

4.  Tứ giả sám hối nghiệp chướng: Phải sám hối, luôn luôn phải đổi mới.

5.  Ngũ giả tùy hỉ công đức:  Hễ ai làm được một việc gì tốt, thành công và có niềm vui là mình phải vui theo, phải yểm trợ hết lòng.

6.  Lục giả thỉnh chuyển Pháp luân:  Người nào có khả năng làm giáo thọ, mình phải yễm trợ và cầu họ đi giảng dạy, đừng bắt họ ở ru rú trong chùa.  Những vị Bụt thành đạo chúng ta phải tới cầu xin các vị đi thuyết pháp, đừng có vì những khó khăn mà không thuyết pháp.  Nghe nói Bụt Thích Ca sau khi thành đạo đã có lúc không muốn đi thuyết pháp vì Ngài thấy giáo pháp thì khó, mà chúng sanh thì căn trí không được lanh lợi cho lắm.  Không biết có đúng vậy không, có thể Ngài đã thị hiện ra như vậy để chúng sanh phải thỉnh cầu, nhờ vậy mà thấy được rằng Pháp là quí giá.  Khi nào mình thấy một vị Bụt xuất hiện, thì mình phải thỉnh cầu vị Bụt đó chuyển Pháp luân, nghĩa là đi thuyết pháp hoằng hóa độ sanh.  Nếu thấy một người nào có khả năng thuyết pháp, mình cũng phải thỉnh cầu người đó đi thuyết pháp.

7.  Thất giả thỉnh Phật trụ thế: Là thỉnh Bụt ở lại lâu trong cõi đời để giáo hóa độ sanhBồ Tát Phổ Hiền là người chuyên đi làm những việc này.  Thấy ở cõi nào có Bụt sắp nhập diệt thì Ngài đến khẩn khoản xin Bụt lưu lại thêm một thời gian nữa để cứu độ chúng sanh.

8.  Bát giả thường tùy Phật học: Nghĩa là tinh chuyên theo học với Bụt.  Đừng nói rằng Bụt còn đó, lúc nào mình đến học cũng được.  Nay bận công việc, thôi để đến mai, hoặc năm nay mình kẹt, sang năm chắc chắn mình sẽ thu xếp để đi học.  Đó không phải là hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền; hạnh của Bồ Tát là nơi nào có Bụt giảng dạy, là nơi đó có Ngài đến học hỏi.

9.  Cửu giả hằng thuận chúng sanh: Mình phải đi theo với chúng sanh, đi theo với mọi người để hành đạo, để giúp đỡ, để điều phục chứ đừng trốn họ.  Tu không phải chỉ là tiếp thu vào trong ngũ uẩn của mình, mà phải đưa tay ra, phải tiếp xúc với chúng sanh, phải thấy được rằng những đau khổ, thao thức và ước mơ của chúng sanh là những đau khổ, thao thức và ước mơ của chính mình.  Phải tìm đủ mọi cách để đưa họ đi trên con đường tu họcchuyển hóa như mình, đó gọi là hằng thuận chúng sanh.

10.  Thập giả phổ giai hồi hướng: Khi thực hiện được một điều gì, học được một cái gì, trồng được một cây gì, làm được một điều gì trong ngày, mình đều nói rằng, cái đó là để cho hạnh phúc chung, để cho sự giác ngộ chung, chứ không phải mình đã làm việc đó riêng cho mình.  Học kinh Pháp Hoa không phải là học riêng cho mình mà là học cho tất cả mọi người.  Rửa một cái nồi, không phải chỉ rửa riêng cho mình, chỉ chuyển hóa riêng nội tâm của mình, mà làm cho mọi người và mọi loài.  Bước một bước chân tỉnh thức là bước cho tất cả nhân loại, tại vì nếu có lòng từ, lòng bi, có định, có tuệ thì bước chân đó sẽ làm lợi cho mọi loài hữu tình.   Đừng nghĩ rằng học như vậy là học riêng cho mình, tu như vậy là tu riêng cho mình.  Mình phải biết hồi hướng, tiếng Anh là Transferring the merits to all beings. Mình không có trương mục riêng, tất cả những công phu tu tập của mình đều đưa vào một trương mục mà ai cũng có thể sử dụng được hết, tu như vậy mới đúng là tu theo tinh thần của Bồ Tát Phổ Hiền.

Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện trong hội Pháp Hoa như là một trang nam tử.  Nhưng trong những hình thái tôn thờ ở nhiều nước Á Đông, thì chúng ta lại thấy Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện dưới hình thức một phụ nữ.  Điều này cũng dễ hiểu, vì phụ nữ có thể tượng trưng được tình thương một cách tự nhiên, dễ dàng hơn nam giới.  Hơn nữa, trong kinh có nói rất rõ rằng Bồ Tát Quán Thế Âmtình thương, và Ngài có thể trao tặng tình thương đó dưới nhiều hình thái khác nhau.  Vì vậy mà tôn thờ và hình dung Bồ Tát Quán Thế Âm dưới hình thức một phụ nữ, là một chuyện rất tự nhiên, rất hợp lý.

Chùa Bút Tháp ở miền Bắc Việt-nam có một tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nghìn tay, nghìn mắt rất đẹp.  Nghìn cánh tay có nghĩa là hoạt động nhiều cách.  Tình thương phải được thể hiện ra bằng nhiều cách.  Đối với những người không quen với ngôn ngữ điêu khắc của Phật giáo, thì họ sẽ lấy làm lạ khi thấy một vị tượng có nhiều tay quá.  Nhưng đối với chúng ta thì đó là một hình ảnh dễ hiểu, tại vì khi thương ai, ta muốn nâng đỡ, muốn giải quyết khổ đau giùm cho người ấy, và khi có nhiều người khổ đau quá thì ta phải có mặt ở nhiều nơi, và ta phải có nhiều cánh tay để giúp đỡ.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra.

Đó là hai câu thơ ở trong tác phẩm Nam Hải Quán Âm bằng chữ nôm.  Hai câu đó chứng tỏ rằng tình thương phải được thực hiện bằng hành động.  Nói suông rằng tôi thương anh lắm thì không giúp được gì, vì vậy mà phải có cánh tay.  Cánh tay để vươn tới.  Thành ra trong Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Phổ HiềnPhổ Hiềnđại hạnh, là hành động lớn.  Do đó chúng ta thấy cái chân lý của Hoa Nghiêm đã thấm nhuần tất cả mọi hình ảnh:  Bồ Tát Quán Thế Âm mang cánh tay của Bồ Tát Phổ Hiền.

Nghìn mắt cần thiết cho nghìn tay.  Mắt là để thấy, để hiểu.  Nhận thức mà dẫn tới hành động thì mới có kết quả, do đó vị tượng có nghìn tay thì phải có luôn nghìn mắt.  Mà con mắt là tượng trưng cho Bồ Tát Văn Thù Đại Trí.  Con mắt là để nhìn sâu, nhìn kỹ, để phát hiện ra sự thật, đó là  tác dụng của thiền quánThiền quán nghĩa là nhìn cho thật sâu, cho thật kỹ để thấy được cái chân tướng của sự vật, vì vậy mà con mắt là tượng trương cho thiền quán [VipaỐyan€].

Khi nhìn kỹ Bồ Tát Văn Thù, mình cũng thấy có trái tim của Quán Thế Âm và cánh tay của Phổ Hiền, cho nên một vị Bồ Tát chứa đựng tất cả các vị Bồ Tát khác, đó là chân lý của Hoa Nghiêm.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra,
Xem trong biển nước Nam ta,
Phổ mônđức PhậtQuán Âm.

Hình tượng đã là như vậy thì sự hành trì cũng như vậy.  Tại sao lại có một ngàn?  Một ngàn chỉ là con số tượng trưng, một ý niệm về nhiều, nhiều lắm, Thiên thủ thiên nhãn.

Vào dịp lễ kỷ niệm 2500 ngày Bụt nhập diệt ở New Delhi, Ấn độ, phái đoàn Việt-nam từ Hà nội có sang tham dự, và có thỉnh theo tượng đức Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn để cho các phái đoàn quốc tế thấy cái tác phẩm nghệ thuật đó của Việt-nam.  Hồi đó đất nước mình còn chia làm hai, miền Nam đã gởi một phái đoàn, và miền Bắc một phái đoàn khác, và hai phái đoàn đã bí mật gặp nhauẤn độPhái đoàn miền Nam do Hòa thượng Huệ Quang lãnh đạo.  Hồi đó Tổng hội Phật Giáo Việt-nam ở miền Nam có một tờ tạp chí chính thức gọi là tờ Phật Giáo Việt-nam, Hòa Thượng Huệ Quang làm chủ nhiệm, còn tôi là chủ bút.  Trong khi lãnh đạo phái đoàn sang Ấn độ, Hòa Thượng bị đứt mạch máu và viên tịch tại bên đó.  — nhà chúng tôi có ra một số báo đặc biệt để tưởng niệm cố Hòa thượng Chủ nhiệm Huệ Quang.  Hồi đó phái đoàn miền Bắc có Hòa thượng Trí Độcư sĩ Lê Đình Thám, cùng một số các vị khác.  Hai vị trên có công lớn trong việc chấn hưng đạo Bụt ở Việt-nam.  Phái đoàn miền Nam có Luật sư Trần Thanh Hiệp đi làm thông ngôn.  Tôi vẫn còn nhớ lúc anh Hiệp đến Phật học đường Nam Việt để mượn cuốn tự điển Anh Việt.  Hồi đó ở Việt-nam tiếng Anh chưa được phổ biến lắm.

Vào chùa thấy tượng Quán Âm ngàn mắt ngàn tay, nếu quen với ngôn ngữ của điêu khắc Phật giáo thì chúng ta hiểu ngay đây là hình tượng để nói lên một thứ tình thương chân thật, được xây dựng bằng cái thấy, bằng sự quán chiếu, bằng hiểu biết do sự nhìn sâu.  Đây là một thứ tình thương đích thực, không phải thứ thương suông bởi vì nó được thể hiện bằng những cánh tay.  Khi hướng dẫn khách vào chùa, ta phải giải thích như vậy để họ có thể hiểu được, nếu không họ sẽ thắc mắc, vì mỗi nền văn hóa có một thứ ngôn ngữ riêng.

Đôi khi con mắt kia mình phải tìm mới thấy.  Nhìn qua thì chúng ta chỉ thấy vị tượng có nhiều cánh tay thôi, nhưng nếu nhìn cho kỹ, ta sẽ thấy trong mỗi bàn tay có một con mắt.  Bàn tay mà có con mắt là quan trọng lắm, bàn tay mà không có con mắt là nguy hiểm vô cùng.  Hành động mà không đi theo sự hiểu biết thì sẽ đưa đến sự đau khổ cho người mình thương, chứ đừng nói người mình không thương.  Ai cũng muốn đem lại hạnh phúc cho đất nước, cho đồng bào, cho nhân loại, cho các loài, nhưng cái tình thương không có sự hiểu biết thì chưa hẳn là tình thương và có thể gây đổ vỡ dù mình có đầy tràn thiện chíThiện chí chưa phải là tình thương, cái ý muốn thương chưa phải là thương.  Khả năng thương là khả năng thấy và khả năng hiểu để hành động, vì vậy mà các nhà điêu khắc đã diễn tả tình thương rộng lớn của Bồ Tát Quán Thế Âm như cả ngàn cánh tay có con mắt trong mỗi bàn tay.  Sự tu hành của mình, nói tóm lại, là để đặt vào trong lòng bàn tay của mình một con mắt.  Chừng nào mình đặt được một con mắt vào lòng bàn tay của mình, thì lúc đó hành động của mình sẽ có an toàn.  Bất cứ hành động nào của mình cũng sẽ đem lại hạnh phúc cho người và cho chính mình.  Nếu chưa có con mắt ở trong lòng bàn tay, thì chúng ta phải cẩn thậnTu quán là để có con mắt tuệ, tuệ nhãn.  Có tuệ nhãn thì dù muốn hay không cũng sẽ có từ bi, tại vì cái thấy sâu sắc đưa tới cái thương đích thực.  Và tình thương không thể nào không biểu hiện bằng hành động.

Người hành giả như một máy thâu hình, hay máy thâu thanh, phải có những điều kiện mới có thể cảm ứng được với những luồng sóng truyền thanh hay truyền hình.  Những đài phát thanh và phát hình luôn luôn có đó, nhưng mình phải có cái đồng thanh, đồng khí thì mới tương ứng và tương cầu được với những đài phát lớn.  Bụt và các vị Bồ Tát là những đài phát thanh và phát hình lớn, luôn luôn có mặt ở trong vũ trụ, nhưng nếu cái máy thu của mình không hội đủ điều kiện, thì mình sẽ không bắt được những làn sóng đó, và mình nói rằng không có phát thanh, không có phát hình, không có làn sóng điện.  Trong bài kệ kiến giải của Sư cô Như Phước, Sư cô nói rằng cái bí mật của hạnh phúc là sống cho trọn vẹn ngày hôm nay, và tiếp nhận được tình thương đến từ muôn loài.  Tình thương đó có thật và đang đến, cũng tương tự như những làn sóng truyền thanh, truyền hình đang tới với mình luôn luôn, nhưng tại vì tâm mình bị bít lấp, cho nên mình không mở được cõi lòng để đón nhận tình thương đó.  Không khí, hay là nước trong, những thứ này sẵn sàng có mặt đó cho mình, nhưng vì mình tự trốn tránh trong cái tháp ngà đau khổ của mình, cho nên mình không đón nhận được tình thương của không khí, của nước trong, của đám mây, của mặt trời, tất cả đều có ý muốn nuôi dưỡng, che chở cho mình.  Bụt và Bồ Tát cũng vậy, đó là những sự có mặt rất thực tế mà không cần phải có một đức tin mới tìm thấy được, chỉ vì con mắt mình không mở ra, và chỉ vì trái tim mình khép kín lại, cho nên mình mới không nhận ra sự có mặt của các vị Bụt và Bồ Tát ở chung quanh mình đó thôi.

Có những vị Bụt và Bồ Tát không có tên tuổi, không được các đài truyền thanh, truyền hình, hay báo chí nhắc tới, nhưng họ có mặt ngay chung quanh chúng taTình thương của họ được thể hiện rất rõ ràng, họ là những Bồ Tát vô danh, có mặt khắp mọi nơi.  Trong bước đường hành đạotây phương, thỉnh thoảng tôi có gặp những vị Bồ Tát như vậy.  Họ là Bồ Tát lớn, nhưng không ai nhìn rõ họ để có thể nhận ra họ là những vị Bồ Tát lớn.  Ví dụ ở Hòa lan có một phụ nữ, mới trông vào, mình không thấy gì đặc biệt cả, Bà tên là Hebe KolhbrỎgge.  Bà đã giúp rất nhiều cho trẻ em ở Việt-nam.  Trong đệ nhị thế chiến, bà đã tạo nơi ẩn náu cho rất nhiều người Do thái, và đã giúp di chuyển hàng chục ngàn người Do thái sang các nước khác để họ khỏi bị chết dưới bàn tay của người phát-xít.  Một người có tâm địa và hành động như vậy, nếu ta không gọi là Bồ Tát thì gọi là gì nữa?  Vậy mà Bà đã không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, chẳng có một giấy tờ gì để công nhận việc cứu độ chúng sanh của Bà.  Tôi chỉ vì may mắn nên đã được gặp bà trên bước đường hành đạo.  Bà sống rất đơn giản, đạm bạc và đã thực hiện được điều mà mình không ngờ một phụ nữ có thể đơn phương làm được.  Trong thời gian làm việc chung, tôi thấy Bà vẫn tiếp tục giúp những người câm, người điếc ở trong các nước Xã hội chủ nghĩa một cách rất sốt sắng và âm thầm.  Bà đã không mang danh là Phật tử, không mang một danh xưng nào hết.  Mình phải có một trái tim rộng mở, phải đừng có thành kiến, mới nhận ra được những vị Bồ Tát có mặt chung quanh mình, ở cùng trong xã hội với mình.  Hiện giờ tại các nước Tây phương cũng như Đông phương, có những người đang âm thầm làm việc để cứu trợ cho biết bao nhiêu người bệnh tật, nghèo đói, cùng khổ, đang bị áp bức.  Họ làm những việc cứu trợ đó một cách rất im lặng.  Nếu ta nhởn nhơ trong hoàn cảnh của ta, thì ta không thấy được sự có mặt của những người đó, và không biết đến những hoạt động rất lặng lẽ nhưng rất thực tế của họ.  Họ không cần báo chí tường thuật, không cần đài phát thanh, phát hình đề cập đến, nhưng họ đã làm những việc như vậy từ mấy mươi năm nay, và vẫn tìm được niềm vui và sự an bình trong công tác hàng ngày.

— Huế có một Phật tử tên là bác Siêu.  Bác tuy rất im lặng, nhưng vì bác đã làm việc xã hội lâu ngày quá, nên ở Thừa thiên không ai là không biết bác, và ai cũng nghĩ bác là một vị Bồ Tát.  Bác làm việc rất âm thầm.  Vốn liếng của bác chỉ là một chiếc xe đạp rất cũ.  Vậy mà ở đâu Bác cũng đạp đến được, và bác đã giúp cho rất nhiều gia đình đơn bạc, nghèo đói, bệnh tật.  Bác không có gia tài, nhưng bác có một trái tim, vì vậy mà bác đã có nhiều bạn hữu có thể giúp bác làm công việc từ thiện.

Năm 1964, trong một chuyến về Huế, tôi đã mời bác lên chùa Từ Hiếu để được chuyện trò và học hỏi những kinh nghiệm của bác.  Hồi đó, tôi vừa thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và nghĩ rằng mình sẽ thực hiện những công tác tình thương trên toàn quốc, có tính cách hệ thốngtỷ lệ lớn hơn bác Siêu.  Đó là tại tôi nghĩ rằng mình đang làm theo phương pháp mới, mình đào tạo nhiều cán bộ cùng một lúc, và mình đã nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các nước, cho nên mình sẽ làm hay hơn bác.  Trong khi ngồi nói chuyện với bác, tôi vẫn mang cái niềm tự tin rằng mình sẽ khoa học hóa và hệ thống hóa được công việc, và tôi muốn mời bác gia nhập vào trong công tác này.

Mục đích của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội không chỉ là công việc từ thiện, mà gồm cả công việc phát triển xã hộiPhong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội là để giúp dân, giúp nước, chứ không phải là để làm từ thiện đơn thuần.  Giúp dân, giúp nước là giúp cho chính mình.  Sau khi nghiên cứu nhiều nơi, tôi trở về lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, nhằm bốn mục tiêu:

1.         Giáo dục: Nông thôn có nhiều làng không có trường học và trẻ em lêu lổng,  không có học vấn.  Vì vậy công việc đầu tiên của một tác viên xã hội khi về làng, là tìm cách chơi với các em để dạy các em.  Mình có thể chơi và dạy các em ở ngoài bờ sông hay dưới gốc đa.  Khi số lượng các em lên đến hai ba mươi đứa, lúc trời mưa, mình kéo nhau vào xin tá túc ở nhà của một dân làng để tiếp tục việc học.  Từ từ cái ý niệm xây một mái trường bằng tre và lá dừa phát sinh ra, và chính người tác viên đó sẽ đề nghị dân làng họp lại để làm ngôi trường đó cho làng.  Đừng đợi chính quyền hay một sự giúp đỡ từ bên ngoài, vì đợi thì sẽ phải đợi hoài.  Thanh niên phụng sự xã hội phải bắt đầu từ những cái gì mình có, từ những cái gì mình biết chứ không chờ đợi một sự viện trợ, dù sự viện trợ đó là từ chính quyền của nước mình.

2. Y tế: Thành lập một trạm y tế, dạy dân làng cách phòng ngừa tật bệnh, và tự thiết lập những nhà vệ sinh bằng xi-măng rẻ tiền.  Dạy trẻ em ngăn ngừa những bệnh thông thường như bệnh cảm, sốt rét, bệnh đau mắt v.v…

3.         Kinh tế: Làm sao cho sự sản xuất của dân làng tăng lên, ví dụ tìm cách tổ chức hợp tác xã; chỉ cho dân làng sử dụng phân bón đúng mức; cách chọn hạt giống; phương pháp trị liệu những chứng bệnh của cây cối mùa màng; tổ chức để dân làng có thể làm những tiểu công nghệ trong giờ rảnh rỗi để tăng thêm ngân sách gia đình; giúp cho dân làng biết phương pháp chăn nuôi gà, vịt mà không để chúng bị bệnh tật. 

4.         Tổ chức: Giúp dân làng tổ chức lại làng xã, công việc tương trợ, tại vì nếu không tổ chức lại đàng hoàng thì mình không thành công được.

Hồi đó với kiến thức, với kinh nghiệm như vậy, tôi nghĩ rằng, phong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội sẽ là một hình thái hoạt động mới, và so với hình thái hoạt động cổ điển của bác Siêu thì nó phải tiến bộ hơn nhiều.  Cho nên tôi có niềm tin rất lớn và tôi nghĩ rằng mình có thể làm hay hơn bác Siêu.

Trong lúc tiếp xúc, bác Siêu ngồi im lặng nghe những điều tôi trình bày.  Sau đó bác cũng đồng ý tham dự trong khi bác vẫn tiếp tục con đường riêng của bác.  Cho đến khi người Cộng sản lên nắm chính quyền, họ cấm hết tất cả các hoạt động của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và họ bắt đầu bắt tác viên của trường, thì tôi mới nhận ra rằng cái phương pháp của bác Siêu rất là vô tướng.  Bác vẫn tiếp tục công việc từ thiện như thường, vẫn với chiếc xe đạp cũ kĩ ọp ẹp đó, bác đi tới khắp hang cùng ngõ hẻm và vẫn làm được cái công việc mà ngày xưa tôi cho là không khoa học cho lắm.

Không ai ở Thừa thiên mà không biết cái hạnh nguyện, cái âm thầm lặng lẽ của bác.  Bác Siêu là một vị Bồ Tát không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, và báo chí không nhắc tới.  Nếu mở mắt ra, mở trái tim ra, mình sẽ tiếp xúc được với rất nhiều người như bác Siêu ở ngay trong đất nước của mình.  Trong những con người đó, có chất liệu của Quán Thế Âm, và những người đó thực sự có niệm lực của Quán Âm.  Nhờ thế mà họ mới trường kỳ công tác được như vậy, nếu không thì chỉ vài ba tháng là họ bỏ cuộc, họ chán nản.  Vì vậy khi niệm đức Quán Thế Âm, phải thực tập sâu sắc mới có thể thành công được.  Nếu cái máy thâu hình của mình hư, thì dù mình có bấm nút mấy trăm lần đi nữa, nó vẫn không tiếp nhận được hình ảnh của đài truyền hình.  Niệm danh hiệu Quán Thế Âm cũng vậy, mình phải chuẩn bị tâm của mình cho thanh tịnh, cho chí thành thì mình mới bắt được cái nguồn năng lượng đại bi kia.  Niệm mà thấy cái hiểu và cái thương có mặt trong ta, thì lúc đó niệm mới thực sự hữu hiệu, còn niệm bằng miệng mà trong lòng vẫn có hờn giận, nghi kị, tham lam, buồn chán, thì mình sẽ không bắt được cái tinh lực của đức Quán Thế Âm.  Muốn thừa hưởng được niệm lực Quán Âm thì mình phải bắt được niệm lực ấy.  Cho nên những người niệm đức Quán Âm, niệm Bụt Di Đà, hay Bụt Thích Ca mà trái tim vẫn còn cứng như đá thì ta biết rằng họ không bắt được làn sóng từ bi.  Niệm Bụt là một pháp môn rất thâm diệu đem lại một kết quả rất tốt.  Chúng ta không đặt vấn đề nghi ngờ mà chỉ đặt vấn đề niệm như thế nào để trái tim của mình có thể mở ra và để cho tình thương, sự hiểu biết và cánh tay của đức Quán Thế Âm có thể có mặt trong mình.  Trong chúng ta, người nào cũng đã có những giây phút kinh nghiệm về hiểu, về thương và về một ước muốn hành động.  Khi chúng ta có cái hiểu, cái thương và sự muốn hành động đó, thì chúng ta biết rằng hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm đã ngự trong trái tim của chúng ta rồi.  Nếu chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì không có lý do gì mà tinh lực của đức Quán Thế Âm không tiếp tục tuôn tràn vào trong trái tim của chúng ta.

Khi niệm Quán Thế Âm ta phải niệm một cách thông minh, phải biết rằng niệm theo phương pháp nào thì mới có kết quả, và ta phải giúp cho những người khác, đừng để cho họ niệm một cách mê tín, máy móc và sai lạc.  Niệm đức Quán Thế Âm như niệm một vị thần linh chỉ biết ăn hối lộ, cúng chuối, cúng xôi và mong đức Quán Thế Âm đứng về phe mình để đánh dẹp phe kia, niệm như vậy thì ngàn đời Bồ Tát Quán Thế Âm cũng không ứng hiện được trong trái tim của ta, tại vì Bồ Tát Quán Thế Âmhiện thân của cái hiểu, cái thương và cái hành động.

Mình cũng đừng có nghĩ rằng đức Bồ Tát Quán Thế Âm là một thực tại hoàn toàn ở ngoài mình.  Đây là giáo lý của Hoa Nghiêm, mà cũng là giáo lý của Pháp HoaGiáo lý này cũng căn cứ trên nguyên tắc duyên sinh [Pratĩtyasamutp€da], hay duyên khởi.  Khi chắp tay lễ Bụt, mình phải thấy rằng Bụt có trong ta và ta có trong Bụt, thì sự lễ lạy đó mới đúng với tinh thần Phật giáoChúng ta thấy trong đạo Hồi Hồi hay trong đạo Cơ Đốc cũng có sự lễ lạy, nhưng có thể sự lễ lạy này không giống như sự lễ lạy trong đạo Bụt.  Chúng ta có một pháp môn lạy mà đã mấy ngàn năm nay, người Phật tử đã thực tập rất đều đặn, rất thâm sâuDâng hương cũng là một pháp môn đặc thù, chúng ta không chỉ dâng hương trầm mà dâng hương Giới, hương Định và hương Tuệ, hương Giải Thoát và hương  Giải Thoát Tri Kiến. Có giới, có định, và có tuệ để dâng lên, thì Bụt bằng lòng hơn.  Sau khi dâng hương lên rồi, chúng ta mới quán tưởng, tức là chúng ta lạy xuống.  Phép quán tưởng này là một phép quán tưởng rất cao siêu.

một lần tôi trình bày tại Đại học Boston cho những nhà thần học nghe về phép quán tưởng này, và họ rất lấy làm ngạc nhiên, vì không có một tín đồ nào lễ lạy vị Giáo chủ của mình với một tinh thần như vậy.  Chắp tay lại mình đọc:

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghị,

có nghĩa là người kính lễ và người được kính lễ, cả hai đều không có sự có mặt riêng biệt và tách rời khỏi nhau.  Đây là đạo lý duyên sinh được nhìn nhận.  Bạch đức Thế Tôn, con đang lễ lạy Ngài và con biết rằng con được làm bằng Ngài và Ngài được làm bằng con.  Đức Thế Tôn được làm bằng những chất liệu không phải là Thế Tôn, cũng giống như một bông hoa được làm bằng những chất liệu không phải là bông hoa, như ánh sáng, đám mây, phân bón.  Đức Thế Tôn cũng vậy, Ngài được làm bằng những chất liệu không phải Thế Tôn, trong đó có con, vì vậy trong Thế Tôn có con.  Con cũng được làm bằng những chất liệu không phải là con, trong đó có Thế Tôn, vì vậy trong con có Thế Tôn và trong Thế Tôn có con.  Đó là cái ý nghĩa về tánh không tịch. Có tôn giáo nào mà người tín đồ nhìn vị Giáo chủ của mình và tuyên bố như vậy trước khi lạy không?  Cảm ứng đạo giao nan tư nghị, có nghĩa là chỉ vì con nhận thức được như vậy cho nên con biết rằng sự cảm ứng và sự giao tiếp giữa con và Ngài mới thật là mầu nhiệm, không thể nào diễn tả bằng tư tưởng và bằng ngôn ngữ được.  Nếu Ngài là một thực thể hoàn toàn độc lập, và con cũng là một thực thể hoàn toàn độc lập, thì sẽ có một vạn lý trường thành chia cách, làm thế nào giữa Ngài và con mà có sự thông cảm mầu nhiệm sâu xa được?  Trong đạo Ki-tô có những khuynh hướng thủ cựu cho rằng Đấng Tạo hóa không thể nào có cùng một bản chất với những vật thụ tạo, như là núi sông, cây, cỏ, con người v.v…  Vật thụ tạo [Creatures] và Đấng Tạo hóa [Creator] là hai thực thể tách rời.  Như vậy giữa hai bên có một bức thành kiên cố ngăn cách thì làm sao có được sự giao tiếp hai chiều, tức là có sự cảm ứng sâu sắc giữa Thượng đếcon người được?  Đạo Bụt thì nói rất rõ: Con không có thực thể riêng biệt mà Bụt cũng không có thực thể riêng biệt. Chính cái sự to gan dám so sánh đó, mới chứng tỏ được mình là một đệ tử giỏi, một học trò có thể hiểu được ý thầy.  Con không có thực thể, con là Không, và Bụt cũng không có thực thể, Bụt cũng là Không.  Đó là một lời khen rất lớn đối với Bụt, tại vì sự khen ngợi này không chỉ được làm bằng lời nói và sự cung kính, mà bằng cái tuệ giác của mình đối với giáo pháp của đức Thế Tôn.  Chính vì Bụt không có thực thể độc lập, và con cũng không có thực thể độc lập, cho nên sự cảm ứng giữa Bụt và con mới thật là sâu sắc và mầu nhiệm.  Đó là những điều mà các vị tổ của ta đã thực tập hàng ngàn năm nay.  Mỗi khi chắp tay trước đức Bổn Sư mà ta không thực tập như thế thì chúng ta có thể chỉ lễ lạy một cách cạn cợt, có khi là mê tín.  Đối với Bồ Tát Quán Thế Âm chúng ta cũng phải thực tập như vậy.

Có người thực tập phương pháp lễ lạy như sau:

Khi đưa hai tay chắp lên trán, họ đồng nhất sự cung kính của họ với ý,
Khi đưa tay xuống ngang miệng và cổ họng thì họ đồng nhất sự cung kính với lời nói,

  • Khi bàn tay rời lãnh vực ngôn ngữ, đi xuống ngang trái tim thì họ đồng nhất sự cung kính của họ với thân,

và khi lạy xuống là họ lạy với ba nghiệp Thân, Ngữ, Ý thanh tịnh. Như vậy, cái hành động kính lễ của mình rất là hiệu nghiệm:  nó gom được thân, khẩu và ý trong chánh niệm, và mình lạy xuống trong cái nhận thức là mình có Bụt trong mình, và Bụt có mình trong Bụt, như vậy là mình mở trái tim của mình ra để cho Bụt đi vào một cách rất dễ dàng.  Lúc đã có nội ứng rồi, đã có Bụt trong mình rồi, thì sự niệm Bụt trở nên rất dễ dàng và có hiệu lực.  Mình đừng có mặc cảm.  Phải tin rằng cái chất liệu của đức Quán Thế Âm đang có mặt ở trong mình, chất liệu đó sẽ được nuôi dưỡng, sẽ được phát hiện bởi phương pháp niệm Bụt của mình.  Ngược lại nếu mình có mặc cảm rằng Bụt và Bồ Tát là những bậc tuyệt vời, còn mình chỉ là người trần, mắt thịt, tội lỗi đầy đầu, và hai bên không bao giờ gặp nhau cả, thì sự niệm Bụt của mình sẽ khó thành công.

Cái pháp môn lạy Bụt chưa chấm dứt ở đó, vì ta còn tiếp tục quán chiếu:

Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.

có nghĩa là cái đạo tràng trong đó con đang đứng để hành lễ nó giống như là một màn lưới làm bằng những hạt minh châu của Vua Trời Đế Thích.  Trong cung Vua Đế Thích có một bức màn rất quý vì nó được kết toàn bằng những hạt minh châu vô giá.  Nếu đến gần, mình sẽ thấy mỗi hạt minh châu chứa đựng hình ảnh của tất cả các hạt châu khác ở trong nó.  Trong cái một có cái tất cả, cái tất cả chứa đựng cái một, đó là giáo lý kinh Hoa Nghiêm mà mình đưa ra để thực tập trong sự lễ lạy.  Trước khi lạy xuống mình quán tưởng và thấy rằng cái đạo tràng trong đó mình đang đứng, được tạo bằng tấm màn lưới của Vua Trời Đế Thích, và tất cả chư Bụt trong mười phương đều hiển hiện trước mặt mình.  Vì vậy khi lạy, mình không bỏ sót một vị Bụt nào hết, khi lạy một Bụt là mình lạy tất cả các Bụt. Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ, thân con cũng ảnh hiện như Bụt vậy, nếu Bụt hiện thânvô số thì con cũng hiện thânvô số.  Số lượng của sở lễ nhiều như thế nào thì số lượng của năng lễ nhiều như thế đó.  Nếu chư Bụt nhiều như số cát sông Hằng, thì con cũng vậy, số lượng của hiện thân con cũng nhiều như số cát sông Hằng, và trước mỗi vị Bụt trong mọi thế giới đều có con đang đứng kính lễ.

Khi quán tưởng như vậy và lạy xuống thì một cái lạy, là ta lạy tất cả chư Bụt trong thế giới tam thiên đại thiênVì vậy lễ lạy trong đạo Bụt không phải là sự khuất phục trước một uy quyền, cúi đầu hạ thấp nhân phẩm của mình trước một đấng thần linh, trái lại lúc lễ lạy ta đưa nhân phẩm của ta lên ngang hàng với nhân phẩm của chư Bụt.

Thầy Thiện Siêu đã dịch bài này như sau:

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châuđạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo-tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Mình nên dịch thế nào để cho người đọc hiểu được dễ dàng, và nương vào đó mà quán tưởng trong lúc lễ lạy, thì mỗi cái lạy mới giúp mình làm tiêu tan đi biết bao nhiêu vô minh, bao nhiêu mê mờ, bao nhiêu nghiệp chướng, đồng thời nó tạo ra một sự thông cảm lớn lao giữa mình và chư Bụt[12] .

Trong trường hợp lễ lạy đức Quán Thế Âm, nếu ta cũng áp dụng phương pháp đó thì ta sẽ thấy được rằng trong ta có một Bồ Tát Quán Âm ở trong tư thế tiềm phụcTự nhiên chúng ta sẽ có niềm tin.  Đây là lời dạy của Bụt.  Lưỡi của Bụt rất dài, che được cả tam thiên đại thiên thế giới, vì vậy cho nên những điều Bụt nói đều toàn là sự thật.  Đó là hình ảnh diễn tả trong kinh.  Khi Bụt nói mọi chúng sanh đều có một vị Bụt trong lòng, thì đó là một sự thật, vì vậy trong mỗi chúng ta đều có tiềm phục một đức Quán Thế Âm.  Nếu chúng ta tu tập cho có những điều kiện để hạt giống Quán Thế Âm ở trong ta được tưới tẩm, có không gianthời gian để phát triển, thì đó là một hình thái niệm Bụt, tại vì đức Quán Thế Âm không phải chỉ ở bên trong hay ở bên ngoài ta.  Nói rằng Ngài chỉ có ở bên trong ta thì không đúng, mà nói Ngài chỉ có ở bên ngoài thì cũng không đúng luôn.  Phật tánh có ở khắp nơi.
Khi thấy rõ được sự tiềm phục của Bồ Tát Quán Thế Âm trong ta thì tự nhiên ta sẽ có sự cung kính đối với ngũ uẩn của chúng taChúng ta không còn phiền trách, khinh thường, không còn hờ hững với ngũ uẩn của chúng ta nữa.  Đồng thời nhìn quanh, chúng ta cũng không chê trách, khinh thị, đối xử tệ bạc với những hợp thể của ngũ uẩn chung quanh ta, tức là những bạn tu, những sư anh, sư chị của chúng ta.  Họ đều có đức Quán Thế Âm trong ngũ uẩn của họ, tại vì chúng ta chưa biết cách cho nên chưa đánh động và làm sống dậy được Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong họ.  Người đó có vẻ như khôngtình thương, không có hiểu biết, không biết lo cho những người khốn khổ.  Sự thực là đức Quán Âm trong họ đang ở trong tư thế tiềm phục, và ta chưa đủ khả năng để giúp người bạn kia tiếp xúc được chất liệu cam lộ Quán Thế Âm.  Cho nên khi biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong ta, thì ta cũng biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong người khác.

Tu học là dùng những phương tiện quyền xảo để giúp người và chuyển hóa mình.  Đôi khi chỉ cần nói một câu mà mình có thể đánh động được tình thương và sự hiểu biết trong con người đó, và nhờ vậy mà người đó chuyển hóa.  Mình không cần làm nhiều mà chỉ cần làm đúng.  Làm sao để làm đúng?  Mình phải biết quán sát tâm trạng của người đó, biết người đó đang bị kẹt vào cái gì.  Thấy được rồi thì chỉ cần nói đúng một câu là tháo gỡ được cho người đó.  Đối với người bạn tu của mình cũng vậy.  Họ có thể là khô cằn, họ có thể là đa nghi, nhưng với con mắt trạch pháp của mình, với phương tiện quyền xảo của mình, với ngôn ngữtình thương của mình, mình có thể làm cho mạch tình thương ở trong họ tuôn chảy trở lại.  Đó là một hình thức lễ lạy, biến người đó thành một người bạn đồng hành của mình trên con đường thực tập từ bi.

Chúng ta có thể về Huế để tìm bác Siêu, nhưng chúng ta cũng có thể tìm được bác Siêu ở ngay đây.  Nếu bác Siêu ở trong trái tim của ta đã hiện ra rõ, thì việc đi tìm bác Siêu bên cạnh chúng ta sẽ trở nên rất dễ dàng.

[11] Bài Tán Dương Quán Âm dưới đây đã được thầy Nhất Hạnh
dịch và Sư cô Chân Quy Nghiêm phổ nhạc sau đó:

Trí tuệ bừng lên đóa biện tài,
Đứng yên trên sóng sạch trần ai,
Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh,
Hào quang quét sạch buổi nguy tai,
Liễu biếc phất bày muôn thế giới,
Sen hồng nở hé vạn lâu đài,
Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh,
Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.
[12] Làng Mai đã cống hiến bản dịch bài Quán tưởng như sau:

Trong thể tính chân như
Không chủ thể đối tượng
Đệ tử kính lạy Bụt
Trong tương cảm nhiệm mầu
Biểu hiện khắp mười phương
Như Đế châu ảnh chiếu
Nơi nào cũng có Bụt
Và có con kính lạy

Page 22

Bây giờ chúng ta hãy đi sang phẩm thứ 25, Phẩm Phổ Môn.  Phổ môn là cánh cửa phổ biến, cánh cửa mở ra cho mọi loài đi vào.  Cánh cửa này không chỉ mở ra cho một hay hai, ba hạng người, mà tất cả mọi loài đều có thể đi qua cánh cửa đó để vào Phật Pháp.  Tiếng Anh là Universal Door.  Đây là một Phẩm được tụng đọc nhiều nhất của kinh Pháp Hoa, và được gọi là kinh Phổ Môn [Samantamukha] hay là kinh Quán Âm.

Nhìn vào Bồ Tát Quán Thế Âm [AvalokiteỐvara Bodhisattva] chúng ta thấy Bồ Tát Thường Bất Khinh, chúng ta cũng thấy Bồ Tát Dược Vương, tại vì con đường của tín nghĩa, của ân tình, của sự chung thủy cũng có mặt ở đây.  Bồ Tát Quán Thế Âm đã lập nguyện là khi nào có người nhớ nghĩ tới Bồ Tát và niệm danh hiệu của Ngài, thì Ngài sẽ có mặt ngay trong giờ phút đó.  Điều này có tính cách chung thủy, ân tình.  Any time you need me, I will be there, đó là tiếng nói của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Những lúc anh cần đến tôi, tôi sẽ có mặt ở bên anh, nhất là lúc anh lâm vào tình trạng khó khăn, tuyệt vọng.
Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe những âm thanh của cuộc đời.  Chữ Quán ở đây có nghĩa là để ý tới, nhìn sâu, nhìn kỹ để có thể hiểu.  Hiểu là cái bản chất làm ra sự thương yêu, có hiểu được mới thương.  Nói đến Bồ Tát Quán Thế Âm, là ta nói tới sự thương yêuNam mô Đức Bồ Tát đại bi Quán Thế Âm.  Nếu Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho sự hiểu biết lớn, nếu Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho hành động lớn, thì Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng cho sự thương yêu lớn, cho đại từ, đại bi.

Khi được nghe danh xưng Bồ Tát Quán Thế Âm thì Bồ Tát Vô Tận Ý [AkỒayamati Bodhisattva] lấy làm xúc cảm liền lập tức.  Tên nghe hay quá, Quán thế Âm, lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời.  Danh từ Quán Thế Âm tác động vào trái tim của Bồ Tát Vô Tận Ý, nên Bồ Tát đứng dậy, chắp tay hướng về Bụt hỏi:  Bạch đức Thế Tôn, vì lý do gì mà vị Bồ Tát kia có tên là Quán Thế Âm [Avalokiteshvara]. Định nghĩa của Bụt rất rõ.  Bụt nói:  Tại vì những người khổ đau khi nghe tới danh xưng ấy mà thấy hoan hỉ và lập lại, thì Bồ Tát lập tức tìm tới để giải thoát cho người kia ra khỏi cái trạng huống khổ đau trong giờ phút đó.

Chúng ta đã biết rằng kinh Pháp Hoatính cách đại chúng,  nhưng giáo nghĩa cũng rất thâm sâu.  Nói như vậy có nghĩa là những câu kinh Pháp Hoa có thể hiểu theo tính cách đại chúng, nhưng cũng có thể hiểu được theo tính cách triết học sâu sắc.  Ví dụ với câu:  Nếu có người trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì người đó dù đi vào trong lửa cháy, lửa cũng không làm người đó cháy, tại vì uy lực của Bồ Tát rất lớn lao.  Đứng về phương diện bình dân mà nói, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì khỏi bị tai nạn về lửa, nhưng đứng về phương diện thực tập từ bi mà nói, khi mình có lòng thương ở trong trái tim thì lửa hận thù không cháy lên được, và mình không thấy nóng.  Bồ Tát Thích Quảng Đức khi ngồi xuống giữa ngã ba Phan đình Phùng, tưới dầu xăng lên người, quẹt lên que diêm, và Ngài đã ngồi yên trong lửa đỏ!  Đối với một người khác, chỉ cần phỏng một chút xíu ở tay là đã la trời la đất, nhưng ở đây lửa cháy toàn thân thể, Ngài vẫn ngồi rất yên, rất thẳng.  Nếu không có lòng thương, làm sao ngồi yên và thẳng được như vậy?  Cái biển lửa đó, đối với Bồ Tát, giống như một ao sen, rất là trong mát.  Có lòng thương thì tất cả mọi thứ đều trở thành tươi mát.  Điều này có thể thấy được trong đời sống hàng ngày của chúng ta.  Nếu có tình thương đối với người kia, thì dù có cực nhọc, chúng ta cũng không thấy cực nhọc, trái lại chúng ta lại tìm thấy niềm vui.  Trời rất lạnh và đêm rất khuya, nhưng nếu có một người bạn, một em bé đang bị thương ở bên ngoài, mà bị buộc ngồi ở trong nhà ấm, chúng ta sẽ thấy rất đau khổ.  Ngược lại, tuy trời lạnh cắt da, nhưng nhờ có tình thương, nên khi đi ra cứu giúp cho người đau khổ đó, ta cảm thấy sung sướng nhẹ nhàng hơn nhiều.  Đi vào lửa mà lửa không cháy được có nghĩa là như vậy.

Thầy Quảng Đức là một người tôi rất quen thân, vì ngày xưa tôi đã từng ở chung với thầy trong chùa Long Vĩnh.  Chùa Long Vĩnh có một bộ báo Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ bút, trong đó có nhiều bài nói về nguồn gốc của Phật giáo.  Thầy Long Vĩnh phải đi hành đạo nhiều nơi.  Ngày xưa thầy đã từng làm Kiểm tăng ở vùng Khánh Hòa, và sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại miền Nam.  Hồi đó tôi làm chủ bút tờ báo Liên Hoa.  Có những đêm tôi ngồi làm việc khuya, tự nhiên thấy sau gáy hơi âm ấm, thì ra thầy đi vào rất nhẹ bước, và để tỏ tình thương, thầy đặt lên gáy tôi một chiếc hôn nhè nhẹ, rất dễ thương.  Có nhiều khi chùa hết gạo, và vì các anh em ở trong chùa ít người biết cách làm trụ trì, cho nên nhiều khi tăng chúng đói.  Thầy đi làm Phật sự về là anh em được no đủ lại, cho nên mỗi lần thấy thầy về thì ai cũng mừng.  Đó là thầy Quảng Đức.  Hồi tự thiêu, thầy có để lại một số bài thơ, và ngôn từ của thầy không chứa đựng một chút bực bội hay căm thù nào cả.  Tự hiến mình cho lửa đỏ để mong Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính phủ bừng tỉnh, để đừng đàn áp Phật giáo nữa.  Chết, nhưng chết rất nhẹ nhàng, chết mà chết bằng thi ca.  Ngồi ở ngã tư Phan Đình Phùng, thầy đã ngồi rất thẳng, báo chí đã chụp hình, quay phim và chỉ bốn, năm tiếng đồng hồ sau là hình ảnh thầy ngồi trong lửa đỏ đã được phổ biến khắp cùng trên thế giới, làm cho thế giới chấn động.  Cố nhiên khi có niềm thương ở trong lòng rồi thì ngọn lửa đó không còn nóng nữa.  Có đức Quán Thế Âm trong lòng là mình có sự che chở.

Nếu bị nước lớn làm cho trôi thì xưng danh hiệu Bồ Tát này, liền được chỗ cạn. Tất cả những câu ở trong Kinh Phổ Môn đều phải được hiểu theo tinh thần đó.   Khi mình nghĩ tới Bồ Tát Quán Thế Âm và mình gọi tên của Ngài, thì tự nhiên cái chất liệu của từ bi, của thương yêu lập tức có mặt với mình, và có chất liệu đó rồi thì mình bớt khổ liền lập tứcChừng nào mình còn có chất liệu thương yêu ấy ở trong lòng, thì chừng đó mình sẽ còn không đau khổ.  Đây là điều mà mình có thể chứng thực được.

Chúng ta biết rằng trong giáo lý của đạo Bụt, thương yêu được làm bằng một chất liệu gọi là hiểu biết.  Khi hiểu biết thì không có sân hận oán thù.  Người kia sở dĩ như vậy là tại vì lý do này, lý do kia.  Người kia đã khổ, đã không có cơ hội để học, để hỏi là vì những điều kiện gia đình, điều kiện cha mẹ, điều kiện xã hội đã từng gây nội kết, cho nên người đó mới nói như vậy, làm như vậy.  Khi có hiểu biết rồi thì mình sẽ không khổ và không gây thêm đau khổ cho người đó.  Khi trong lòng có tình thương là ta có hiểu biết, và lúc đó ta sẽ hoặc ít khổ hoặc không khổ.

Ví dụ mình đang ở trong ngục thất hay trong trại học tập cải tạo.  Mình có thể có hận thù rất lớn đối với những người giam cầm mình.  Đồng thời có một người khác cũng cùng hoàn cảnh với mình, nhưng người đó có vẻ thanh thản, người đó có khả năng thở hít khí trời, ngồi thiền, và có khả năng mỉm cười với người cai ngục.  Người đó có đức Quán Thế Âm ở trong lòng.  Người đó hiểu được rằng, người cai tù đối xử với mình một cách tệ hại như vậy là vì ông ta là nạn nhân của sự giáo dục và tuyên truyền mà ông ta đã tiếp nhận, và ông ta đã thấy mình như một kẻ thù.  Cái nguyên nhân đưa tới vô minhhận thù đó, mình phải trông thấy, và khi thấy được rằng ông ta là nạn nhân của bao nhiêu sự tuyên truyền, lường gạt và ngu dốt đó, thì mình sẽ thương hại ông ta thay vì thù ghét ông ta.  Như vậy hai người cùng ở trong một hoàn cảnh của trại học tập cải tạo, mà một người nuôi hận thù còn một người nuôi tình thương.  Kết quả là người nuôi hận thù sẽ đau khổ hơn người nuôi tình thương gấp bội.  Người nuôi tình thươnghy vọng một ngày nào đó sẽ cảm hóa được người cai ngục, một ngày nào đó sẽ có thể nói được một câu, hay nhìn được một cái nhìn có thể chuyển hóa được người cai ngục.  Người nuôi hận thù thì không bao giờ có cơ hội làm được chuyện đó, và trong lòng thì luôn luôn đau khổ.  Thành ra nếu mình hiểu nghĩa chữ thương đúng như trong tinh thần của đạo Bụt thì mình biết rằng, hể có thương thì có hiểu, mà có hiểu thì có thể tha thứ được.  Có những đứa bé vì dại khờ, đã nói với cha mẹ những câu giống như là bất hiếu, nhưng cha mẹ vẫn không giận vì thấy chúng còn nhỏ quá.  Tất cả chúng ta trong thời thơ ấu, không ai tránh được sự dại dột đó.  Mỗi khi giận, ta thường nói những câu thiếu tình, thiếu nghĩa với cha mẹ, nhưng cha mẹ chúng ta luôn luôn tha thứ, là tại chúng ta còn nhỏ dại quá.

Như trong câu chuyện phim The Yearling, em bé thương con nai, nhưng khi con nai lớn lên, phá hoại hết mùa màng thì cha mẹ em buộc em phải bắn chết con nai ấy.  Em không bắn và rốt cuộc thì mùa màng bị phá hoại nhiều lần.  Vì vậy mà bà mẹ buộc lòng phải tự tay cầm súng bắn chết con nai!  Cảm động nhất là đoạn bà biết con trai mình sẽ rất đau khổ, nhưng bà biết nếu mình không bắn chết con nai thì cả nhà sẽ đói.  Trồng bắp hai ba mùa mà con nai, vì bản tính loài vật, đã phá hết.  Khi biết con nai của mình đã chết, em bé khóc, nổi giận lên và em đã nói một câu như không có một chút tình nghĩa nào hết với mẹ:  ỘI wish you were dead!Ợ Theo em thì ba mẹ em đã làm em khổ, ba mẹ đã giết đối tượng thương yêu của em nên em không thể nào hiểu, không thể nào còn thương ba mẹ được nữa.  Nhưng cha mẹ em không buồn giận vì biết con mình đang đau khổ đến cùng cực.  Nông trại của ông bà rất xa xóm làng nên ở đây em không có bạn, con nai là người bạn duy nhất mà em đã nuôi từ hồi nhỏ, cho nên giết con nai là làm cho em mất hết đối tượng tình thương, làm cho trái tim của em rớm máu.  Như vậy người kia có thể làm những điều dại dột, người kia có thể làm khổ mình bằng ngôn ngữ, hành động hay tư tưởng, nhưng nếu mình hiểu được thì mình sẽ không đau khổ, mình sẽ có khả năng tha thứ.  Và người có hiểu biết thì có thương yêu, nghĩa là có đức Quán Thế Âm trong lòng.  Mà khi đã có Ngài ở trong lòng rồi thì thế nào cũng cảm thấy nhẹ nhàng, ít khổ đau, tại vì đức Quán Âm là chất liệu cam lộ của tình thương, của sự mát mẻ thanh lương.

Trang 509:  Nếu chúng sanh nào có nhiều dâm dục quá mà thường cung kính thực tập, trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát, thì tính nhiều dâm dục sẽ được chuyển hóaNếu không hiểu kinh, nếu đọc kinh với những nhận biết thông thường, thì chúng ta sẽ không hiểu được những câu như thế này.  Tại sao khi trong người của mình có nhiều năng lượng về sinh lý mà niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì có thể chuyển hóa được năng lượng đó?  Thật ra thì cũng dễ hiểuChúng ta đã học rằng cái gọi là năng lượng sinh lý, sexual energy, chẳng qua chỉ là một loại năng lượngNăng lượng tiêu cực hay tích cực thì cũng chỉ là năng lượng mà thôi.  Chúng ta ai cũng có năng lượng cả.  Là người trẻ, lớn lên thế nào cũng có nhiều năng lượng, nếu không thì chúng ta làm sao học hỏi, làm việc, theo đuổi lý tưởng được?  Nhưng nếu ta không biết quản lý năng lượng thì những năng lượng ấy có thể đổ dồn về một phía, và nó sẽ bức bách ta.  Vì vậy vấn đề ở đây là phương cách quản lý năng lượng, đừng để cho năng lượng dồn về một phía tiêu cựcChúng ta phải sử dụng năng lượng để thực hiện những điều mà chúng ta cần thực hiện.  Chuyện học hỏi, chuyện tu tập, chuyện giúp đời, tất cả đều cần năng lượngNếu không làm những việc đó đúng mức thì chúng ta sẽ có dư thừa năng lượng, và năng lượng này sẽ đi về phía tạo nên nhu yếu dâm dục.  Nếu biết sử dụng thì năng lượng sẽ phục vụ chúng ta, phục vụ những người mà chúng ta muốn phục vụ.  Ngược lại nếu chúng ta không biết quản lý thì cái năng lượng đó sẽ dồn về phía sinh lý làm cho chúng ta bị bức bách.  Đó là đứng trên phương diện quản lý năng lượng của con người mà nói.

Đứng trên phương diện hiểu và thương, thì chúng ta thấy rằng cái hiểu và cái thương có thể mang đến cho chúng ta tinh thần trách nhiệm.  Nếu quả thật có hiểu và có thương thì chúng tatinh thần trách nhiệm rất lớn, và tinh thần này sẽ bảo vệ cho chúng taVấn đề dâm dục cũng như tất cả các vấn đề khác, nếu không phải thời, không đúng pháp, có thể gây ra đau khổ.  Khi hai người trẻ yêu nhau, họ muốn ngồi bên nhau, muốn gần gũi nhau, rồi đi đến chỗ hòa hợp giữa hai thân thể.  Đó là chuyện rất tự nhiên, không có gì lạ lùng hết.  Nhưng nếu có hiểu và có thương, thì họ sẽ có tinh thần trách nhiệm.  Họ biết rằng nếu không giữ gìn cho người mình thương, nếu có chuyện gì xảy ra trước khi làm đám cưới, thì sẽ có rất nhiều người đau khổ, trong đó có người mình thương, có gia đình cả hai bên, và có cả mình nữa.  Cho nên vì thương người đó mà mình phải bảo vệ cho người đó.  Cả hai người cùng phải giữ gìn cho nhau.

Trong truyện Kiều, ngày gia đình đi ăn cỗ, nàng Kiều tìm cách ở lại nhà để có dịp liên lạc với người yêu bên láng giềng.  Ruốt cuộc hai người được gặp nhau, hai người đã được uống trà, làm thơ với nhau, cắt tóc trộn với nhau và nhìn trăng thề nguyền cùng nhau.  Đó là những chuyện mà người thương nhau thường hay thực tập.  Sau khi Thúy Kiều chơi đàn thì chàng Kim muốn đi xa hơn cái ranh giới đã định cho hai người trước khi cưới nhau.  Thúy Kiều ngăn lại.  Cô nói rằng, nếu chúng ta đi xa hơn thì sự kính trọng lẫn nhau sẽ mất, và điều đó sẽ có hại cho tình yêu của chúng ta.  Khi Kiều nói lên câu đó với tâm trạng bình thản, thức tỉnh và ngọt ngào thì chàng Kim ngưng lại liền lập tức, và tự nhiên lòng thương mến, quý trọng của chàng đối với người con gái tăng lên gấp bội.  Đây là cái hiểu, hiểu rằng nếu mình không ngưng ở chỗ đó thì thương nhau trở thành hại nhau, mình làm cho hư nát cái tình yêu mà cả hai cùng trân quý.  Cho nên cái hiểu đưa đến cái thương, và cái thương này mới đích thật là thương, vì nó được làm bằng chất liệu của hiểu.  Cái thương này bảo vệ cho mình, cho người mình yêu, cho cha mẹ mình, cho thầy bạn mình.

Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là ta niệm sự hiểu biết, niệm sự thương yêu, nhờ đó mà năng lượng dâm dục sẽ biến thành năng lượng hiểu biết, năng lượng thương yêu.  Do đó mà tâm ta được điều phục và thân ta được hộ trì. Rất rõ ràng, không có gì khó hiểu cả.  Dầu người con trai đang bị người con gái thu hút như một mảnh nam châm, và người con gái cũng bị người con trai thu hút lại như thế, nhưng nếu những người ấy có cơ hội thực tập hiểu biết, thì họ sẽ thấy rất rõ được hiệu quả việc làm của họ, và họ sẽ biết rằng nếu khôngtinh thần trách nhiệm, nếu không kính trọng lẫn nhau thì người này sẽ làm cho người kia khổ và tất cả sẽ bị tan nát.  Cho nên giữ giới không phải là tuân theo những sự ràng buộc, những điều ngăn cấm, làm như vậy chưa phải là giữ giớiGiữ giớithực tập chánh niệm, giới mà không làm bằng chánh niệm thì giới đó chỉ là sự ràng buộc, cấm cản, khổ đau.  Giới thật được làm bằng chánh niệm, và chánh niệm đưa tới cái hiểu và cái thương, vì vậygiữ giới rất dễ.  Mình không muốn làm khổ người kia, không muốn làm khổ mình, không muốn làm khổ cộng đồng của mình, cho nên mình giữ giới.  Thương mà giữ giới chứ không phải vì bị bắt buộc mà giữ giới.  Có đức Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong lòng thì mình sẽ có rất nhiều hạnh phúc khi giữ giới.

Niệm đức Quán Âm sẽ đưa tới sự hiểu biết, lòng thương yêutinh thần trách nhiệm, nhờ vậy mà ta đối trị được với dâm tâm, và có khả năng chuyển hóa năng lượng dâm dục thành ra những năng lượng lành mạnh hơn.

Chúng ta đi xuống một dòng nữa:  Nếu những người nào có nhiều oán hận và nếu biết thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì sẽ được giải thoát ra khỏi sân hận. Khi hiểu được vấn đề đa dâm rồi thì ta sẽ hiểu được vấn đề đa sân.  Học đạo Bụt chúng ta biết rằng giận hờn là một ngọn lửa có thể đốt cháy tất cả mọi công trình của chúng taCông trình của chúng ta như là những khu rừng lớn, phải trồng trỉa, vun bón hàng chục năm, nhưng một đóm lửa giận hờn nhỏ, cũng có khả năng đốt thiêu rụi cả khu rừng.  Chúng ta biết rằng muốn xử lý cái giận, ta có thể thực tập chánh niệm để đưa Bồ Tát Quán Thế Âm vào lòng.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một thứ nước Cam lộ rất tươi mát, thanh lương, và nước đó có công năng dập tắt ngọn lửa hận thù trong tâm ta.  Có đức Quán Thế Âm Bồ Tát tức là có sự hiểu biết, có sự thương yêu, có tinh thần trách nhiệm, do đó khi niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì ta dịu xuống, ta sẽ không nói ra những câu nói có thể làm đổ vỡ đó, những câu nói có thể gây nội kết và tạo ra đau khổ dài dài cho những người chung quanh.

Ngu si thì cũng vậy.  Ngu si tức là thiếu hiểu biết.  Trong lúc ta niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm, ánh sáng của hiểu biết có dịp đi vào, nên dần dần ta bớt ngu si.  Trước đây chúng ta đã học rằng niệm đức Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ không bị lửa, bị nước làm hại, nay chúng ta lại học thêm được rằng niệm sức mạnh của Ngài, ta cũng sẽ không bị tham, sân, si làm hại.  Vì vậy cho nên kinh Pháp Hoa đi từ thấp lên cao, cũng giống như những bãi biển có cát, từ từ đi xuống sâu vào biển.  Cái tài năng của kinh Pháp Hoa là ở chỗ đó, tất cả mọi giới đều có thể hiểu được kinh Pháp Hoa.

Trong số những người niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm, có rất nhiều người nghĩ rằng niệm là để tránh khỏi những tai nạn từ bên ngoài đưa đến.  Họ không biết rằng những năng lượng tham dục, hận thù, và ngu si của mình là những tai nạn rất lớn do chính mình tạo ra cho mình.  Trong kinh Pháp Hoa, tham, sân, và si đã được diễn tả trong ba câu liên tiếp.  Đó là ba tai nạn căn bản của tất cả các tai nạn.

Chúng ta biết rằng nếu ta có một người thương, người đó có thể hoặc là mẹ, là cha, là thầy hay là bạn của ta, mỗi khi có vấn đề khó khăn, khổ đau, ta nhớ đến người đó, gọi tên người đó và ta thấy đỡ khổ.  Người đó chưa phải là một vị Bồ Tát nhưng khi hình bóng của người đó hiện ra trong trái tim của ta, hoặc khi nghe tên của người đó, ta đã thấy bớt khổ, huống hồ đây không phải là một người thường, đây là một người mà hạnh nguyện đã đi đến chỗ cao siêu, cho nên mỗi khi chúng ta tiếp xúc được với chất liệu của Quán Thế Âm, nghe tới danh hiệu của Ngài, thì phép lạ hiển hiện trong lòng ta, và nỗi khổ niềm đau của ta tan biến một cách rất mầu nhiệm.  Đây là một chuyện rất khoa học, không có gì là mê tín dị đoan.

Khi ta tạo dựng ra một trung tâm tu học như Làng Cây Phong, Làng Mai, hay Tu viện Kim Sơn, nếu chúng ta đã từng được sống ở đấy những giây phút hạnh phúc, đã từng tiếp xúc với những người an lạc, hiền lương, thì trung tâm đó trở thành một kinh nghiệm, một hình ảnh rất dễ thương trong tâm ta.  Dù sau này có đi đâu, có lạc lõng tới phương trời nào, thì mỗi khi nghe tên của trung tâm đó, hoặc thấy được hình ảnh của cảnh cũ người xưa, thì tuy là ta đang không ở tại đó mà tâm ta đã dịu lại.  Nghe tên trung tâm đó là ta hình dung được những cây thông, cây sồi, những khuôn mặt từ bi, và tâm ta thấy rất an lạc, vui mừngQuán Thế Âm Bồ Tát cũng vậy, Ngài là một hải đảo rất xanh tươi rất dịu hiền, nên mỗi khi chúng ta hình dung được Ngài, chúng ta nghe được tên Ngài, thì tự nhiên trong lòng ta thấy nhẹ nhàng, thoải mái, và những khổ đau của ta dịu bớt đi rất nhiều, như một phép lạ mầu nhiệmVì vậy niệm Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vấn đề mê tínTâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như mang hình ảnh bà mẹ dịu hiền trong tâm ta, mỗi khi nhớ tới là ta thấy êm dịu trong lòng.  Người nào mà ta thương yêutin cậy, đều có ảnh hưởng như vậy trên tâm của ta cả.

Bồ Tát Quán Thế Âm là ai?  Bồ Tát Quán Thế Âm là người thương, The person who loves, who knows how to love because she understands. Đây là một hình tượng, một nhân vật biểu hiện cho Hạnh môn, cho công dụng của kinh Pháp HoaBồ Tát Quán Thế Âm tới sau Bồ Tát Thường Bất Khinh, tới sau Bồ Tát Dược VươngDiệu ÂmBồ Tát Quán Thế Âm là một hình ảnh tuyệt diệu của sự thực tập, và chúng ta có thể học được, thực tập được những điều mà Bồ Tát thực tập:  Lắng tai nghe để hiểu và để có mặt.  Sự có mặt đó không phải là một sự có mặt tầm thường.  Sự có mặt đó có tính cách chớp nhoáng, ngay trong giây phút ấy, tại vì tâm ta đi rất nhanh.  Mỗi khi chúng ta niệm tưởng đến đức Quán Thế Âm thì Ngài có mặt ngay tại lúc đó, không chậm một giây phút nào cả.  Khi tâm ta niệm đức Quán Thế Âm, thì chất liệu Quán Thế Âm có mặt ngay.  Niệm ở đây là chánh niệm, là nhớ nghĩ, là tỉnh thức.  Niệm luôn luôn có đối tượng, ví dụ khi mình niệm hơi thở, hay mình niệm Bụt, thì hơi thở và Bụt là những đối tượng có mặt tức khắc.  — đây đối tượng là Quán Thế Âm.

Có thể nói rằng chúng ta ai cũng đã từng thương và cũng đã biết rằng thương không có nghĩa là chỉ ngồi đó để hưởng sự ngọt ngào.  Thương là một sự thực tập để đem lại niềm vui cho nhiều người, trong đó có chính bản thân ta.  Khi một người cần đến ta, thường thường ta tìm cách để đến với người đó.  Chúng ta có thể dùng điện thoại, dùng xe cộ, thư từ để có mặt với người đó.  Thấy người đó khổ là tự nhiên chúng ta muốn làm một cái gì để chứng tỏ sự có mặt của ta.  Vì mình là người thương, nên mình muốn làm việc đó.  Khi có ý hướng ấy thì tâm ta đã có chất liệu của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Ta cần làm cho chất liệu ấy lớn lên thôi.  Ta thấy khoảng cách giữa ta và đức Bồ Tát không quá lớn, tại ta cũng đã có hạt giống của thương yêu, của chăm sóc, của sự muốn có mặt.  Thương ai thì muốn có mặt với người đó khi người đó đau khổ.  Cho nên lắng tai nghe, tìm tới là những chất liệu có sẵn trong lòng của tất cả chúng taBồ Tát Quán Thế Âm thực hiện được cái tam muội gọi là Hiện Nhất Thiết Pháp Thân, cho nên Ngài có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, còn chúng ta thì chỉ có thể có mặt ở một nơi thôi.  Nhưng nếu quý vị biết thực tập thì quý vị cũng có thể có mặt ở nhiều nơi trong một lúc.  Một người đàn bà Việt-nam đảm đang cũng là một người đang thực tập hạnh Quán Thế Âm.  Một mặt mình muốn làm cho chồng có hạnh phúc, mặt khác mình muốn làm cho con hạnh phúc, dù chồng đang đi làm việc xa, dù con đang ở nội trú trong một trường đại học.  Rồi đến gia đình chồng.  Mình muốn cho mẹ chồng được no ấm đầy đủ, vì hạnh phúc này tạo ra hạnh phúc cho chồng mình và cho mình.  Vì vậy, những bà mẹ đó, tuy là người trần mắt thịt, nhưng nhìn cho kỹ thì ta thấy bà có rất nhiều cánh tay, tay này với sang bên Đông, tay kia với sang bên Tây.  Đàn ông cũng có thể thực tập như thế.  Có nhiều người biết lo cho hàng trăm người trong một lúc.  Họ muốn có mặt đồng thời ở nhiều nơi.  Đứng về phương diện hình thức mà nói thì ta chỉ có thể thấy được người đó ở một nơi thôi, nhưng trên thực tế thì người đó có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, và chúng ta phải có một máy chụp hình rất đặc biệt, mới có thể chụp được sự thực đó.  Thành ra phân biệt rằng chúng ta là người phàm, còn Bồ Tát là một vị thánh, và sự khác biệt giữa chúng taBồ Tát là một sự khác biệt tuyệt đối, là không đúng.  Bởi vì cái ước muốn, cái phương thức của chúng ta cũng giống như của Bồ Tát, nhưng tại sự thực tập của chúng ta chưa đến nơi đến chốn, thành ra mức độ thực hiện của chúng ta còn nhỏ hơn của Bồ Tát nhiều đấy thôi.  Sự thực thì tâm chúng ta có đủ các hạt giống đó.  Ai cũng muốn có mặt đồng thời ở khắp nơi để làm vơi nỗi khổ của những người mình thương, vì vậy cho nên phương pháp hiện thânphương pháp không phải chỉ có Bồ Tát Quán Thế Âm mới có thể làm, chúng ta ai cũng muốn thực tập và có khả năng làm được việc đó cả.

Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Bụt:  Bạch Thế Tôn, Bồ Tát Quán Thế Âm dạo chơi trong cõi ta bà như thế nào? Chữ dạo chơi này chúng ta đã học rồi.  Dạo chơi tức là không hấp tấp.  Bạch đức Thế Tôn, trong khi Bồ Tát Quán Thế Âm qua lại một cách thoải mái trong cõi ta bà, thì Bồ Tát thực tập việc hiện thân độ người như thế nào?  Bụt trả lời rằng: Khi cần hiện thân Bụt, thì Quán Âm Bồ Tát hiện thân Bụt, để đến với người cần mình. Nghĩ cho kỹ thì mình cũng làm được chuyện này trên một bình diện hạn hẹp hơn.  Mỗi khi mình ngồi uống trà trong tỉnh thức, người ta nhìn mình, thì người ta được độ.  Khi ta có uy nghi, an lạc, thì Bụt có mặt ở trong ta, người kia nhìn ta người kia cũng được chuyển hóa, và trở về với chánh niệm.  Điều đó ta làm được và làm được đến một mức độ nào đó.  Chiếc lá mùa Thu khi rơi xuống, nó cũng có thể rơi một cách rất thanh thản, như lượn múa trong không gian, và cũng thực hiện một hóa thânMùa Xuân, chiếc lá ở trên cành, ca hát và vẫy tay đón nhận ánh sáng, nó cũng có thể độ mình, độ một cách khác.  Cuối Thu, nó rơi xuống và độ mình một cách khác.  Khi chiếc lá đã nằm trên mặt đất, và chân mình dẫm lên, nó độ mình một cách khác nữa.  Chỉ cần mở mắt ra, nhìn cho sâu sắc là mình thấy được những hình thái hiện thân khác nhau của chiếc lá.  Ai nói rằng Bụt và Bồ Tát đã nhập diệt?  Chỉ cần mở mắt ra là thấy được Bụt và Bồ Tát ở ngay bên mình.

Bụt nói tiếp: Nếu cần hiện thân Duyên giác thì Bồ Tát hiện thân Duyên giácDuyên giác là người tu, sống một mình, thực tập quán chiếu về nhân duyên và có thể giác ngộNếu cần hiện thân Thanh văn, thì hiện thân Thanh văn.  Có những người cần một vị Thanh văn để tu học theo, họ chưa có khả năng hay chưa muốn gặp các vị Bồ TátVì vậy khi gặp một vị Thanh văn, ta đừng nói ông chỉ là người ưa pháp nhỏ thì mình sẽ mang tội.  Vì trong vị Thanh văn ấy có một hạt giống Pháp lớn đang sẵn sàng nẩy mầm.  Điều này ta phải thực tập một cách tinh chuyên.  Tiếp chuyện với các thầy Nam tông, với các thầy Bắc tông, với các Phật tử Tây tạng, ta phải cẩn thận, họ đang tu tập như vậy, có thể họ đang là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đừng chê họ tụng đọc như thế này, đốt nhang như thế kia.  Đôi khi hương họ đốt có mùi mình không ưa thích, nhưng có thể họ phải dùng loại hương ấy mới độ được người ở vùng ấy.

Nếu cần sử dụng thân của Phạm Vương, thì hiện thân Phạm Vương, nếu cần dùng thân Đế Thích thì dùng thân Đế Thích. Tiếp đó, ta thấy Bụt nêu ra một số các thân mà Bồ Tát Quán Thế Âm thường hóa hiện để độ người.  Trong đó có thân của vị Tiểu Vương, tức là một vị vua nhỏ như là Vua Tịnh Phạn [Suddhodana], hay thân của một vị trưởng giả, tức là một businessman, Bồ Tát Quán Thế Âm đôi khi hiện thân thành một nhà doanh thương.  Nói chuyện với nhà doanh thương, nếu ta thấy ông không bị kẹt vào danh lợi và quyền hành, thì ta nhận ra đó là Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiệnNếu cần dùng thân cư sĩ, Bồ Tát hiện thân cư sĩ.  Nhìn vào một vị cư sĩ, ta có thể thấy đó là đức Quán Thế Âm Bồ Tát.   Ta phải có thái độ cung kính đúng mức, dù ta đã là người xuất gia và lên tới bực vị Hoà Thượng.

Nếu cần phải hóa hiện ra thân một vị Tể tướng, một vị Bộ trưởng thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra làm Tể tướng, Bộ trưởng.  Nếu cần hiện thân một vị Bà la môn thì đức Quán Âm hiện ra Bà la mônNếu cần hiện ra thân khất sĩ, nữ khất sĩ, cận sự nam, cận sự nữ mới độ người được, thì Quán Thế Âm Bồ Tát hiện ra khất sĩ, khất sĩ nữ, cận sự nam, cận sự nữ để mà độ đời. Khi đọc những câu này, chúng ta thấy rất rõ là chúng ta không nên có mặc cảm tự tôn hay tự ti, tại vì dưới hình thức nào, với ngôi vị nào, chúng ta cũng có thể thực tập hạnh của đức Quán Thế Âm.  Chỉ cần có tình thương trong lòng thì khất sĩ cũng được, khất sĩ nữ cũng được, cư sĩ nam cũng được, cư sĩ nữ cũng được, em bé cũng được, tất cả mọi giới, nếu có tình thương là có thể độ đời.  Mang tâm trạng kỳ thị cao thấp, là chứng tỏ chưa có sự có mặt đích thực của chất liệu Quán Thế Âm trong tâm của chúng ta.

Nếu cần hiện thân phụ nữ thì hiện thân phụ nữ để thuyết pháp.  — các nước Đông Nam Á người ta thường hình dung đức Bồ Tát Quán Thế Âm như một phụ nữ.  Người phụ nữ diễn tả được tình thương dễ dàng hơn người nam, tại vì trong nền văn minh Khổng Mạnh người đàn ông có vẻ hơi khô khan.  Thương nhưng không nói ra, nghĩ rằng nói ra thì mất linh, nên chỉ để tình thương kín đáo trong tâm.  Vì vậy mà nhiều lúc đứa con nghi ngờ, không biết cha mình có thương mình thật không, nếu thương sao mà khuôn mặt lạnh như tiền như thế được?  Ngược lại, người phụ nữ được coi là giới biết biểu lộ tình thương.  Do đó, đứng về phương diện văn hóa mà xét, chúng ta hiểu được tại sao người Á Châu lại chọn lựa hình tướng của người phụ nữ để đại diện cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Trên phương diện hình thức, người phụ nữ diễn tả được tình thương của đức Quán Thế Âm hay hơn người nam giới.  Nam giới hãy cẩn thận, hãy quán chiếu, hãy học hỏi để biểu lộ tình thương của mình.

Nếu cần hình thức của một chú bé hay một cô bé thì đức Quán Thế Âm hiện ra một chú bé hay một cô bé để độ đời.  Nếu cần hóa thân làm loài Trời, loài Rồng, loài Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, loài nhân hay loài phi-nhân, để độ người, thì Bồ Tát liền hiện ra những hình thái đó. Nói tóm lại thì Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa hiện ra bất cứ một hình thái nào để cứu độ, và đôi khi những hình thái đó trông rất dễ sợ.

Tình thương có rất nhiều mặt, nhiều khi nó không hẳn phải là ngọt ngào, không hẳn phải là dịu dàng mà vẫn là tình thương.  Tại các chùa ở Việt-nam, ta thấy có ông Thiện, và ông Ác.  Ông Thiện thì khuôn mặt rất hiền, con nít ưa tới gần, nhưng ông ác thì mình ngán lắm.  Quán Âm Đại Sĩ nhiều khi hiện ra làm Diện Nhiên Vương, có khuôn mặt rất dữ, mắt trừng đổ lửa, tay chỉ chỏ dọa nạt.  Diện Nhiên Vương là một hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Vì muốn cho chúng sanh sợ mà đừng làm điều bậy nên Ngài trừng mắt dọa nạt.  Sự dọa nạt này, không bắt nguồn từ sự giận dữtrái lại đã phát sinh từ lòng thương không bến bờ.

— Việt-nam, trên con đường xe hơi đi từ Sàigòn lên Đà lạt, có một đoạn đi qua đèo rất nguy hiểm, nhiều xe hơi rơi xuống đèo, nhiều người đã bị mất mạng.  Tại đó, người ta có dựng lên một cái miếu để thờ các oan hồn.  Trong giới lái xe có những người có tu học, họ biết chỗ ấy là chỗ nguy hiểm.  Khi lái xe đến đó, tự nhiên họ phát khởi chánh niệm, và chỉ cần thực tập chánh niệm là họ đưa lại sự an toàn cho họ và cho hành khách trên xe.  Nhưng có những người lái xe không thực tập chánh niệm, họ nghĩ rằng nếu đi ngang qua đây mà không có sự cung kính thì có thể những vị thần hay những oan hồn sẽ làm cho họ mờ mắt, và xe sẽ rớt xuống đèo.  Có những người cứng đầu giống như những tay anh chị Cầu Muối, không tin ai hết, không kính nể ai cả, nhưng khi đi ngang qua ngọn đèo này, các vị đó cũng kính cẩn dỡ nón ra, không dám hỗn hào.  Đó là một hình thái hóa độ của đức Quán Thế Âm.  Ngài dọa rằng nếu anh không đàng hoàng thì anh sẽ rơi xuống đèo, nhờ vậy mà Ngài cứu được người đó và cứu luôn được những hành khách trên xe.  Tình thương có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức, đôi khi bên ngoài không có vẻ dịu dàng nhưng bên trong chứa một nội dung rất ngọt ngào.  Người Việt có câu:  Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi,  vì thương mà phải rầy rà.

Sang trang 514:  Này Bồ Tát Vô Tận Ý, vị Bồ Tát có tên là Quán Thế Âm đó đã thực hiện được bao nhiêu là công trình như tôi đã nói, đã sử dụng những hình thái khác nhau để rong chơi trong các cõi nước, mà độ thoát cho các loài chúng sanh, vì vậy quý vị nên cung kính cúng dường vị Bồ Tát đó. Trong những trường hợp nguy hiểm và có người hay hoảng sợ lo âu, Vị Bồ Tát đó thường ban cho họ một sự không sợ hãi, một sự an tâm, vì vậy mà vị Bồ Tát đó được dâng tặng một danh hiệu rất đẹp, đó là người thực tập Vô-úy-Thí.  Vô-úy-Thí là ban tặng cho món quà không sợ hãi.  Sợ là một tâm trạng làm cho chúng ta khổ đau, làm ta mất an lạc rất nhiều.  Sợ hiện tại, sợ tương lai, sợ người, sợ mình, sợ tất cả mọi thứ.  Sống trên đống lửa thì không thể nào có hạnh phúc được.  Sợ người đó không còn thương mình nữa, sợ người đó thù oán mình, sợ người đó đang tìm cách tiêu diệt mình, cái sợ đó làm cho mình mất hết niềm vui sống của chính mình.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một người có cái hạnh đem đến cho chúng ta món quà quí hóa đó, món quà Vô-úy.
Trong đạo Bụt có ba loại quà: Quà vật chất; quà phương pháp, ví dụ dạy cho ta một nghề thì đó là quà phương pháp, chỉ cho người ta cách tu học thì đó là quà pháp; và quà thứ ba là làm cho người ta không sợ.  Kỳ thực, khi biết niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm thì mình hết sợ.  Món quà này ta nhận được liền.  Bài thực tập Quay về nương tựa hải đảo tự thân, Chánh niệm là Bụt, Soi sáng xa gần…, cũng là một món quà Vô-úy.  Những lúc ta hoảng hốt, không biết phải làm gì, chúng ta bất an, thực tập bài đó là phương cách hay nhất mà chúng ta có thể làm trong giây phút ấy.  Không có cái gì hay hơn là trở về nương tựa, tức là thực tập quy y, dùng hơi thở vào, ra, đem lại cho mình sự an lạc, thanh tịnh, vì vậy, đó cũng là một món quà chứa đựng chất liệu vô úy.

Ví dụ ta đang ở trên một chiếc máy bay và máy bay đang gặp khó khăn, không biết có đáp xuống được an toàn hay không.  Lúc đó nếu ta cuống lên, la hét, khóc than, thì hành động ấy chỉ có thể làm hại cho mình, và làm cho người khác mất tinh thần.  Ngược lại nếu lúc đó ta biết thực tập quy y, thì tự nhiên ta đem lại cho tâm hồn ta sự vô úy, ta giúp cho ta thanh tịnh, giúp cho người khác thanh tịnh và trong trạng thái thanh tịnh đó, ta sáng suốt hơn, ta biết cần làm gì, và không được làm gì để cho tình trạng sáng sủa thêm ra.  Đó là những điều mà Bụt đã nói ra để trả lời câu hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ý.

Chúng ta có một bài tán đức Quán Thế Âm cần dịch ra tiếng Việt, tại vì bản chữ Nho hay lắm:

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài,
Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai,
Tường quang thước phá thiên sinh bịnh,
Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai,
Thúy liễu phất khai kim thế giới,
Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài,
Ngã kim khể thủ phần hương tán,
Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tàiTrí tuệ rộng và sâu, từ trí tuệ đó mà phát hiện một biện tài lớn.  Biện tài là khả năng có thể diễn tả được những cái khó diễn tả, có thể chinh phục những người khó chinh phục.  Trí tuệ là chất liệu ở bên dưới, còn biện tài là nghệ thuật ở bên trên.

Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai: Đứng một cách trang nghiêmtuyệt diệu trên các đợt sóng.  Đây là một hình ảnh rất đẹp mà các nghệ sĩ thường dùng để diễn tả đức Quán Thế Âm.  Đứng trên những làn sóng mà không bị những làn sóng kia xô đẩy, làm chìm đắmTuyệt trần ai có nghĩa là không dính một mảnh bụi nào, rất tinh khiết, nhẹ nhàng.  Tuy đứng trên sóng sinh tử nhưng không bị chìm đắm trong sóng sanh tử.

Tường quang thước phá thiên sinh bịnh: Tường quang là ánh sáng lành của đức Quán Thế Âm, có khả năng công phá và chữa lành được muôn ngàn bệnh tật.  Bệnh khổ là một gánh nặng của kiếp người, và Quán Thế Âm là người có thể dùng cái hào quang của mình mà trị liệu tất cả những bệnh khổ đó.

Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai: Nước cam lộ trượng trưng cho tình thương của Bồ Tát có thể làm tiêu tán những tai nạn bị dồn chứa trong vạn kiếp.  Chất liệu cam lộ, tiếng Phạn là Amrta, phiên âm là A-mật-ri-đa, có thể làm tiêu trừ tai họa muôn ngàn kiếp.

Thúy liễu phất khai kim thế giới: Với cành dương liễu xanh biếc, Bồ Tát phẩy một cái là mở ra một thế giới hoàng kim.  Phất nghĩa là phẩy, như trong chữ phất trần, phẩy bụi.  Thế giới hoàng kimthế giới của hạnh phúc.

Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài: Khi đóa sen hồng mọc vượt lên, thì Ngài làm xuất hiện một tòa lâu đài bằng ngọc.  Tòa lâu đài này là tòa lâu đài của giác ngộ, của thế giới cực lạc.  Người ta thường nói kim thế giới, ngọc lâu đài, nghĩa là thế giới vàng, lâu đài ngọc.

Ngã kim khể thủ phần hương tán: Giờ đây con cúi đầu xuống, đốt hươngca ngợi Ngài.  Phần hương tức là đốt hương, tán là ca ngợi.

Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai: Xin quay mặt về phía nhân gianhiển hiện pháp thân của Ngài để chúng con được thấy.  Xin hướng về cõi người và hiện rõ chân thân của Ngài cho chúng con thấy.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bây giờ hiểu nghĩa rồi, ta hãy cố làm một bài dịch cho hay, và nếu có thể thì đặt thành nhạc luôn[11] .

Một bài tán khác cũng đã được dịch và đặt thành nhạc mà lát nữa đây Sư cô Bảo Nghiêm sẽ hát cho chúng ta nghe.  Đây là một bài Thi tán mà tôi được nghe từ hồi còn nhỏ và rất thích.  Mỗi lần nghe là cảm động, nhưng chưa bao giờ có dịp dịch ra quốc ngữ.  Mùa hè năm rồi, có Sư chú Nguyện Hải làm thị giả, ở Cốc Ngồi yên.  Thầy trò có được vài phút rãnh rỗi, tôi ngồi trên võng và lần đầu tiên dịch bài đó ra tiếng Việt.  Nguyên văn bài tán chữ Hán là:

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn,
Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn,
Dương chi nhất đích chân cam lộ,
Tán tác sơn hà đại địa Xuân.

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn: Biển động, và tiếng hải triều vang dội thành ra kinh Phổ Môn, mở rộng ra một cánh cửa để mọi người có cơ hội hiểu biết Pháp mầu.  Câu này rất hùng.

Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn: — giữa chín bông sen kia, lý tức là ở giữa, ở trong lòng, xuất hiện một em bé.  Em bé ở đây tức là sự trinh nguyên, là cái sơ tâm.  Một hình ảnh của sự giải thoát, sự giác ngộ, sự không lo lắng, không u sầuHình ảnh em bé được sử dụng trong nhiều truyền thống.  Đạo Bụt nói rằng khi chúng ta được giải thoát hay khi chúng ta sinh sang cõi cực lạc, thì chúng ta sẽ biến thành một em bé, và được thai nghén trong một bông sen.  Khi bông sen nở ra thì chúng ta lập tức thấy được Bụt A Di ĐàHoa khai kiến Phật có nghĩa là vậy.  Trong Cơ Đốc giáo cũng nói tương tự:  Nếu quý vị không trở lại thành một em bé, thì quý vị không thể nào đi vào nước Chúa. Vì vậy hình ảnh của em bé là hình ảnh của một sự sống mới, một sự chuyển hóa mới.  Người nào tu học đàng hoàng thì cũng đều biến thành em bé, sống an lạc và không có gì để lo lắng. ỘĐồng chơn nhập đạoỢ là đi tu từ hồi tuổi còn nhỏ.  Hai câu này là những hình ảnh rất đẹp.  Thứ nhất là tiếng hải triều làm ra pháp âm, thứ hai là hình ảnh của em bé ở trong bông hoa sen, không có gì đẹp bằng.

Dương chi nhất đích chân cam lộDương chi là nhành dương liễu, nhất đích là một giọt, chân cam lộ là đích thực nước cam lộ.  Một giọt nước cam lộ đích thực ở trên nhành dương liễu của Bồ Tát.

Tán tác sơn hà đại địa Xuân: Tán tức là rải lên, tác là làm thành, sơn hà là sông núi hay đất nước, đại địa là trái đất, the Great Earth.  Chỉ cần một giọt nước trên nhành dương liễu của Bồ Tát thôi, cũng đủ tạo ra một mùa Xuân cho trái đất và cho sông núi.

Bài Thi tán này hay quá làm cho ta có mặc cảm là nếu dịch ra tiếng Việt, thì không thể nào hay bằng.  Tuy vậy hôm ngồi ở Cốc Ngồi Yên, thầy trò đã cống hiến được một bản dịch sau đây, khá nghiêm chỉnh:

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng,
Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen.
Cam lồ một giọt tưới lên,
Xuân về trên khắp mọi miền núi sông,
Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm.

Hơi thơ tuy không được mạnh bằng nguyên bản, nhưng những hình ảnh của bài thơ đều đã có thể diễn tả được.

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng: Kinh Phổ Môn vọng lại từ tiếng hải triều đang dâng lên.

Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen: Một em bé đột nhiên xuất hiện trong lòng bông sen.

Cam lồ một giọt tưới lên: Bài dịch thiếu mất chữ dương-chi.  Đúng ra thì phải dịch là Cam lồ từ nhành dương liễu một giọt tưới lên, nhưng như vậy thì dài quá, thơ lục bát mình chỉ được dùng có sáu chữ thôi.  Nếu nói Cam lồ giọt liễu tưới lên thì cũng được, nhưng lại thiếu mất chữ một.  Chữ một rất quan trọng, chỉ cần một giọt thôi cũng đủ làm cho Xuân về trên khắp mọi miền núi sông.

Bây giờ xin mời Sư Cô Bảo Nghiêm lên hát cho đại chúng nghe…

Trước đây chúng ta đã nói đến danh từ Vô úy thí [Abhaya-d€na], một trong những món quà mà ta có thể dâng tặng cho người khác: Món quà giúp họ đừng sợ hãi.  Chúng ta sợ nhiều thứ lắm:  Sợ sanh, lão, bệnh, tử, sợ những sự bất trắc, chúng ta sợ cuộc đời, đôi khi chúng ta sợ chính bản thân của chúng ta nữa.   Vì vậy thực tập để có sự vô úy, thực tập để có sự không sợ là một pháp thực tập rất sâu sắc.  Khi đạt tới vô úy chúng ta mới có khả năng hiến tặng người khác sự không sợ hãi đó.  Đây là một pháp môn đặc biệt của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Người tu nào cũng phải thực tập cả, để khi đứng trước những thứ làm cho người thường run sợ, người tu có đủ khả năng vượt thoát sự sợ hãi, có sự vô úy thiết lập thân tâm vững chãi trong giây phút hiện tại.

Sau khi được nghe Bụt nói như vậy rồi thì Bồ Tát Vô Tận Ý rất lấy làm cảm phụcBồ Tát nói: Bạch đức Thế Tôn, bây giờ con phải cúng dường Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát liền đứng dậy, tháo chuỗi ngọc rất giá trị đang đeo ở cổ, trao lên cho Bồ Tát Quán Thế Âm và nói rằng: Xin Bồ Tát nhận chuỗi ngọc này do tôi cúng dường.  Lúc bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận.  Chúng ta thấy hình ảnh hiến tặng viên ngọc đã được sử dụng trong kinh Duy Ma.  — đây, kinh Pháp Hoa sử dụng lại hình ảnh đó.  Nên biết rằng Bồ Tát Vô Tận Ý không phải là một người xuất gia, vì nếu xuất gia thì đâu có đeo ngọc ngà châu báu như vậy.  Bồ Tát Quán Thế Âm từ chối là vì Ngài tự hỏi mình nhận chuỗi ngọc này để làm gì?  Lúc đó Bồ Tát Vô Tận Ý mới khẩn khoản: Xin nhân-giả thương chúng tôichấp nhận món quà cúng dường này.  Thấy vậy, Bụt liền can thiệp vào.  Ngài nói với Bồ Tát Quán Thế Âm: Giờ đây Bồ Tát hãy đem lòng thương Bồ Tát Vô Tận Ý và tất cả bốn chúng có mặt ở đây, trong đó gồm có Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân và phi nhân  v.v… mà chấp nhận chuỗi ngọc này. Tấm lòng từ bi đó không nên chỉ hướng về một người, mà hướng về tất cả đại chúng.  Đây là một sự thực tậptính cách tập thể.  Sự cúng dường này không phải từ một mình Bồ Tát Vô Tận Ý mà là từ tất cả đại chúng có mặt trong Pháp hội, cho nên chấp nhậnchấp nhận cho cả đại chúng, và đó là điều mà Bụt đã nói với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Bụt đã không nói: hãy thương Vô Tận Ýchấp nhận.  Bụt nói hãy thương Vô Tận Ý và tất cả những người có mặt ở đây.  Chúng ta phải để ý đến những chi tiết như vậy trong kinh.

Trang 515: Lúc bấy giờ đức Bồ Tát Quán Thế Âm, vì thương tất cả bốn chúng cho nên chấp nhận chuỗi ngọc.  Đây là lần thứ hai kinh lặp lại cái ý đại chúng cúng dường đó.

Sau khi chấp nhận lễ vật, Bồ Tát chia làm hai phần, một phần dâng lên cúng dường Bụt Thích Ca, một phần dâng lên cúng dường Bụt Đa Bảo.  Tích môn và Bản môn đều có mặt như nhau, một lần.  Có Tích môn là có Bản môn, có Bản môn là có Tích môn.  Đó là cách tu tập của chúng ta, không phải Bản môn và Tích môn là hai phần tách rời.  Mình không thể nói rằng tôi chỉ muốn theo Bản môn, nói vậy thì hỏng, tại vì không có Tích môn thì sẽ không có Bản môn.  Ngược lại nếu loại bỏ Bản môn thì cũng sẽ không có Tích môn.  Vì vậy chia chuỗi ngọc ra làm hai phần để cúng dường Bản môn do Bụt Đa Bảo đại diện, và cúng dường Bụt Thích Ca tượng trưng cho Tích môn, đó là để ý tới cả hai bình diện của sự sống.  Tu học cũng vậy, mình phải để thì giờ cho cả hai phía.  Tuy rằng mình đi vào thế giới của Hoa Nghiêm, của ánh sáng, nhưng mình vẫn không thể bỏ thế giới của hiện tượng, thế giới của nồi niêu, của vườn tược, của quét dọn, mình phải chịu trách nhiệm về cả hai phía.

Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta nên biết rằng các vị Bồ Tát đều có thần lực lớn.  Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Phổ Hiền v.v… đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng kiếp trước.  Nhưng vì xuất hiện trong môn thứ ba tức là Hạnh môn, cho nên vẫn hóa hiện làm người đang còn hành đạo, và khi gặp một vị Bụt, họ vẫn cung kính đảnh lễ, tuy chính bản thân họ đã là một vị Bụt.  Sự kiện Bản môn xuất hiện trong Tích môn rất quan trọng, và cái diệu dụng mà mình thấy là Hạnh môn.  Các vị Bồ Tát ta gặp trong kinh ở đây đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng vô biên kiếp trước, nhưng đứng trước Bụt Thích Ca thì vẫn đóng vai trò của người học trò, của nhà hành đạo.  Quí vị phải để ý đến chi tiết này.  Cũng như trong lễ truyền đăng của chúng ta, khi một vị giáo thọ đã được tiếp nhận bài kệ và cây đèn rồi, trước khi vị đó đăng đàn thuyết pháp, thì tất cả mọi người trong đại chúng, kể cả các vị tôn túc, các vị trưởng thượng, đều đứng dậy cung kính hướng về vị giáo thọ mới để chào đón.  Không phải vì đây là vị giáo thọ duy nhứt, nhưng tất cả các vị kia đều đứng dậy để chứng tỏ rằng đây là một vị giáo thọ mà tất cả mọi giới thiên, nhân đều phải cung kính, tại vì vị này mang trong người một sứ mạng truyền bá chánh pháp.  Các vị Bồ Tát như Phổ Hiền, Quán Âm, Thường Bất Khinh đã thành Bụt từ lâu nhưng đối với Bụt Thích Ca, họ vẫn kính cẩn cúi lạy, vẫn hóa hiện như là người đang còn hành đạoNếu không thấy được điều đó thì chúng ta chưa thấy được rằng đây là cái Hạnh môn, được sử dụng để nối lại cảnh giới Bản môn và Tích môn.

Ta biết rằng Tông Thiên Thaiđại biểu là thầy Trí Giả, đã nghiên cứu kinh Pháp Hoa và đã chia Pháp Hoa ra làm hai môn, Tích môn và Bản môn.  Nhưng trong khóa học này chúng ta thấy sự phân chia đó không được hoàn hảo, vì vậy chúng ta đã chia lại và cho rằng ngoài Tích môn và Bản môn, còn có một môn thứ ba gọi là Hạnh môn.  Bản môn thuộc về Thể, Tích môn thuộc về Tướng, và Hạnh môn thuộc về Dụng.  Hạnh môn không phải là một danh từ mới, nó đã được dùng nhiều lần trong kinh điển đạo Bụt.  Ví dụ trong bài Sám Qui Mạng mà các Thiền Viện Việt-nam tụng đọc buổi sáng, có câu:

Khai lục độ chi Hạnh môn,
Việt tam kỳ chi kiếp hải.

Hạnh môn ở đây có nghĩa là cánh cửa của hạnh phúc.  Do đó trong kinh Pháp Hoa, ngoài hai cánh cửa của Bản môn và của Tích môn, ta thêm vào một cánh cửa thứ ba là cánh cửa Hạnh môn, cánh cửa của hành động.  Tất cả các vị Bồ Tát xuất hiện trong kinh Pháp Hoa, đều tượng trưng cho cánh cửa của hành động.  Chúng ta phải nhận diện cho được các vị Bồ Tát đó ở trong kinh Pháp Hoa.

Sau khi đã trả lời cho Bồ Tát Vô Tận Ý, Bụt Thích Ca kết luận:  Này quí vị, tôi vừa nói cho quí vị nghe về sự rong chơi của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thế giới ta bà của chúng ta, và phân tích cái thần lực cũng như cái tự do của Ngài.  Đó là câu kết luận của Bụt trong phẩm này.

Phần ta vừa đọc là phần trường hàng, tức là văn xuôi.  Nhưng chúng ta đã biết rằng ở trong các kinh phần trường hàng luôn luôn xuất hiện sau phần trùng tụng.

Bây giờ chúng ta đọc phần trùng tụng của kinh, bản chữ Việt lẫn chữ Hán.  Mấy câu đầu có lẽ mới được thêm vào khi có phần trường hàng:

Thế Tôn muôn vẻ đẹp Thế Tôn diệu tướng cụ
Con xin hỏi lại Người Ngã kim trùng vấn bỉ
Bồ Tát kia vì sao Phật tửnhân duyên
Tên là Quán Thế Âm? Danh vi Quán Thế Âm?

Bậc diệu tướng từ tôn Cụ Túc Diệu Tướng Tôn
Trả lời Vô Tận Ý: Kệ đáp Vô Tận Ý:
hạnh nguyện Quán Âm Nhữ thính Quán Âm hạnh
Dáp ứng được muôn nơi. Thiện ứng chư phương sở.

Phương sở là những địa phương khác nhau.  Hành động của Quán Âm gọi là Quán Âm hạnh, đáp ứng được với tất cả các phương sở, không phải chỉ đáp ứng được nhu yếu của một nơi, mà đáp ứng được nhu yếu của tất cả mọi nơi.

Lời thề rộng như biển Hoằng thệ thâm như hải
Vô lượng kiếp qua rồi Lịch kiếp bất tư nghị
Đã theo ngàn muôn Bụt Thị đa thiên ức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh. Phát đại thanh tịnh nguyện.

Lời nguyền của Bồ Tát này sâu như biển cả, tại vì Ngài đã trải qua vô lượng kiếp, đã gần gũi học hỏi với muôn triệu vị Bụt và đã phát đại nguyện độ đời rất thanh tịnh.

Đây nói sơ lược thôi: Ngã vị nhữ lược thuyết:
Ai nghe danh thấy hình Văn danh cập kiến thân
Mà tâm sanh chánh niệm Tâm niệm bất không quá
Thì thoát khổ mọi cõi. Năng diệt chư hữu khổ.

Chữ hữu ở đây có nghĩa là cõi nước, như trong danh từ tam hữuba cõi, là Dục, Sắc và Vô sắc.  Nếu người nào nghe được danh hiệu Quán Thế Âm hoặc thấy được hình dáng Ngài mà tâm hồn không lơ là, có một chút chánh niệm, có một chút chú ý thì đã có khả năng diệt trừ những đau khổ của các cõi.  Không quá có nghĩa  là đi qua một cách luống uổng, không lợi ích gì.  Ví dụ khi đi qua rừng trầm hương mà mình không thấy được cây trầm nào hết thì gọi là không quá.

Nếu có ai ác ý Giả sử hưng hại ý
Xô vào hầm lửa lớn Thôi lạc đại hỏa khanh
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hầm lửa biến hồ sen.  Hỏa khanh biến thành trì.

Hỏa khanh là hầm lửa, trì là cái ao, cái hồ.  Nếu ai có ác ý xô mình xuống một hầm lửa, thì nhờ niệm lực Quán Thế Âm, hầm lửa đó tức khắc biến thành một hồ sen.  Chúng ta nên biết rằng con người nhiều khi sống trong hầm lửa, ngồi trên đống than hồng, ngọn lửa của phiền não, của tham sân đốt cháy trong lòng, không khác gì ta đang ngồi trong hầm lửa.  Nếu có chất liệu của tình thương ở trong trái tim thì tất cả những ngọn lửa đó đều tắt, và tự nhiên mình thấy được mát mẻ như đang ngâm mình trong một hồ sen.  Chuyện này nhiều người đã được thực chứngVì vậy mà chỉ cần niệm Quán Thế Âm, chỉ cần làm sao để tình thương có mặt trong trái tim của ta, là hầm lửa trong ta sẽ tắt ngấm, và tự nhiên ta được bơi lội trong một hồ sen.  Niệm bỉ Quan Âm lực, Niệm ở đây là chánh niệm, tức là nhớ tưởng tới, đem sự có mặt của Quán Thế Âm [sự có mặt của tình thương] về trong trái tim ta.  Đó là Pháp niệm Bụt.  Quán Âm lực là sức mạnh, là thần lực của đức Quán Thế Âm, The power of Mindfulness.  Khi tâm của mình thực hiện chánh niệm về Quán Thế Âm, khi mình đã bắt được làn sóng đó, thì tự nhiên có sự có mặt của năng lượng Quán Thế Âm trong tâm mình.  Chánh niệm là một sức mạnh rất lớn cho nên mình gọi là Niệm lực.  Do đó Niệm bỉ Quan Âm lực nghĩa là có chánh niệm về cái thần lực của đức Quán Thế Âm, mà mình đã dịch đơn giản là dùng sức mạnh Quán Âm.

Đang trôi giạt đại dương Hoặc phiêu lưu cự hải
Gặp nạn Rồng, Quỷ, Cá Long ngư chư quỷ nạn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Sóng gió không nhận chìmBa lãng bất năng một.

Nếu bị trôi giạt trong biển cả và nếu có xảy ra những tai nạn lớn như các loài rồng, quỉ, cá mập làm hại, và nếu chúng ta dùng niệm lực Quán Thế Âm thì sóng gió sẽ không làm ta chìm đắm.  Điều này cũng có thật, tại vì nếu hoảng sợ thì chính chúng ta tự làm đắm chiếc thuyền của chúng ta.  Còn nếu an tĩnh, có định lực thì chúng ta biết nên làm gì và không nên làm gì, cho nên sóng gió không làm đắm thuyền của chúng ta được.

Đứng chóp núi Tu Di. Hoặc tại Tu Di phong
Bị người ta xô ngã Vi nhơn sở thôi đọa
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Như mặt trời trên không.        Như nhật hư không trú.
Đây là một hình ảnh rất đẹp.  Nếu ta đứng ở đỉnh núi Tu Di mà có một người đứng sau lưng, xô chúng ta ngã xuống, thì nguy hiểm không cùng.  Nhưng nếu dùng niệm lực Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ đứng lơ lửng trong hư không như là mặt trời.  Như Nhật hư không trú, đó là một hình ảnh rất tuyệt vời, không có gì động tới mình được, mình không bị sa ngã, rớt rụng được.  Khi có tình thương ở trong trái tim rồi thì dù mình đang ở vào tình trạng khó khăn giống như đứng ở đỉnh núi Tu Di, và bị người khác dẫn dụ, lôi kéo, xô đẩy vào vực thẳm, vào đường tội lỗi, thì mình cũng sẽ vững chãi như mặt trời trong hư không, chẳng hề bị lay chuyển, sa ngã.  Có một năm làm thiệp chúc Tết, Làng Mai đã dùng năm chữ Như Nhật Hư Không Trú để chúc mừng năm mới cho mọi người.

Bị người dữ đuổi chạy Hoặc bị ác nhân trục
Rơi xuống núi Kim Cương Đọa lạc Kim Cang sơn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Không hao một mảy lông. Bất năng tổn nhất mao.

Bị oán tặc vây hãm Hoặc bị oán tặc nhiễu
Cầm đao thương sát hại Các chấp đao gia hại
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán tặc thấy thương tình. Hàm tức khởi từ tâm.

Nếu bị những oán tặc vây hãm, cầm dao, cầm kiếm định làm hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả đều phát khởi lòng thương.

Bị khổ nạn vua quan Hoặc tao vương nạn khổ
Sắp sửa bị gia hình Lâm hình dục thọ chung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đao kiếm gãy từng khúc. Đao tầm đoạn đoạn hoại.

Nếu bị chính quyền bắt bớ một cách oan ức và đem ra hành hình, mà dùng niệm lực Quán Âm, thì quan quân sẽ không xử trảm mình được, và lúc đó đao kiếm sẽ gãy ra từng khúc.

Nơi tù ngục xiềng xích Hoặc tù cấm già tỏa
Chân tay bị gông cùm Thủ túc bị nữu giới
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Được tháo gỡ tự doThích nhiên đắc giải thoát.

Nếu bị bắt, bị tra tấn, bị tù đày mà biết dùng niệm lực Quán Âm thì sẽ tháo gỡ được những thứ đó và sẽ được giải thoát, tự do.

Gặp thuốc độc, trù, ếm Chú trớ chư độc dược
Nguy hại đến thân mình Sở dục hại thân giả
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Người gây lại gánh chịu. Hoàn trước ư bổn nhơn.

Người ta dùng thuốc độc, dùng những phép trù, phép ếm để mong hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Âm thì những thứ độc dược đó trở lại làm hại người chủ xướng.  Đây là một đoạn kinh mà khi đọc tới tôi không thích lắm.  Cố nhiên khi mình có ác tâm thì chính mình sẽ là người phải gánh chịu cái ác tâm đó.  Có ác tâm thì khi chưa làm, trong người mình đã bị các độc tố tham sân si làm cho đau khổ rồi.  Khi đã làm, thì cố nhiên gây nhân nào sẽ chịu quả đó.  Nhưng đứng trên phương diện từ bi mà nói thì khi niệm Quán Thế Âm, mình có lòng thương ở trong trái tim của mình, thì mình chỉ muốn bản thân mình thoát khỏi cái nạn đó thôi, chứ mình không muốn thuốc độc hay những phép trù ếm trở lại làm hại tác giảVì vậy tôi nghĩ mình nên chữa lại đoạn kinh này.  Đã đành rằng hại nhân thì nhân hại, đó là theo đúng luật nhân quả, nhưng nếu niệm Quán Thế Âm thì lòng từ của Quán Thế Âm sẽ cứu mình và cứu luôn cả người đó, làm cho họ mở mắt ra, để lần sau họ không còn làm như vậy nữa.

Gặp La Sát hung dữ Hoặc ngộ ác La Sát
Rồng độc và quỷ ác Độc long chư quỷ đẳng
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hết dám làm hại ta. Thời tất bất cảm hại.

Gặp ác thú vây quanh Nhược ác thú vi nhiễu
Nanh vuốt thật hãi hùng Lợi nha trảo khả bố
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều vội vàng bỏ chạy. Tật tẩu vô biên phương.

Rắn độc và bò cạp Ngoan xà cập phúc yết
Lửa khói un hơi độc Khí độc yên hỏa nhiên
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Theo tiếng tự lui về. Tầm thanh tự hồi khứ.

Những loài rắn độc và bò cạp, những hơi độc, chất khói xuất hiện để hại mình, khi niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả những thứ đó đều nghe theo tiếng niệm và tự trở về nơi xuất xứ của chúng.

Sấm sét, mây, điện, chớp Vân lôi cổ xiết điện
Mưa đá tuôn xối xả Giáng bạc chú đại vũ
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều kịp thời tiêu tánỨng thời đắc tiêu tán.

Đây là phần nói về những tai nạn do thiên nhiên gây ra.  Sấm, sét, lụt lội, mưa đá, bão bùng.  Khi những thứ đó xuất hiện và nếu mình an trú trong niệm lực Quán Thế Âm thì tâm ta an tĩnh, đạt được sự vô úy, và những thứ đó sẽ kịp thời tiêu tán, không làm ta sợ hãi nữa.

Chúng sanh bị khốn ách Chúng sanh bị khổn ách
Vô lượng khổ bức thân Vô lượng khổ bức thân
Trí lực mầu Quán Âm Quán Âm diệu trí lực
Cứu đời muôn vạn cách. Năng cứu thế gian khổ.

Chúng sanh bị muôn vàn những khổ ách, và những khổ ách đó thường trực bức bách hình hài của mình, nhưng trí lực mầu nhiệm của đức Quán Thế Âm có thể cứu khổ được cho cả cõi đời.

Trí phương tiện quảng đại Cụ túc thần thông lực
Đầy đủ sức thần thông Quảng tu trí phương tiện
Mười phương trong các cõi Thập phương chư quốc độ
Không đâu không hiện thân. Vô sát bất hiện thân.

Quán Thế Âm đã thực hiện được tam muội Hiện-nhất-thiết pháp-thân, với trí tuệ rất sâu sắc, với phương tiện rất rộng rãi, cho nên ở tất cả các cõi trong mười phương thế giới, không có cõi nào mà Ngài lại không hiện thân.  Sát ở đây nghĩa là cõi.

Những nẻo về xấu ác Chủng chủng chư ác thú
Địa ngục, quỷ, súc sinh Địa ngục, quỷ, súc sanh
Khổ sanh, lão, bệnh, tử Sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Cũng từ từ dứt sạch. Dĩ tiệm tất linh diệt.

Chủng chủng nghĩa là nhiều loại khác nhau; chư ác thú là những nẻo đường ác độc, tức là những đường đưa về địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.  Ác là dữ, thú không phải là loài vật mà là những đường đi, những nẻo về.  Trong ý thức của mình có những nẻo đi và đường về rất là vực thẳm, mà cũng có những nẻo về rất thênh thang.  Không phải chỉ dùng hai chân mới đi được, mình có thể đi bằng cái tâm của mình. Nếu không được điều phụchộ trì, thì tâm mình thường dẫn mình đi theo con đường địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sanh.  Đi về nẻo của Thiên, Nhân, A-tu-la thì đỡ hơn. Dĩ tiệm tất linh diệt, tiệm là từ từ; linh diệt là làm cho nó mất đi.  Như vậy, khi niệm và đưa hình bóng của Quán Thế Âm ngự trong trái tim mình, thì tự nhiên những nẻo về tối tăm của tâm sẽ tiêu tan từ từ, và ánh sáng chánh niệm sẽ mở cho chúng ta những con đường quang đãngChúng ta nên biết rằng tâm của chúng ta nhiều khi dong ruổi trong những nẻo đường rất hôn mê, rất đen tối.  Có ý muốn tự tử, hay có ý muốn giúp người, đó đều là những nẻo về của ý.  Niệm Quán Thế Âm là một trong những phương pháp điều phụchộ trì tâm, để tâm ta đừng đi về những nẻo đường tăm tối như vậy. Niệm Quán Âm một thời gian, từ từ những nẻo về tăm tối đó của tâm ý sẽ dứt sạch, đó gọi là dĩ tiệm tất linh diệt.   Đây là một phương pháp chữa trị rất hữu hiệu của khoa tâm lý trị liệu.

Quán Chân, Chân quán,
quán Thanh Tịnh thanh tịnh quán
Quán Trí Tuệ rộng lớn Quảng đại Trí Tuệ quán
Quán Bi và quán Từ Bi quán cập Từ quán
Thường nguyện, thường Thường nguyện thường
chiêm ngưỡngchiêm ngưỡng.

Đây là năm phép Quán có liên hệ đến danh từ Quán Thế Âm.  Niệm Quán Thế Âm đúng theo phương pháp chính thống, thì lúc niệm ta phải thực tập năm phép quán nói trên.

Chân quán tức là quán về sự thật, nhìn rõ để thấy được sự thật, không bị vọng tưởng chi phối, không bị những cái vỏ, cái hình thái dối gạt bên ngoài làm cho mình mờ mắt.  Dùng cặp mắt quán chiếu để thấy được bản chất của sự vật thì gọi là quán chân.

Quán thanh tịnh là phép quán có thể mang lại cho mình sự bình lặng, sự trong sáng của tâm hồn.  Nó chuyển hóa, lấy đi những hắc ám, tối tăm và bụi bặm của tâm hồn thì gọi là quán thanh tịnh.
Quảng đại trí tuệ quán tức là quán về trí tuệ lớn [Mah€prajự€p€ramit€] nghĩa là quán về Bát Nhã Ba La Mật.  — đây có nghĩa là quán về Không [ệũnyat€]. Mah€prajự€ là Đại Bát Nhã.  Quảng đại là đại; trí tuệBát Nhã, cho nên Quảng đại trí tuệ quán là quán về Không.

Bi quán cập Từ quán.  Bi tiếng Phạn là KaruẾ€, Từ  là Maitrĩ. Đó là bản chất của Quán Thế Âm.   Khi ta niệm Quán Thế Âm thì trong tâm ta có những chất liệu Từ và Bi.  Nếu có những chất liệu đó thì chắc chắn sự chuyển hóa sẽ tới.  Đây không phải là vấn đề tín ngưỡng hay mê tín.  Thường nguyện thường chiêm ngưỡng tức là ta phải luôn luôn tâm nguyệnchiêm ngưỡng năm phép quán đó.  Chiêm ngưỡng ở đây tiếng Anh là Contemplation.

Quán Vô Cấu, Thanh Tịnh Vô Cấu Thanh Tịnh quán
Mặt trời Tuệ phá ám Tuệ nhật phá chư ám
Điều phục nạn, gió, lửa Năng phục tai phong hỏa
Chiếu sáng khắp thế gianPhổ minh chiếu thế gian.

Vô cấu [Vimala] có nghĩa là không dơ bẩn;  Tuệ nhật phá chư ám, là mặt trời của trí tuệ phá tan tất cả những màn hắc ám; Năng phục tai phong hỏa là điều phục được những thiên tai gió lửa.  Năm phép quán đó có tính cách vô cấu, thanh tịnh.  Đó là một mặt trời trí tuệ, có khả năng phá tan những bức màn hắc ám, điều phục được tất cả các tai nạn gió, lửa, và chiếu sáng khắp cùng thế gian.  Đó là thần lực của năm phép quán.
Tâm Bi như sấm động Bi thể giới lôi chấn
Lòng Từ như mây hiền Từ ý diệu đại vân
Pháp cam lộ mưa xuống Chú cam lồ pháp vũ
Dập trừ lửa phiền não. Diệt từ phiền não diệm.

Bi thể tức là cái chất liệu của lòng Bi, giống như tiếng sấm động.  Đại Bi Quán Thế ÂmQuán Thế Âm có lòng thương rất lớn.  — đây chúng ta thấy một hình ảnh rất đặc thù.  Lòng thương thường được so sánh với một cái gì rất dịu hiền, nhưng ở đây lòng thương được so với tiếng sấm động.   Chúng ta nhớ ở kinh Duy Ma, sự im lặng có khi được xem là sự im lặng sấm sét, im lặng nhưng có hùng lực và hiệu năng rất lớn.  — đây lòng thương được ví với sấm động, tại vì lòng thương là một năng lượng tích cực.  Không phải thương rồi chảy nước mắt và không làm gì hết.  Tâm bi không phải là một thứ năng lượng thương xót tiêu cựcSức mạnh của tâm bi hùng vĩ như sức mạnh của sấm chớp.  Lòng từ ở đây được diễn tả dưới hình thái của các trận mưa [Từ ý diệu đại vân] để cho tất cả mọi loài đều được thấm nhuần chất nước cam lộ đó.  Đây là những hình ảnh rất thi caThế gian của chúng ta như một đám cháy.  Trong ta, mỗi người là một đám cháy, chúng ta đang cháy từ trong ra ngoài.  Chúng ta là một thân cây đứng trong một khu rừng đang bốc cháy, và lòng từ bi của Quán Thế Âm như là những đám mây hiền, với sự tác động của sấm sét, những đám mây đó biến thành mưa để chữa trị những đám cháy trên thế gian, và làm cho cây cối mọc lên xanh tươi.

Nơi án tòa kiện tụng Tránh tụng kinh quan xứ
Chốn quân sự hãi hùng Bố úy quân trận trung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán thù đều tiêu tán. Chúng oán tất thối tán.

Vào các phiên tòa kiện tụng hay ra nơi trận mạc đầy bom đạn, nếu chúng ta biết sử dụng niệm lực Quán Thế Âm, thì tất cả những oán thù và tai nạn kia đều có thể vượt qua.

Tiếng Nhiệm, tiếng Quán Âm Diệu âm, Quán Thế Âm
Tiếng Phạm, tiếng Hải Triều Phạm âm, hải triều âm
Tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời Thắng bỉ thế gian âm
Hãy nên thường quán niệmThị cố tu thường niệm.

Đây là những câu rất hay trong Kinh Phổ Môn.  Năm phương pháp Quán kể trên là năm phép quán nói về chữ đầu trong danh hiệu của Bồ Tát: Quán.  — đây kinh nói về năm chữ Âm, tức là nói về năm loại âm thanhliên hệ tới Bồ Tát Quán Thế Âm.

Trước hết là Diệu âmÂm thanh của vị Bồ Tát này là một âm thanh rất nhiệm mầu, rất vi diệuQuán Thế Âm là âm thanh do sự quán chiếu về cuộc đời mà được thể hiện ra.  Ngài là một con người có đủ định lực, có đủ tình thương và nhất là có đủ thì giờ để nhìn vào cuộc đời, quán chiếu về cuộc đời mà hiểu được cuộc đời.  Đó là tiếng nói của người hiểu biết.  Không có thì giờ để nhìn, để hiểu thì không thể có tiếng nói của người hiểu biết.
Tiếng Phạm có nghĩa là tiếng cao quý, ví dụ như Brahma-vih€ra tức là bốn phạm trú, bốn nơi cư trú rất sang trọng, rất cao quí, tiếng Anh là Noble Dwellings.  Bốn phạm trú đó là Từ, Bi, Hỉ và Xả.  Bốn cư xá này là bốn cư xá số một, mình nên tìm đến đó để cư trú cho hạnh phúc, cho thảnh thơi.

Tiếng hải triều là tiếng sóng biển.  Pháp âm của Bồ Tát được ví với tiếng hải triều, hùng mạnh và có khả năng lấn át hết tất cả các tiếng rì rào, than khóc.

Thắng bỉ thế gian âm là tiếng vượt lên trên tất cả các thứ tiếng khác của thế gian, ví dụ như tiếng của danh, của lợi, tiếng của quyền hành, của tranh chấp, của đảng phái.  Tất cả các thứ tiếng đó đều bị tiếng của Bồ Tát vượt lên và chế ngự.

Chúng ta thấy có hai bức tranh, một về Quán và một về Âm, tên của Bồ Tát.  Tám câu kệ nghe như hai câu đối, rất tương xứng.  Về quán, ta có năm phép, về âm thanh ta cũng có năm loại:

Chơn quán, Thanh Tịnh quán, Quảng Đại Trí Tuệ quán, Bi quán, cập Từ quán.    

Diệu âm, Quán Thế Âm, Phạm âm, Hải triều âm, Thắng Bỉ Thế gian âm.

Từng niệm không nghi ngờ Niệm niệm vật sanh nghi
Trong ách nạn khổ chết Quán Thế Âm tịnh thánh
Quán Âmtịnh thánh Ư khổ não tử ách
Là nơi cần nương tựa. Năng vị tác y hộ.

Nghĩa là hãy tiếp tục quán niệm và đừng sanh tâm nghi ngờ, tại vì bậc thánh thanh tịnhQuán Thế Âm kia, thường hiến mình làm nơi nương tựa cho chúng sanh trong mọi trường hợp khi họ gặp tai ách, khổ nạn, và sự chết chóc.

Đầy đủ mọi công đức Cụ nhất thế công đức
Mắt thương nhìn thế gian Từ nhãn thị chúng sanh
Biển Phước chứa vô cùng Phước tụ hải vô lượng
Nên ta cần đảnh lễThị cố ưng đảnh lễ.

Bồ Tát có đầy đủ công đức, đem con mắt thương yêu để nhìn mọi ngườiTừ nhãn thị chúng sanh là năm chữ rất tuyệt diệu, ta chỉ cần làm được chừng đó là đã có hạnh phúc tràn trề rồi.  Đem con mắt thương để nhìn thì chẳng những người kia được hưởng hạnh phúc, mà chính trái tim của mình cũng được thấm nhuần những ngọt ngào của tình thương.  Ta hãy nhìn chúng sanh bằng con mắt từ bi chứ đừng đợi chúng sanh nhìn mình bằng con mắt có thiện cảm!  Biết nhìn mọi loài bằng con mắt từ bi thì không chóng thì chầy, mọi loài sẽ học được phương pháp đó, và sẽ biết nhìn lại mình bằng con mắt từ bi.  Phước tụ hải vô lượng tức là phước đức dồn về và sẽ lớn như biển cả, không thể nào đo lường được.  Thị cố ưng đảnh lễvì vậy cho nên chúng ta hãy cúi đầu đảnh lễ vị Bồ Tát đã thành Bụt từ lâu đó.

Rất tiếc là mình chưa có dịp để dịch lại toàn văn kinh Pháp Hoa, nếu dịch lại thì sẽ dễ đọc hơn nhiều.

Bây giờ ta trở về phần trường hàng kế tiếp của phẩm này.

Lúc đó Bồ Tát Trì Địa [Dh€ranỉndhara Bodhisattva] từ chỗ ngồi, đứng dậy và thưa với Bụt rằng:  Lạy đức Thế Tôn, nếu có người nào nghe được phẩm kinh nói về Bồ Tát Quán Thế Âm này mà thấy được cái sự nghiệp tự do của Ngài, thấy được cái năng lực thực hiện thần thông của Phổ Môn, thì công đức của người đó không phải là ít. Như vậy, người nào được nghe Phẩm Pháp Hoa này, thì người đó đã có công đức rất nhiều.  Nghe được Kinh Phổ Môn tức là đã tiếp xúc được với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đó là lời tuyên bố của vị Bồ Tát tên là Trì Địa.

Trì Địa là một vị Bồ Tát rất ưa lao động.  Hai bàn tay của Ngài thường dính đất, ưa làm vườn, ưa bắc cầu, ưa đào giếng.  Nghe nói rằng, hồi Bụt Thích Ca lên thăm mẹ ở cung trời Đao Lợi thì Bồ Tát Trì Địa đã đắp đường cho Bụt đi.  Ngài là một vị kiến trúc sư, một kỹ sư.  Trì là bảo vệ, duy trì, địa là trái đất, tiếng Anh là Earth Holder. Những người bảo vệ môi sinh, tranh đấu để giữ gìn cho sinh môi trái đất, đều là liên minh của Bồ Tát Trì Địa.  Đây là một vị Bồ Tát chuyên giữ gìn trái đất cho chúng ta, chúng ta cần phải liên minh với Ngài để bảo trì nguyên vẹn trái đất này lại cho con cháu.  Bồ Tát Trì Địa còn bắt cầu, đắp đường để đưa người ta lại với nhau.  Nếu có những người, những nhóm người bị chia rẽ, kẻ ở đầu sông người ở cuối, thì Bồ Tát làm một chiếc cầu đưa họ tới gần với nhau, để ký những hiệp ước hòa bình.  Thế giới của chúng ta rất cần Bồ Tát Trì Địa.

Nói đến đây thì tôi nhớ rằng Bồ Tát Địa Tạng [KỒitigarbha Bodhisattva] cũng phải được đưa vào trong Hạnh môn của kinh Pháp Hoa, vì Ngài là người có đại nguyện tìm đến những nơi đen tối nhất, u ám nhất, khổ đau nhất.  Những nơi đó là địa ngụcLời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng là Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, là chừng nào địa ngục còn có người, thì tôi nguyện còn phải đi tới và nguyện chưa an hưởng quả vị của một đức Bụt.  Bồ Tát Địa Tạnghiện thân cho đại nguyệnĐại Nguyện Địa Tạng Vương là một người luôn luôn thao thức muốn đi vào những nơi còn khổ đau, còn tăm tối.  Chúng ta biết rằng địa ngục không ở đâu xa, chỉ cần đưa tay ra là chạm địa ngục ngay, và đôi khi khỏi cần phải với tay ra bên ngoài, địa ngục cũng có ngay ở trong ta!  Vì vậy đem ánh sáng của tình thương, của hiểu biết tới với khổ đau là lời đại nguyện của Bồ Tát Địa Tạng.  Trong 14 giới Tiếp Hiện có một giới nói về chủ đề này:  Hãy tìm tới những kẻ khổ đau, đừng nhắm mắt trước khổ đau, đừng đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống.  Hãy phổ biến những pháp thoại qua băng Video và băng Audio để giúp cho mọi người bớt khổ.

Muốn cho kinh Pháp Hoa được hoàn mỹ, chúng ta có thể thêm vào một phẩm Bồ Tát Địa Tạng, đồng thời phát triển thêm phẩm Bồ Tát Trì Địa. Cố nhiên ở trong kinh Pháp Hoa chúng ta đã có Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài cũng đã thành Bụt lâu rồi, nhưng vẫn đóng vai Bồ TátĐịa vị của Phổ Hiền ở trong kinh Hoa Nghiêm rất lớn, vì vậy cho nên đến kinh Pháp Hoa chúng ta không được đọc nhiều về Bồ Tát Phổ Hiền nữa.

Tôi nghĩ Bồ Tát Phổ Hiền cần được đề cập đến nhiều hơn trong kinh này, tại vì Bồ Tát Phổ Hiền là một người tượng trưng rất nhiều cho Hạnh môn, và Hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền có tới mười điểm.  Nói tới Hạnh môn thì phải nói tới Phổ Hiềnchúng ta thường xưng tụng Phổ HiềnBồ Tát Đại Hạnh, thành ra sự có mặt của Bồ Tát Phổ Hiền trong phần Hạnh môn rất là quan trọng.
Phật tử Việt-nam ai cũng thuộc mười hạnh của Phổ Hiền, vì bài Hồi Hướng có nhắc đến mười hạnh đó:

1.  Nhất giả lễ kính chư Phật: Nghĩa là mình phải tỏ lòng tôn kính đối với bậc giác ngộ.

2.  Nhị giả xưng tán Như Lai:  Phải khen ngợi Như Lai.  Khen bằng nhiều cách, không phải bằng lời mà là bằng hành động.

3.  Tam giả quảng tu cúng dường: Phải thực hiện việc cúng dường, hiến tặng.  Cúng dường chúng sanhcúng dường Bụt.

4.  Tứ giả sám hối nghiệp chướng: Phải sám hối, luôn luôn phải đổi mới.

5.  Ngũ giả tùy hỉ công đức:  Hễ ai làm được một việc gì tốt, thành công và có niềm vui là mình phải vui theo, phải yểm trợ hết lòng.

6.  Lục giả thỉnh chuyển Pháp luân:  Người nào có khả năng làm giáo thọ, mình phải yễm trợ và cầu họ đi giảng dạy, đừng bắt họ ở ru rú trong chùa.  Những vị Bụt thành đạo chúng ta phải tới cầu xin các vị đi thuyết pháp, đừng có vì những khó khăn mà không thuyết pháp.  Nghe nói Bụt Thích Ca sau khi thành đạo đã có lúc không muốn đi thuyết pháp vì Ngài thấy giáo pháp thì khó, mà chúng sanh thì căn trí không được lanh lợi cho lắm.  Không biết có đúng vậy không, có thể Ngài đã thị hiện ra như vậy để chúng sanh phải thỉnh cầu, nhờ vậy mà thấy được rằng Pháp là quí giá.  Khi nào mình thấy một vị Bụt xuất hiện, thì mình phải thỉnh cầu vị Bụt đó chuyển Pháp luân, nghĩa là đi thuyết pháp hoằng hóa độ sanh.  Nếu thấy một người nào có khả năng thuyết pháp, mình cũng phải thỉnh cầu người đó đi thuyết pháp.

7.  Thất giả thỉnh Phật trụ thế: Là thỉnh Bụt ở lại lâu trong cõi đời để giáo hóa độ sanhBồ Tát Phổ Hiền là người chuyên đi làm những việc này.  Thấy ở cõi nào có Bụt sắp nhập diệt thì Ngài đến khẩn khoản xin Bụt lưu lại thêm một thời gian nữa để cứu độ chúng sanh.

8.  Bát giả thường tùy Phật học: Nghĩa là tinh chuyên theo học với Bụt.  Đừng nói rằng Bụt còn đó, lúc nào mình đến học cũng được.  Nay bận công việc, thôi để đến mai, hoặc năm nay mình kẹt, sang năm chắc chắn mình sẽ thu xếp để đi học.  Đó không phải là hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền; hạnh của Bồ Tát là nơi nào có Bụt giảng dạy, là nơi đó có Ngài đến học hỏi.

9.  Cửu giả hằng thuận chúng sanh: Mình phải đi theo với chúng sanh, đi theo với mọi người để hành đạo, để giúp đỡ, để điều phục chứ đừng trốn họ.  Tu không phải chỉ là tiếp thu vào trong ngũ uẩn của mình, mà phải đưa tay ra, phải tiếp xúc với chúng sanh, phải thấy được rằng những đau khổ, thao thức và ước mơ của chúng sanh là những đau khổ, thao thức và ước mơ của chính mình.  Phải tìm đủ mọi cách để đưa họ đi trên con đường tu họcchuyển hóa như mình, đó gọi là hằng thuận chúng sanh.

10.  Thập giả phổ giai hồi hướng: Khi thực hiện được một điều gì, học được một cái gì, trồng được một cây gì, làm được một điều gì trong ngày, mình đều nói rằng, cái đó là để cho hạnh phúc chung, để cho sự giác ngộ chung, chứ không phải mình đã làm việc đó riêng cho mình.  Học kinh Pháp Hoa không phải là học riêng cho mình mà là học cho tất cả mọi người.  Rửa một cái nồi, không phải chỉ rửa riêng cho mình, chỉ chuyển hóa riêng nội tâm của mình, mà làm cho mọi người và mọi loài.  Bước một bước chân tỉnh thức là bước cho tất cả nhân loại, tại vì nếu có lòng từ, lòng bi, có định, có tuệ thì bước chân đó sẽ làm lợi cho mọi loài hữu tình.   Đừng nghĩ rằng học như vậy là học riêng cho mình, tu như vậy là tu riêng cho mình.  Mình phải biết hồi hướng, tiếng Anh là Transferring the merits to all beings. Mình không có trương mục riêng, tất cả những công phu tu tập của mình đều đưa vào một trương mục mà ai cũng có thể sử dụng được hết, tu như vậy mới đúng là tu theo tinh thần của Bồ Tát Phổ Hiền.

Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện trong hội Pháp Hoa như là một trang nam tử.  Nhưng trong những hình thái tôn thờ ở nhiều nước Á Đông, thì chúng ta lại thấy Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện dưới hình thức một phụ nữ.  Điều này cũng dễ hiểu, vì phụ nữ có thể tượng trưng được tình thương một cách tự nhiên, dễ dàng hơn nam giới.  Hơn nữa, trong kinh có nói rất rõ rằng Bồ Tát Quán Thế Âmtình thương, và Ngài có thể trao tặng tình thương đó dưới nhiều hình thái khác nhau.  Vì vậy mà tôn thờ và hình dung Bồ Tát Quán Thế Âm dưới hình thức một phụ nữ, là một chuyện rất tự nhiên, rất hợp lý.

Chùa Bút Tháp ở miền Bắc Việt-nam có một tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nghìn tay, nghìn mắt rất đẹp.  Nghìn cánh tay có nghĩa là hoạt động nhiều cách.  Tình thương phải được thể hiện ra bằng nhiều cách.  Đối với những người không quen với ngôn ngữ điêu khắc của Phật giáo, thì họ sẽ lấy làm lạ khi thấy một vị tượng có nhiều tay quá.  Nhưng đối với chúng ta thì đó là một hình ảnh dễ hiểu, tại vì khi thương ai, ta muốn nâng đỡ, muốn giải quyết khổ đau giùm cho người ấy, và khi có nhiều người khổ đau quá thì ta phải có mặt ở nhiều nơi, và ta phải có nhiều cánh tay để giúp đỡ.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra.

Đó là hai câu thơ ở trong tác phẩm Nam Hải Quán Âm bằng chữ nôm.  Hai câu đó chứng tỏ rằng tình thương phải được thực hiện bằng hành động.  Nói suông rằng tôi thương anh lắm thì không giúp được gì, vì vậy mà phải có cánh tay.  Cánh tay để vươn tới.  Thành ra trong Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Phổ HiềnPhổ Hiềnđại hạnh, là hành động lớn.  Do đó chúng ta thấy cái chân lý của Hoa Nghiêm đã thấm nhuần tất cả mọi hình ảnh:  Bồ Tát Quán Thế Âm mang cánh tay của Bồ Tát Phổ Hiền.

Nghìn mắt cần thiết cho nghìn tay.  Mắt là để thấy, để hiểu.  Nhận thức mà dẫn tới hành động thì mới có kết quả, do đó vị tượng có nghìn tay thì phải có luôn nghìn mắt.  Mà con mắt là tượng trưng cho Bồ Tát Văn Thù Đại Trí.  Con mắt là để nhìn sâu, nhìn kỹ, để phát hiện ra sự thật, đó là  tác dụng của thiền quánThiền quán nghĩa là nhìn cho thật sâu, cho thật kỹ để thấy được cái chân tướng của sự vật, vì vậy mà con mắt là tượng trương cho thiền quán [VipaỐyan€].

Khi nhìn kỹ Bồ Tát Văn Thù, mình cũng thấy có trái tim của Quán Thế Âm và cánh tay của Phổ Hiền, cho nên một vị Bồ Tát chứa đựng tất cả các vị Bồ Tát khác, đó là chân lý của Hoa Nghiêm.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra,
Xem trong biển nước Nam ta,
Phổ mônđức PhậtQuán Âm.

Hình tượng đã là như vậy thì sự hành trì cũng như vậy.  Tại sao lại có một ngàn?  Một ngàn chỉ là con số tượng trưng, một ý niệm về nhiều, nhiều lắm, Thiên thủ thiên nhãn.

Vào dịp lễ kỷ niệm 2500 ngày Bụt nhập diệt ở New Delhi, Ấn độ, phái đoàn Việt-nam từ Hà nội có sang tham dự, và có thỉnh theo tượng đức Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn để cho các phái đoàn quốc tế thấy cái tác phẩm nghệ thuật đó của Việt-nam.  Hồi đó đất nước mình còn chia làm hai, miền Nam đã gởi một phái đoàn, và miền Bắc một phái đoàn khác, và hai phái đoàn đã bí mật gặp nhauẤn độPhái đoàn miền Nam do Hòa thượng Huệ Quang lãnh đạo.  Hồi đó Tổng hội Phật Giáo Việt-nam ở miền Nam có một tờ tạp chí chính thức gọi là tờ Phật Giáo Việt-nam, Hòa Thượng Huệ Quang làm chủ nhiệm, còn tôi là chủ bút.  Trong khi lãnh đạo phái đoàn sang Ấn độ, Hòa Thượng bị đứt mạch máu và viên tịch tại bên đó.  — nhà chúng tôi có ra một số báo đặc biệt để tưởng niệm cố Hòa thượng Chủ nhiệm Huệ Quang.  Hồi đó phái đoàn miền Bắc có Hòa thượng Trí Độcư sĩ Lê Đình Thám, cùng một số các vị khác.  Hai vị trên có công lớn trong việc chấn hưng đạo Bụt ở Việt-nam.  Phái đoàn miền Nam có Luật sư Trần Thanh Hiệp đi làm thông ngôn.  Tôi vẫn còn nhớ lúc anh Hiệp đến Phật học đường Nam Việt để mượn cuốn tự điển Anh Việt.  Hồi đó ở Việt-nam tiếng Anh chưa được phổ biến lắm.

Vào chùa thấy tượng Quán Âm ngàn mắt ngàn tay, nếu quen với ngôn ngữ của điêu khắc Phật giáo thì chúng ta hiểu ngay đây là hình tượng để nói lên một thứ tình thương chân thật, được xây dựng bằng cái thấy, bằng sự quán chiếu, bằng hiểu biết do sự nhìn sâu.  Đây là một thứ tình thương đích thực, không phải thứ thương suông bởi vì nó được thể hiện bằng những cánh tay.  Khi hướng dẫn khách vào chùa, ta phải giải thích như vậy để họ có thể hiểu được, nếu không họ sẽ thắc mắc, vì mỗi nền văn hóa có một thứ ngôn ngữ riêng.

Đôi khi con mắt kia mình phải tìm mới thấy.  Nhìn qua thì chúng ta chỉ thấy vị tượng có nhiều cánh tay thôi, nhưng nếu nhìn cho kỹ, ta sẽ thấy trong mỗi bàn tay có một con mắt.  Bàn tay mà có con mắt là quan trọng lắm, bàn tay mà không có con mắt là nguy hiểm vô cùng.  Hành động mà không đi theo sự hiểu biết thì sẽ đưa đến sự đau khổ cho người mình thương, chứ đừng nói người mình không thương.  Ai cũng muốn đem lại hạnh phúc cho đất nước, cho đồng bào, cho nhân loại, cho các loài, nhưng cái tình thương không có sự hiểu biết thì chưa hẳn là tình thương và có thể gây đổ vỡ dù mình có đầy tràn thiện chíThiện chí chưa phải là tình thương, cái ý muốn thương chưa phải là thương.  Khả năng thương là khả năng thấy và khả năng hiểu để hành động, vì vậy mà các nhà điêu khắc đã diễn tả tình thương rộng lớn của Bồ Tát Quán Thế Âm như cả ngàn cánh tay có con mắt trong mỗi bàn tay.  Sự tu hành của mình, nói tóm lại, là để đặt vào trong lòng bàn tay của mình một con mắt.  Chừng nào mình đặt được một con mắt vào lòng bàn tay của mình, thì lúc đó hành động của mình sẽ có an toàn.  Bất cứ hành động nào của mình cũng sẽ đem lại hạnh phúc cho người và cho chính mình.  Nếu chưa có con mắt ở trong lòng bàn tay, thì chúng ta phải cẩn thậnTu quán là để có con mắt tuệ, tuệ nhãn.  Có tuệ nhãn thì dù muốn hay không cũng sẽ có từ bi, tại vì cái thấy sâu sắc đưa tới cái thương đích thực.  Và tình thương không thể nào không biểu hiện bằng hành động.

Người hành giả như một máy thâu hình, hay máy thâu thanh, phải có những điều kiện mới có thể cảm ứng được với những luồng sóng truyền thanh hay truyền hình.  Những đài phát thanh và phát hình luôn luôn có đó, nhưng mình phải có cái đồng thanh, đồng khí thì mới tương ứng và tương cầu được với những đài phát lớn.  Bụt và các vị Bồ Tát là những đài phát thanh và phát hình lớn, luôn luôn có mặt ở trong vũ trụ, nhưng nếu cái máy thu của mình không hội đủ điều kiện, thì mình sẽ không bắt được những làn sóng đó, và mình nói rằng không có phát thanh, không có phát hình, không có làn sóng điện.  Trong bài kệ kiến giải của Sư cô Như Phước, Sư cô nói rằng cái bí mật của hạnh phúc là sống cho trọn vẹn ngày hôm nay, và tiếp nhận được tình thương đến từ muôn loài.  Tình thương đó có thật và đang đến, cũng tương tự như những làn sóng truyền thanh, truyền hình đang tới với mình luôn luôn, nhưng tại vì tâm mình bị bít lấp, cho nên mình không mở được cõi lòng để đón nhận tình thương đó.  Không khí, hay là nước trong, những thứ này sẵn sàng có mặt đó cho mình, nhưng vì mình tự trốn tránh trong cái tháp ngà đau khổ của mình, cho nên mình không đón nhận được tình thương của không khí, của nước trong, của đám mây, của mặt trời, tất cả đều có ý muốn nuôi dưỡng, che chở cho mình.  Bụt và Bồ Tát cũng vậy, đó là những sự có mặt rất thực tế mà không cần phải có một đức tin mới tìm thấy được, chỉ vì con mắt mình không mở ra, và chỉ vì trái tim mình khép kín lại, cho nên mình mới không nhận ra sự có mặt của các vị Bụt và Bồ Tát ở chung quanh mình đó thôi.

Có những vị Bụt và Bồ Tát không có tên tuổi, không được các đài truyền thanh, truyền hình, hay báo chí nhắc tới, nhưng họ có mặt ngay chung quanh chúng taTình thương của họ được thể hiện rất rõ ràng, họ là những Bồ Tát vô danh, có mặt khắp mọi nơi.  Trong bước đường hành đạotây phương, thỉnh thoảng tôi có gặp những vị Bồ Tát như vậy.  Họ là Bồ Tát lớn, nhưng không ai nhìn rõ họ để có thể nhận ra họ là những vị Bồ Tát lớn.  Ví dụ ở Hòa lan có một phụ nữ, mới trông vào, mình không thấy gì đặc biệt cả, Bà tên là Hebe KolhbrỎgge.  Bà đã giúp rất nhiều cho trẻ em ở Việt-nam.  Trong đệ nhị thế chiến, bà đã tạo nơi ẩn náu cho rất nhiều người Do thái, và đã giúp di chuyển hàng chục ngàn người Do thái sang các nước khác để họ khỏi bị chết dưới bàn tay của người phát-xít.  Một người có tâm địa và hành động như vậy, nếu ta không gọi là Bồ Tát thì gọi là gì nữa?  Vậy mà Bà đã không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, chẳng có một giấy tờ gì để công nhận việc cứu độ chúng sanh của Bà.  Tôi chỉ vì may mắn nên đã được gặp bà trên bước đường hành đạo.  Bà sống rất đơn giản, đạm bạc và đã thực hiện được điều mà mình không ngờ một phụ nữ có thể đơn phương làm được.  Trong thời gian làm việc chung, tôi thấy Bà vẫn tiếp tục giúp những người câm, người điếc ở trong các nước Xã hội chủ nghĩa một cách rất sốt sắng và âm thầm.  Bà đã không mang danh là Phật tử, không mang một danh xưng nào hết.  Mình phải có một trái tim rộng mở, phải đừng có thành kiến, mới nhận ra được những vị Bồ Tát có mặt chung quanh mình, ở cùng trong xã hội với mình.  Hiện giờ tại các nước Tây phương cũng như Đông phương, có những người đang âm thầm làm việc để cứu trợ cho biết bao nhiêu người bệnh tật, nghèo đói, cùng khổ, đang bị áp bức.  Họ làm những việc cứu trợ đó một cách rất im lặng.  Nếu ta nhởn nhơ trong hoàn cảnh của ta, thì ta không thấy được sự có mặt của những người đó, và không biết đến những hoạt động rất lặng lẽ nhưng rất thực tế của họ.  Họ không cần báo chí tường thuật, không cần đài phát thanh, phát hình đề cập đến, nhưng họ đã làm những việc như vậy từ mấy mươi năm nay, và vẫn tìm được niềm vui và sự an bình trong công tác hàng ngày.

— Huế có một Phật tử tên là bác Siêu.  Bác tuy rất im lặng, nhưng vì bác đã làm việc xã hội lâu ngày quá, nên ở Thừa thiên không ai là không biết bác, và ai cũng nghĩ bác là một vị Bồ Tát.  Bác làm việc rất âm thầm.  Vốn liếng của bác chỉ là một chiếc xe đạp rất cũ.  Vậy mà ở đâu Bác cũng đạp đến được, và bác đã giúp cho rất nhiều gia đình đơn bạc, nghèo đói, bệnh tật.  Bác không có gia tài, nhưng bác có một trái tim, vì vậy mà bác đã có nhiều bạn hữu có thể giúp bác làm công việc từ thiện.

Năm 1964, trong một chuyến về Huế, tôi đã mời bác lên chùa Từ Hiếu để được chuyện trò và học hỏi những kinh nghiệm của bác.  Hồi đó, tôi vừa thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và nghĩ rằng mình sẽ thực hiện những công tác tình thương trên toàn quốc, có tính cách hệ thốngtỷ lệ lớn hơn bác Siêu.  Đó là tại tôi nghĩ rằng mình đang làm theo phương pháp mới, mình đào tạo nhiều cán bộ cùng một lúc, và mình đã nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các nước, cho nên mình sẽ làm hay hơn bác.  Trong khi ngồi nói chuyện với bác, tôi vẫn mang cái niềm tự tin rằng mình sẽ khoa học hóa và hệ thống hóa được công việc, và tôi muốn mời bác gia nhập vào trong công tác này.

Mục đích của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội không chỉ là công việc từ thiện, mà gồm cả công việc phát triển xã hộiPhong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội là để giúp dân, giúp nước, chứ không phải là để làm từ thiện đơn thuần.  Giúp dân, giúp nước là giúp cho chính mình.  Sau khi nghiên cứu nhiều nơi, tôi trở về lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, nhằm bốn mục tiêu:

1.         Giáo dục: Nông thôn có nhiều làng không có trường học và trẻ em lêu lổng,  không có học vấn.  Vì vậy công việc đầu tiên của một tác viên xã hội khi về làng, là tìm cách chơi với các em để dạy các em.  Mình có thể chơi và dạy các em ở ngoài bờ sông hay dưới gốc đa.  Khi số lượng các em lên đến hai ba mươi đứa, lúc trời mưa, mình kéo nhau vào xin tá túc ở nhà của một dân làng để tiếp tục việc học.  Từ từ cái ý niệm xây một mái trường bằng tre và lá dừa phát sinh ra, và chính người tác viên đó sẽ đề nghị dân làng họp lại để làm ngôi trường đó cho làng.  Đừng đợi chính quyền hay một sự giúp đỡ từ bên ngoài, vì đợi thì sẽ phải đợi hoài.  Thanh niên phụng sự xã hội phải bắt đầu từ những cái gì mình có, từ những cái gì mình biết chứ không chờ đợi một sự viện trợ, dù sự viện trợ đó là từ chính quyền của nước mình.

2. Y tế: Thành lập một trạm y tế, dạy dân làng cách phòng ngừa tật bệnh, và tự thiết lập những nhà vệ sinh bằng xi-măng rẻ tiền.  Dạy trẻ em ngăn ngừa những bệnh thông thường như bệnh cảm, sốt rét, bệnh đau mắt v.v…

3.         Kinh tế: Làm sao cho sự sản xuất của dân làng tăng lên, ví dụ tìm cách tổ chức hợp tác xã; chỉ cho dân làng sử dụng phân bón đúng mức; cách chọn hạt giống; phương pháp trị liệu những chứng bệnh của cây cối mùa màng; tổ chức để dân làng có thể làm những tiểu công nghệ trong giờ rảnh rỗi để tăng thêm ngân sách gia đình; giúp cho dân làng biết phương pháp chăn nuôi gà, vịt mà không để chúng bị bệnh tật. 

4.         Tổ chức: Giúp dân làng tổ chức lại làng xã, công việc tương trợ, tại vì nếu không tổ chức lại đàng hoàng thì mình không thành công được.

Hồi đó với kiến thức, với kinh nghiệm như vậy, tôi nghĩ rằng, phong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội sẽ là một hình thái hoạt động mới, và so với hình thái hoạt động cổ điển của bác Siêu thì nó phải tiến bộ hơn nhiều.  Cho nên tôi có niềm tin rất lớn và tôi nghĩ rằng mình có thể làm hay hơn bác Siêu.

Trong lúc tiếp xúc, bác Siêu ngồi im lặng nghe những điều tôi trình bày.  Sau đó bác cũng đồng ý tham dự trong khi bác vẫn tiếp tục con đường riêng của bác.  Cho đến khi người Cộng sản lên nắm chính quyền, họ cấm hết tất cả các hoạt động của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và họ bắt đầu bắt tác viên của trường, thì tôi mới nhận ra rằng cái phương pháp của bác Siêu rất là vô tướng.  Bác vẫn tiếp tục công việc từ thiện như thường, vẫn với chiếc xe đạp cũ kĩ ọp ẹp đó, bác đi tới khắp hang cùng ngõ hẻm và vẫn làm được cái công việc mà ngày xưa tôi cho là không khoa học cho lắm.

Không ai ở Thừa thiên mà không biết cái hạnh nguyện, cái âm thầm lặng lẽ của bác.  Bác Siêu là một vị Bồ Tát không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, và báo chí không nhắc tới.  Nếu mở mắt ra, mở trái tim ra, mình sẽ tiếp xúc được với rất nhiều người như bác Siêu ở ngay trong đất nước của mình.  Trong những con người đó, có chất liệu của Quán Thế Âm, và những người đó thực sự có niệm lực của Quán Âm.  Nhờ thế mà họ mới trường kỳ công tác được như vậy, nếu không thì chỉ vài ba tháng là họ bỏ cuộc, họ chán nản.  Vì vậy khi niệm đức Quán Thế Âm, phải thực tập sâu sắc mới có thể thành công được.  Nếu cái máy thâu hình của mình hư, thì dù mình có bấm nút mấy trăm lần đi nữa, nó vẫn không tiếp nhận được hình ảnh của đài truyền hình.  Niệm danh hiệu Quán Thế Âm cũng vậy, mình phải chuẩn bị tâm của mình cho thanh tịnh, cho chí thành thì mình mới bắt được cái nguồn năng lượng đại bi kia.  Niệm mà thấy cái hiểu và cái thương có mặt trong ta, thì lúc đó niệm mới thực sự hữu hiệu, còn niệm bằng miệng mà trong lòng vẫn có hờn giận, nghi kị, tham lam, buồn chán, thì mình sẽ không bắt được cái tinh lực của đức Quán Thế Âm.  Muốn thừa hưởng được niệm lực Quán Âm thì mình phải bắt được niệm lực ấy.  Cho nên những người niệm đức Quán Âm, niệm Bụt Di Đà, hay Bụt Thích Ca mà trái tim vẫn còn cứng như đá thì ta biết rằng họ không bắt được làn sóng từ bi.  Niệm Bụt là một pháp môn rất thâm diệu đem lại một kết quả rất tốt.  Chúng ta không đặt vấn đề nghi ngờ mà chỉ đặt vấn đề niệm như thế nào để trái tim của mình có thể mở ra và để cho tình thương, sự hiểu biết và cánh tay của đức Quán Thế Âm có thể có mặt trong mình.  Trong chúng ta, người nào cũng đã có những giây phút kinh nghiệm về hiểu, về thương và về một ước muốn hành động.  Khi chúng ta có cái hiểu, cái thương và sự muốn hành động đó, thì chúng ta biết rằng hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm đã ngự trong trái tim của chúng ta rồi.  Nếu chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì không có lý do gì mà tinh lực của đức Quán Thế Âm không tiếp tục tuôn tràn vào trong trái tim của chúng ta.

Khi niệm Quán Thế Âm ta phải niệm một cách thông minh, phải biết rằng niệm theo phương pháp nào thì mới có kết quả, và ta phải giúp cho những người khác, đừng để cho họ niệm một cách mê tín, máy móc và sai lạc.  Niệm đức Quán Thế Âm như niệm một vị thần linh chỉ biết ăn hối lộ, cúng chuối, cúng xôi và mong đức Quán Thế Âm đứng về phe mình để đánh dẹp phe kia, niệm như vậy thì ngàn đời Bồ Tát Quán Thế Âm cũng không ứng hiện được trong trái tim của ta, tại vì Bồ Tát Quán Thế Âmhiện thân của cái hiểu, cái thương và cái hành động.

Mình cũng đừng có nghĩ rằng đức Bồ Tát Quán Thế Âm là một thực tại hoàn toàn ở ngoài mình.  Đây là giáo lý của Hoa Nghiêm, mà cũng là giáo lý của Pháp HoaGiáo lý này cũng căn cứ trên nguyên tắc duyên sinh [Pratĩtyasamutp€da], hay duyên khởi.  Khi chắp tay lễ Bụt, mình phải thấy rằng Bụt có trong ta và ta có trong Bụt, thì sự lễ lạy đó mới đúng với tinh thần Phật giáoChúng ta thấy trong đạo Hồi Hồi hay trong đạo Cơ Đốc cũng có sự lễ lạy, nhưng có thể sự lễ lạy này không giống như sự lễ lạy trong đạo Bụt.  Chúng ta có một pháp môn lạy mà đã mấy ngàn năm nay, người Phật tử đã thực tập rất đều đặn, rất thâm sâuDâng hương cũng là một pháp môn đặc thù, chúng ta không chỉ dâng hương trầm mà dâng hương Giới, hương Định và hương Tuệ, hương Giải Thoát và hương  Giải Thoát Tri Kiến. Có giới, có định, và có tuệ để dâng lên, thì Bụt bằng lòng hơn.  Sau khi dâng hương lên rồi, chúng ta mới quán tưởng, tức là chúng ta lạy xuống.  Phép quán tưởng này là một phép quán tưởng rất cao siêu.

một lần tôi trình bày tại Đại học Boston cho những nhà thần học nghe về phép quán tưởng này, và họ rất lấy làm ngạc nhiên, vì không có một tín đồ nào lễ lạy vị Giáo chủ của mình với một tinh thần như vậy.  Chắp tay lại mình đọc:

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghị,

có nghĩa là người kính lễ và người được kính lễ, cả hai đều không có sự có mặt riêng biệt và tách rời khỏi nhau.  Đây là đạo lý duyên sinh được nhìn nhận.  Bạch đức Thế Tôn, con đang lễ lạy Ngài và con biết rằng con được làm bằng Ngài và Ngài được làm bằng con.  Đức Thế Tôn được làm bằng những chất liệu không phải là Thế Tôn, cũng giống như một bông hoa được làm bằng những chất liệu không phải là bông hoa, như ánh sáng, đám mây, phân bón.  Đức Thế Tôn cũng vậy, Ngài được làm bằng những chất liệu không phải Thế Tôn, trong đó có con, vì vậy trong Thế Tôn có con.  Con cũng được làm bằng những chất liệu không phải là con, trong đó có Thế Tôn, vì vậy trong con có Thế Tôn và trong Thế Tôn có con.  Đó là cái ý nghĩa về tánh không tịch. Có tôn giáo nào mà người tín đồ nhìn vị Giáo chủ của mình và tuyên bố như vậy trước khi lạy không?  Cảm ứng đạo giao nan tư nghị, có nghĩa là chỉ vì con nhận thức được như vậy cho nên con biết rằng sự cảm ứng và sự giao tiếp giữa con và Ngài mới thật là mầu nhiệm, không thể nào diễn tả bằng tư tưởng và bằng ngôn ngữ được.  Nếu Ngài là một thực thể hoàn toàn độc lập, và con cũng là một thực thể hoàn toàn độc lập, thì sẽ có một vạn lý trường thành chia cách, làm thế nào giữa Ngài và con mà có sự thông cảm mầu nhiệm sâu xa được?  Trong đạo Ki-tô có những khuynh hướng thủ cựu cho rằng Đấng Tạo hóa không thể nào có cùng một bản chất với những vật thụ tạo, như là núi sông, cây, cỏ, con người v.v…  Vật thụ tạo [Creatures] và Đấng Tạo hóa [Creator] là hai thực thể tách rời.  Như vậy giữa hai bên có một bức thành kiên cố ngăn cách thì làm sao có được sự giao tiếp hai chiều, tức là có sự cảm ứng sâu sắc giữa Thượng đếcon người được?  Đạo Bụt thì nói rất rõ: Con không có thực thể riêng biệt mà Bụt cũng không có thực thể riêng biệt. Chính cái sự to gan dám so sánh đó, mới chứng tỏ được mình là một đệ tử giỏi, một học trò có thể hiểu được ý thầy.  Con không có thực thể, con là Không, và Bụt cũng không có thực thể, Bụt cũng là Không.  Đó là một lời khen rất lớn đối với Bụt, tại vì sự khen ngợi này không chỉ được làm bằng lời nói và sự cung kính, mà bằng cái tuệ giác của mình đối với giáo pháp của đức Thế Tôn.  Chính vì Bụt không có thực thể độc lập, và con cũng không có thực thể độc lập, cho nên sự cảm ứng giữa Bụt và con mới thật là sâu sắc và mầu nhiệm.  Đó là những điều mà các vị tổ của ta đã thực tập hàng ngàn năm nay.  Mỗi khi chắp tay trước đức Bổn Sư mà ta không thực tập như thế thì chúng ta có thể chỉ lễ lạy một cách cạn cợt, có khi là mê tín.  Đối với Bồ Tát Quán Thế Âm chúng ta cũng phải thực tập như vậy.

Có người thực tập phương pháp lễ lạy như sau:

Khi đưa hai tay chắp lên trán, họ đồng nhất sự cung kính của họ với ý,
Khi đưa tay xuống ngang miệng và cổ họng thì họ đồng nhất sự cung kính với lời nói,

  • Khi bàn tay rời lãnh vực ngôn ngữ, đi xuống ngang trái tim thì họ đồng nhất sự cung kính của họ với thân,

và khi lạy xuống là họ lạy với ba nghiệp Thân, Ngữ, Ý thanh tịnh. Như vậy, cái hành động kính lễ của mình rất là hiệu nghiệm:  nó gom được thân, khẩu và ý trong chánh niệm, và mình lạy xuống trong cái nhận thức là mình có Bụt trong mình, và Bụt có mình trong Bụt, như vậy là mình mở trái tim của mình ra để cho Bụt đi vào một cách rất dễ dàng.  Lúc đã có nội ứng rồi, đã có Bụt trong mình rồi, thì sự niệm Bụt trở nên rất dễ dàng và có hiệu lực.  Mình đừng có mặc cảm.  Phải tin rằng cái chất liệu của đức Quán Thế Âm đang có mặt ở trong mình, chất liệu đó sẽ được nuôi dưỡng, sẽ được phát hiện bởi phương pháp niệm Bụt của mình.  Ngược lại nếu mình có mặc cảm rằng Bụt và Bồ Tát là những bậc tuyệt vời, còn mình chỉ là người trần, mắt thịt, tội lỗi đầy đầu, và hai bên không bao giờ gặp nhau cả, thì sự niệm Bụt của mình sẽ khó thành công.

Cái pháp môn lạy Bụt chưa chấm dứt ở đó, vì ta còn tiếp tục quán chiếu:

Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.

có nghĩa là cái đạo tràng trong đó con đang đứng để hành lễ nó giống như là một màn lưới làm bằng những hạt minh châu của Vua Trời Đế Thích.  Trong cung Vua Đế Thích có một bức màn rất quý vì nó được kết toàn bằng những hạt minh châu vô giá.  Nếu đến gần, mình sẽ thấy mỗi hạt minh châu chứa đựng hình ảnh của tất cả các hạt châu khác ở trong nó.  Trong cái một có cái tất cả, cái tất cả chứa đựng cái một, đó là giáo lý kinh Hoa Nghiêm mà mình đưa ra để thực tập trong sự lễ lạy.  Trước khi lạy xuống mình quán tưởng và thấy rằng cái đạo tràng trong đó mình đang đứng, được tạo bằng tấm màn lưới của Vua Trời Đế Thích, và tất cả chư Bụt trong mười phương đều hiển hiện trước mặt mình.  Vì vậy khi lạy, mình không bỏ sót một vị Bụt nào hết, khi lạy một Bụt là mình lạy tất cả các Bụt. Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ, thân con cũng ảnh hiện như Bụt vậy, nếu Bụt hiện thânvô số thì con cũng hiện thânvô số.  Số lượng của sở lễ nhiều như thế nào thì số lượng của năng lễ nhiều như thế đó.  Nếu chư Bụt nhiều như số cát sông Hằng, thì con cũng vậy, số lượng của hiện thân con cũng nhiều như số cát sông Hằng, và trước mỗi vị Bụt trong mọi thế giới đều có con đang đứng kính lễ.

Khi quán tưởng như vậy và lạy xuống thì một cái lạy, là ta lạy tất cả chư Bụt trong thế giới tam thiên đại thiênVì vậy lễ lạy trong đạo Bụt không phải là sự khuất phục trước một uy quyền, cúi đầu hạ thấp nhân phẩm của mình trước một đấng thần linh, trái lại lúc lễ lạy ta đưa nhân phẩm của ta lên ngang hàng với nhân phẩm của chư Bụt.

Thầy Thiện Siêu đã dịch bài này như sau:

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châuđạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo-tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Mình nên dịch thế nào để cho người đọc hiểu được dễ dàng, và nương vào đó mà quán tưởng trong lúc lễ lạy, thì mỗi cái lạy mới giúp mình làm tiêu tan đi biết bao nhiêu vô minh, bao nhiêu mê mờ, bao nhiêu nghiệp chướng, đồng thời nó tạo ra một sự thông cảm lớn lao giữa mình và chư Bụt[12] .

Trong trường hợp lễ lạy đức Quán Thế Âm, nếu ta cũng áp dụng phương pháp đó thì ta sẽ thấy được rằng trong ta có một Bồ Tát Quán Âm ở trong tư thế tiềm phụcTự nhiên chúng ta sẽ có niềm tin.  Đây là lời dạy của Bụt.  Lưỡi của Bụt rất dài, che được cả tam thiên đại thiên thế giới, vì vậy cho nên những điều Bụt nói đều toàn là sự thật.  Đó là hình ảnh diễn tả trong kinh.  Khi Bụt nói mọi chúng sanh đều có một vị Bụt trong lòng, thì đó là một sự thật, vì vậy trong mỗi chúng ta đều có tiềm phục một đức Quán Thế Âm.  Nếu chúng ta tu tập cho có những điều kiện để hạt giống Quán Thế Âm ở trong ta được tưới tẩm, có không gianthời gian để phát triển, thì đó là một hình thái niệm Bụt, tại vì đức Quán Thế Âm không phải chỉ ở bên trong hay ở bên ngoài ta.  Nói rằng Ngài chỉ có ở bên trong ta thì không đúng, mà nói Ngài chỉ có ở bên ngoài thì cũng không đúng luôn.  Phật tánh có ở khắp nơi.
Khi thấy rõ được sự tiềm phục của Bồ Tát Quán Thế Âm trong ta thì tự nhiên ta sẽ có sự cung kính đối với ngũ uẩn của chúng taChúng ta không còn phiền trách, khinh thường, không còn hờ hững với ngũ uẩn của chúng ta nữa.  Đồng thời nhìn quanh, chúng ta cũng không chê trách, khinh thị, đối xử tệ bạc với những hợp thể của ngũ uẩn chung quanh ta, tức là những bạn tu, những sư anh, sư chị của chúng ta.  Họ đều có đức Quán Thế Âm trong ngũ uẩn của họ, tại vì chúng ta chưa biết cách cho nên chưa đánh động và làm sống dậy được Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong họ.  Người đó có vẻ như khôngtình thương, không có hiểu biết, không biết lo cho những người khốn khổ.  Sự thực là đức Quán Âm trong họ đang ở trong tư thế tiềm phục, và ta chưa đủ khả năng để giúp người bạn kia tiếp xúc được chất liệu cam lộ Quán Thế Âm.  Cho nên khi biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong ta, thì ta cũng biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong người khác.

Tu học là dùng những phương tiện quyền xảo để giúp người và chuyển hóa mình.  Đôi khi chỉ cần nói một câu mà mình có thể đánh động được tình thương và sự hiểu biết trong con người đó, và nhờ vậy mà người đó chuyển hóa.  Mình không cần làm nhiều mà chỉ cần làm đúng.  Làm sao để làm đúng?  Mình phải biết quán sát tâm trạng của người đó, biết người đó đang bị kẹt vào cái gì.  Thấy được rồi thì chỉ cần nói đúng một câu là tháo gỡ được cho người đó.  Đối với người bạn tu của mình cũng vậy.  Họ có thể là khô cằn, họ có thể là đa nghi, nhưng với con mắt trạch pháp của mình, với phương tiện quyền xảo của mình, với ngôn ngữtình thương của mình, mình có thể làm cho mạch tình thương ở trong họ tuôn chảy trở lại.  Đó là một hình thức lễ lạy, biến người đó thành một người bạn đồng hành của mình trên con đường thực tập từ bi.

Chúng ta có thể về Huế để tìm bác Siêu, nhưng chúng ta cũng có thể tìm được bác Siêu ở ngay đây.  Nếu bác Siêu ở trong trái tim của ta đã hiện ra rõ, thì việc đi tìm bác Siêu bên cạnh chúng ta sẽ trở nên rất dễ dàng.

[11] Bài Tán Dương Quán Âm dưới đây đã được thầy Nhất Hạnh
dịch và Sư cô Chân Quy Nghiêm phổ nhạc sau đó:

Trí tuệ bừng lên đóa biện tài,
Đứng yên trên sóng sạch trần ai,
Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh,
Hào quang quét sạch buổi nguy tai,
Liễu biếc phất bày muôn thế giới,
Sen hồng nở hé vạn lâu đài,
Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh,
Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.
[12] Làng Mai đã cống hiến bản dịch bài Quán tưởng như sau:

Trong thể tính chân như
Không chủ thể đối tượng
Đệ tử kính lạy Bụt
Trong tương cảm nhiệm mầu
Biểu hiện khắp mười phương
Như Đế châu ảnh chiếu
Nơi nào cũng có Bụt
Và có con kính lạy

Page 23

Bây giờ chúng ta hãy đi sang phẩm thứ 25, Phẩm Phổ Môn.  Phổ môn là cánh cửa phổ biến, cánh cửa mở ra cho mọi loài đi vào.  Cánh cửa này không chỉ mở ra cho một hay hai, ba hạng người, mà tất cả mọi loài đều có thể đi qua cánh cửa đó để vào Phật Pháp.  Tiếng Anh là Universal Door.  Đây là một Phẩm được tụng đọc nhiều nhất của kinh Pháp Hoa, và được gọi là kinh Phổ Môn [Samantamukha] hay là kinh Quán Âm.

Nhìn vào Bồ Tát Quán Thế Âm [AvalokiteỐvara Bodhisattva] chúng ta thấy Bồ Tát Thường Bất Khinh, chúng ta cũng thấy Bồ Tát Dược Vương, tại vì con đường của tín nghĩa, của ân tình, của sự chung thủy cũng có mặt ở đây.  Bồ Tát Quán Thế Âm đã lập nguyện là khi nào có người nhớ nghĩ tới Bồ Tát và niệm danh hiệu của Ngài, thì Ngài sẽ có mặt ngay trong giờ phút đó.  Điều này có tính cách chung thủy, ân tình.  Any time you need me, I will be there, đó là tiếng nói của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Những lúc anh cần đến tôi, tôi sẽ có mặt ở bên anh, nhất là lúc anh lâm vào tình trạng khó khăn, tuyệt vọng.
Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe những âm thanh của cuộc đời.  Chữ Quán ở đây có nghĩa là để ý tới, nhìn sâu, nhìn kỹ để có thể hiểu.  Hiểu là cái bản chất làm ra sự thương yêu, có hiểu được mới thương.  Nói đến Bồ Tát Quán Thế Âm, là ta nói tới sự thương yêuNam mô Đức Bồ Tát đại bi Quán Thế Âm.  Nếu Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho sự hiểu biết lớn, nếu Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho hành động lớn, thì Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng cho sự thương yêu lớn, cho đại từ, đại bi.

Khi được nghe danh xưng Bồ Tát Quán Thế Âm thì Bồ Tát Vô Tận Ý [AkỒayamati Bodhisattva] lấy làm xúc cảm liền lập tức.  Tên nghe hay quá, Quán thế Âm, lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời.  Danh từ Quán Thế Âm tác động vào trái tim của Bồ Tát Vô Tận Ý, nên Bồ Tát đứng dậy, chắp tay hướng về Bụt hỏi:  Bạch đức Thế Tôn, vì lý do gì mà vị Bồ Tát kia có tên là Quán Thế Âm [Avalokiteshvara]. Định nghĩa của Bụt rất rõ.  Bụt nói:  Tại vì những người khổ đau khi nghe tới danh xưng ấy mà thấy hoan hỉ và lập lại, thì Bồ Tát lập tức tìm tới để giải thoát cho người kia ra khỏi cái trạng huống khổ đau trong giờ phút đó.

Chúng ta đã biết rằng kinh Pháp Hoatính cách đại chúng,  nhưng giáo nghĩa cũng rất thâm sâu.  Nói như vậy có nghĩa là những câu kinh Pháp Hoa có thể hiểu theo tính cách đại chúng, nhưng cũng có thể hiểu được theo tính cách triết học sâu sắc.  Ví dụ với câu:  Nếu có người trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì người đó dù đi vào trong lửa cháy, lửa cũng không làm người đó cháy, tại vì uy lực của Bồ Tát rất lớn lao.  Đứng về phương diện bình dân mà nói, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì khỏi bị tai nạn về lửa, nhưng đứng về phương diện thực tập từ bi mà nói, khi mình có lòng thương ở trong trái tim thì lửa hận thù không cháy lên được, và mình không thấy nóng.  Bồ Tát Thích Quảng Đức khi ngồi xuống giữa ngã ba Phan đình Phùng, tưới dầu xăng lên người, quẹt lên que diêm, và Ngài đã ngồi yên trong lửa đỏ!  Đối với một người khác, chỉ cần phỏng một chút xíu ở tay là đã la trời la đất, nhưng ở đây lửa cháy toàn thân thể, Ngài vẫn ngồi rất yên, rất thẳng.  Nếu không có lòng thương, làm sao ngồi yên và thẳng được như vậy?  Cái biển lửa đó, đối với Bồ Tát, giống như một ao sen, rất là trong mát.  Có lòng thương thì tất cả mọi thứ đều trở thành tươi mát.  Điều này có thể thấy được trong đời sống hàng ngày của chúng ta.  Nếu có tình thương đối với người kia, thì dù có cực nhọc, chúng ta cũng không thấy cực nhọc, trái lại chúng ta lại tìm thấy niềm vui.  Trời rất lạnh và đêm rất khuya, nhưng nếu có một người bạn, một em bé đang bị thương ở bên ngoài, mà bị buộc ngồi ở trong nhà ấm, chúng ta sẽ thấy rất đau khổ.  Ngược lại, tuy trời lạnh cắt da, nhưng nhờ có tình thương, nên khi đi ra cứu giúp cho người đau khổ đó, ta cảm thấy sung sướng nhẹ nhàng hơn nhiều.  Đi vào lửa mà lửa không cháy được có nghĩa là như vậy.

Thầy Quảng Đức là một người tôi rất quen thân, vì ngày xưa tôi đã từng ở chung với thầy trong chùa Long Vĩnh.  Chùa Long Vĩnh có một bộ báo Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ bút, trong đó có nhiều bài nói về nguồn gốc của Phật giáo.  Thầy Long Vĩnh phải đi hành đạo nhiều nơi.  Ngày xưa thầy đã từng làm Kiểm tăng ở vùng Khánh Hòa, và sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại miền Nam.  Hồi đó tôi làm chủ bút tờ báo Liên Hoa.  Có những đêm tôi ngồi làm việc khuya, tự nhiên thấy sau gáy hơi âm ấm, thì ra thầy đi vào rất nhẹ bước, và để tỏ tình thương, thầy đặt lên gáy tôi một chiếc hôn nhè nhẹ, rất dễ thương.  Có nhiều khi chùa hết gạo, và vì các anh em ở trong chùa ít người biết cách làm trụ trì, cho nên nhiều khi tăng chúng đói.  Thầy đi làm Phật sự về là anh em được no đủ lại, cho nên mỗi lần thấy thầy về thì ai cũng mừng.  Đó là thầy Quảng Đức.  Hồi tự thiêu, thầy có để lại một số bài thơ, và ngôn từ của thầy không chứa đựng một chút bực bội hay căm thù nào cả.  Tự hiến mình cho lửa đỏ để mong Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính phủ bừng tỉnh, để đừng đàn áp Phật giáo nữa.  Chết, nhưng chết rất nhẹ nhàng, chết mà chết bằng thi ca.  Ngồi ở ngã tư Phan Đình Phùng, thầy đã ngồi rất thẳng, báo chí đã chụp hình, quay phim và chỉ bốn, năm tiếng đồng hồ sau là hình ảnh thầy ngồi trong lửa đỏ đã được phổ biến khắp cùng trên thế giới, làm cho thế giới chấn động.  Cố nhiên khi có niềm thương ở trong lòng rồi thì ngọn lửa đó không còn nóng nữa.  Có đức Quán Thế Âm trong lòng là mình có sự che chở.

Nếu bị nước lớn làm cho trôi thì xưng danh hiệu Bồ Tát này, liền được chỗ cạn. Tất cả những câu ở trong Kinh Phổ Môn đều phải được hiểu theo tinh thần đó.   Khi mình nghĩ tới Bồ Tát Quán Thế Âm và mình gọi tên của Ngài, thì tự nhiên cái chất liệu của từ bi, của thương yêu lập tức có mặt với mình, và có chất liệu đó rồi thì mình bớt khổ liền lập tứcChừng nào mình còn có chất liệu thương yêu ấy ở trong lòng, thì chừng đó mình sẽ còn không đau khổ.  Đây là điều mà mình có thể chứng thực được.

Chúng ta biết rằng trong giáo lý của đạo Bụt, thương yêu được làm bằng một chất liệu gọi là hiểu biết.  Khi hiểu biết thì không có sân hận oán thù.  Người kia sở dĩ như vậy là tại vì lý do này, lý do kia.  Người kia đã khổ, đã không có cơ hội để học, để hỏi là vì những điều kiện gia đình, điều kiện cha mẹ, điều kiện xã hội đã từng gây nội kết, cho nên người đó mới nói như vậy, làm như vậy.  Khi có hiểu biết rồi thì mình sẽ không khổ và không gây thêm đau khổ cho người đó.  Khi trong lòng có tình thương là ta có hiểu biết, và lúc đó ta sẽ hoặc ít khổ hoặc không khổ.

Ví dụ mình đang ở trong ngục thất hay trong trại học tập cải tạo.  Mình có thể có hận thù rất lớn đối với những người giam cầm mình.  Đồng thời có một người khác cũng cùng hoàn cảnh với mình, nhưng người đó có vẻ thanh thản, người đó có khả năng thở hít khí trời, ngồi thiền, và có khả năng mỉm cười với người cai ngục.  Người đó có đức Quán Thế Âm ở trong lòng.  Người đó hiểu được rằng, người cai tù đối xử với mình một cách tệ hại như vậy là vì ông ta là nạn nhân của sự giáo dục và tuyên truyền mà ông ta đã tiếp nhận, và ông ta đã thấy mình như một kẻ thù.  Cái nguyên nhân đưa tới vô minhhận thù đó, mình phải trông thấy, và khi thấy được rằng ông ta là nạn nhân của bao nhiêu sự tuyên truyền, lường gạt và ngu dốt đó, thì mình sẽ thương hại ông ta thay vì thù ghét ông ta.  Như vậy hai người cùng ở trong một hoàn cảnh của trại học tập cải tạo, mà một người nuôi hận thù còn một người nuôi tình thương.  Kết quả là người nuôi hận thù sẽ đau khổ hơn người nuôi tình thương gấp bội.  Người nuôi tình thươnghy vọng một ngày nào đó sẽ cảm hóa được người cai ngục, một ngày nào đó sẽ có thể nói được một câu, hay nhìn được một cái nhìn có thể chuyển hóa được người cai ngục.  Người nuôi hận thù thì không bao giờ có cơ hội làm được chuyện đó, và trong lòng thì luôn luôn đau khổ.  Thành ra nếu mình hiểu nghĩa chữ thương đúng như trong tinh thần của đạo Bụt thì mình biết rằng, hể có thương thì có hiểu, mà có hiểu thì có thể tha thứ được.  Có những đứa bé vì dại khờ, đã nói với cha mẹ những câu giống như là bất hiếu, nhưng cha mẹ vẫn không giận vì thấy chúng còn nhỏ quá.  Tất cả chúng ta trong thời thơ ấu, không ai tránh được sự dại dột đó.  Mỗi khi giận, ta thường nói những câu thiếu tình, thiếu nghĩa với cha mẹ, nhưng cha mẹ chúng ta luôn luôn tha thứ, là tại chúng ta còn nhỏ dại quá.

Như trong câu chuyện phim The Yearling, em bé thương con nai, nhưng khi con nai lớn lên, phá hoại hết mùa màng thì cha mẹ em buộc em phải bắn chết con nai ấy.  Em không bắn và rốt cuộc thì mùa màng bị phá hoại nhiều lần.  Vì vậy mà bà mẹ buộc lòng phải tự tay cầm súng bắn chết con nai!  Cảm động nhất là đoạn bà biết con trai mình sẽ rất đau khổ, nhưng bà biết nếu mình không bắn chết con nai thì cả nhà sẽ đói.  Trồng bắp hai ba mùa mà con nai, vì bản tính loài vật, đã phá hết.  Khi biết con nai của mình đã chết, em bé khóc, nổi giận lên và em đã nói một câu như không có một chút tình nghĩa nào hết với mẹ:  ỘI wish you were dead!Ợ Theo em thì ba mẹ em đã làm em khổ, ba mẹ đã giết đối tượng thương yêu của em nên em không thể nào hiểu, không thể nào còn thương ba mẹ được nữa.  Nhưng cha mẹ em không buồn giận vì biết con mình đang đau khổ đến cùng cực.  Nông trại của ông bà rất xa xóm làng nên ở đây em không có bạn, con nai là người bạn duy nhất mà em đã nuôi từ hồi nhỏ, cho nên giết con nai là làm cho em mất hết đối tượng tình thương, làm cho trái tim của em rớm máu.  Như vậy người kia có thể làm những điều dại dột, người kia có thể làm khổ mình bằng ngôn ngữ, hành động hay tư tưởng, nhưng nếu mình hiểu được thì mình sẽ không đau khổ, mình sẽ có khả năng tha thứ.  Và người có hiểu biết thì có thương yêu, nghĩa là có đức Quán Thế Âm trong lòng.  Mà khi đã có Ngài ở trong lòng rồi thì thế nào cũng cảm thấy nhẹ nhàng, ít khổ đau, tại vì đức Quán Âm là chất liệu cam lộ của tình thương, của sự mát mẻ thanh lương.

Trang 509:  Nếu chúng sanh nào có nhiều dâm dục quá mà thường cung kính thực tập, trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát, thì tính nhiều dâm dục sẽ được chuyển hóaNếu không hiểu kinh, nếu đọc kinh với những nhận biết thông thường, thì chúng ta sẽ không hiểu được những câu như thế này.  Tại sao khi trong người của mình có nhiều năng lượng về sinh lý mà niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì có thể chuyển hóa được năng lượng đó?  Thật ra thì cũng dễ hiểuChúng ta đã học rằng cái gọi là năng lượng sinh lý, sexual energy, chẳng qua chỉ là một loại năng lượngNăng lượng tiêu cực hay tích cực thì cũng chỉ là năng lượng mà thôi.  Chúng ta ai cũng có năng lượng cả.  Là người trẻ, lớn lên thế nào cũng có nhiều năng lượng, nếu không thì chúng ta làm sao học hỏi, làm việc, theo đuổi lý tưởng được?  Nhưng nếu ta không biết quản lý năng lượng thì những năng lượng ấy có thể đổ dồn về một phía, và nó sẽ bức bách ta.  Vì vậy vấn đề ở đây là phương cách quản lý năng lượng, đừng để cho năng lượng dồn về một phía tiêu cựcChúng ta phải sử dụng năng lượng để thực hiện những điều mà chúng ta cần thực hiện.  Chuyện học hỏi, chuyện tu tập, chuyện giúp đời, tất cả đều cần năng lượngNếu không làm những việc đó đúng mức thì chúng ta sẽ có dư thừa năng lượng, và năng lượng này sẽ đi về phía tạo nên nhu yếu dâm dục.  Nếu biết sử dụng thì năng lượng sẽ phục vụ chúng ta, phục vụ những người mà chúng ta muốn phục vụ.  Ngược lại nếu chúng ta không biết quản lý thì cái năng lượng đó sẽ dồn về phía sinh lý làm cho chúng ta bị bức bách.  Đó là đứng trên phương diện quản lý năng lượng của con người mà nói.

Đứng trên phương diện hiểu và thương, thì chúng ta thấy rằng cái hiểu và cái thương có thể mang đến cho chúng ta tinh thần trách nhiệm.  Nếu quả thật có hiểu và có thương thì chúng tatinh thần trách nhiệm rất lớn, và tinh thần này sẽ bảo vệ cho chúng taVấn đề dâm dục cũng như tất cả các vấn đề khác, nếu không phải thời, không đúng pháp, có thể gây ra đau khổ.  Khi hai người trẻ yêu nhau, họ muốn ngồi bên nhau, muốn gần gũi nhau, rồi đi đến chỗ hòa hợp giữa hai thân thể.  Đó là chuyện rất tự nhiên, không có gì lạ lùng hết.  Nhưng nếu có hiểu và có thương, thì họ sẽ có tinh thần trách nhiệm.  Họ biết rằng nếu không giữ gìn cho người mình thương, nếu có chuyện gì xảy ra trước khi làm đám cưới, thì sẽ có rất nhiều người đau khổ, trong đó có người mình thương, có gia đình cả hai bên, và có cả mình nữa.  Cho nên vì thương người đó mà mình phải bảo vệ cho người đó.  Cả hai người cùng phải giữ gìn cho nhau.

Trong truyện Kiều, ngày gia đình đi ăn cỗ, nàng Kiều tìm cách ở lại nhà để có dịp liên lạc với người yêu bên láng giềng.  Ruốt cuộc hai người được gặp nhau, hai người đã được uống trà, làm thơ với nhau, cắt tóc trộn với nhau và nhìn trăng thề nguyền cùng nhau.  Đó là những chuyện mà người thương nhau thường hay thực tập.  Sau khi Thúy Kiều chơi đàn thì chàng Kim muốn đi xa hơn cái ranh giới đã định cho hai người trước khi cưới nhau.  Thúy Kiều ngăn lại.  Cô nói rằng, nếu chúng ta đi xa hơn thì sự kính trọng lẫn nhau sẽ mất, và điều đó sẽ có hại cho tình yêu của chúng ta.  Khi Kiều nói lên câu đó với tâm trạng bình thản, thức tỉnh và ngọt ngào thì chàng Kim ngưng lại liền lập tức, và tự nhiên lòng thương mến, quý trọng của chàng đối với người con gái tăng lên gấp bội.  Đây là cái hiểu, hiểu rằng nếu mình không ngưng ở chỗ đó thì thương nhau trở thành hại nhau, mình làm cho hư nát cái tình yêu mà cả hai cùng trân quý.  Cho nên cái hiểu đưa đến cái thương, và cái thương này mới đích thật là thương, vì nó được làm bằng chất liệu của hiểu.  Cái thương này bảo vệ cho mình, cho người mình yêu, cho cha mẹ mình, cho thầy bạn mình.

Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là ta niệm sự hiểu biết, niệm sự thương yêu, nhờ đó mà năng lượng dâm dục sẽ biến thành năng lượng hiểu biết, năng lượng thương yêu.  Do đó mà tâm ta được điều phục và thân ta được hộ trì. Rất rõ ràng, không có gì khó hiểu cả.  Dầu người con trai đang bị người con gái thu hút như một mảnh nam châm, và người con gái cũng bị người con trai thu hút lại như thế, nhưng nếu những người ấy có cơ hội thực tập hiểu biết, thì họ sẽ thấy rất rõ được hiệu quả việc làm của họ, và họ sẽ biết rằng nếu khôngtinh thần trách nhiệm, nếu không kính trọng lẫn nhau thì người này sẽ làm cho người kia khổ và tất cả sẽ bị tan nát.  Cho nên giữ giới không phải là tuân theo những sự ràng buộc, những điều ngăn cấm, làm như vậy chưa phải là giữ giớiGiữ giớithực tập chánh niệm, giới mà không làm bằng chánh niệm thì giới đó chỉ là sự ràng buộc, cấm cản, khổ đau.  Giới thật được làm bằng chánh niệm, và chánh niệm đưa tới cái hiểu và cái thương, vì vậygiữ giới rất dễ.  Mình không muốn làm khổ người kia, không muốn làm khổ mình, không muốn làm khổ cộng đồng của mình, cho nên mình giữ giới.  Thương mà giữ giới chứ không phải vì bị bắt buộc mà giữ giới.  Có đức Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong lòng thì mình sẽ có rất nhiều hạnh phúc khi giữ giới.

Niệm đức Quán Âm sẽ đưa tới sự hiểu biết, lòng thương yêutinh thần trách nhiệm, nhờ vậy mà ta đối trị được với dâm tâm, và có khả năng chuyển hóa năng lượng dâm dục thành ra những năng lượng lành mạnh hơn.

Chúng ta đi xuống một dòng nữa:  Nếu những người nào có nhiều oán hận và nếu biết thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì sẽ được giải thoát ra khỏi sân hận. Khi hiểu được vấn đề đa dâm rồi thì ta sẽ hiểu được vấn đề đa sân.  Học đạo Bụt chúng ta biết rằng giận hờn là một ngọn lửa có thể đốt cháy tất cả mọi công trình của chúng taCông trình của chúng ta như là những khu rừng lớn, phải trồng trỉa, vun bón hàng chục năm, nhưng một đóm lửa giận hờn nhỏ, cũng có khả năng đốt thiêu rụi cả khu rừng.  Chúng ta biết rằng muốn xử lý cái giận, ta có thể thực tập chánh niệm để đưa Bồ Tát Quán Thế Âm vào lòng.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một thứ nước Cam lộ rất tươi mát, thanh lương, và nước đó có công năng dập tắt ngọn lửa hận thù trong tâm ta.  Có đức Quán Thế Âm Bồ Tát tức là có sự hiểu biết, có sự thương yêu, có tinh thần trách nhiệm, do đó khi niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì ta dịu xuống, ta sẽ không nói ra những câu nói có thể làm đổ vỡ đó, những câu nói có thể gây nội kết và tạo ra đau khổ dài dài cho những người chung quanh.

Ngu si thì cũng vậy.  Ngu si tức là thiếu hiểu biết.  Trong lúc ta niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm, ánh sáng của hiểu biết có dịp đi vào, nên dần dần ta bớt ngu si.  Trước đây chúng ta đã học rằng niệm đức Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ không bị lửa, bị nước làm hại, nay chúng ta lại học thêm được rằng niệm sức mạnh của Ngài, ta cũng sẽ không bị tham, sân, si làm hại.  Vì vậy cho nên kinh Pháp Hoa đi từ thấp lên cao, cũng giống như những bãi biển có cát, từ từ đi xuống sâu vào biển.  Cái tài năng của kinh Pháp Hoa là ở chỗ đó, tất cả mọi giới đều có thể hiểu được kinh Pháp Hoa.

Trong số những người niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm, có rất nhiều người nghĩ rằng niệm là để tránh khỏi những tai nạn từ bên ngoài đưa đến.  Họ không biết rằng những năng lượng tham dục, hận thù, và ngu si của mình là những tai nạn rất lớn do chính mình tạo ra cho mình.  Trong kinh Pháp Hoa, tham, sân, và si đã được diễn tả trong ba câu liên tiếp.  Đó là ba tai nạn căn bản của tất cả các tai nạn.

Chúng ta biết rằng nếu ta có một người thương, người đó có thể hoặc là mẹ, là cha, là thầy hay là bạn của ta, mỗi khi có vấn đề khó khăn, khổ đau, ta nhớ đến người đó, gọi tên người đó và ta thấy đỡ khổ.  Người đó chưa phải là một vị Bồ Tát nhưng khi hình bóng của người đó hiện ra trong trái tim của ta, hoặc khi nghe tên của người đó, ta đã thấy bớt khổ, huống hồ đây không phải là một người thường, đây là một người mà hạnh nguyện đã đi đến chỗ cao siêu, cho nên mỗi khi chúng ta tiếp xúc được với chất liệu của Quán Thế Âm, nghe tới danh hiệu của Ngài, thì phép lạ hiển hiện trong lòng ta, và nỗi khổ niềm đau của ta tan biến một cách rất mầu nhiệm.  Đây là một chuyện rất khoa học, không có gì là mê tín dị đoan.

Khi ta tạo dựng ra một trung tâm tu học như Làng Cây Phong, Làng Mai, hay Tu viện Kim Sơn, nếu chúng ta đã từng được sống ở đấy những giây phút hạnh phúc, đã từng tiếp xúc với những người an lạc, hiền lương, thì trung tâm đó trở thành một kinh nghiệm, một hình ảnh rất dễ thương trong tâm ta.  Dù sau này có đi đâu, có lạc lõng tới phương trời nào, thì mỗi khi nghe tên của trung tâm đó, hoặc thấy được hình ảnh của cảnh cũ người xưa, thì tuy là ta đang không ở tại đó mà tâm ta đã dịu lại.  Nghe tên trung tâm đó là ta hình dung được những cây thông, cây sồi, những khuôn mặt từ bi, và tâm ta thấy rất an lạc, vui mừngQuán Thế Âm Bồ Tát cũng vậy, Ngài là một hải đảo rất xanh tươi rất dịu hiền, nên mỗi khi chúng ta hình dung được Ngài, chúng ta nghe được tên Ngài, thì tự nhiên trong lòng ta thấy nhẹ nhàng, thoải mái, và những khổ đau của ta dịu bớt đi rất nhiều, như một phép lạ mầu nhiệmVì vậy niệm Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vấn đề mê tínTâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như mang hình ảnh bà mẹ dịu hiền trong tâm ta, mỗi khi nhớ tới là ta thấy êm dịu trong lòng.  Người nào mà ta thương yêutin cậy, đều có ảnh hưởng như vậy trên tâm của ta cả.

Bồ Tát Quán Thế Âm là ai?  Bồ Tát Quán Thế Âm là người thương, The person who loves, who knows how to love because she understands. Đây là một hình tượng, một nhân vật biểu hiện cho Hạnh môn, cho công dụng của kinh Pháp HoaBồ Tát Quán Thế Âm tới sau Bồ Tát Thường Bất Khinh, tới sau Bồ Tát Dược VươngDiệu ÂmBồ Tát Quán Thế Âm là một hình ảnh tuyệt diệu của sự thực tập, và chúng ta có thể học được, thực tập được những điều mà Bồ Tát thực tập:  Lắng tai nghe để hiểu và để có mặt.  Sự có mặt đó không phải là một sự có mặt tầm thường.  Sự có mặt đó có tính cách chớp nhoáng, ngay trong giây phút ấy, tại vì tâm ta đi rất nhanh.  Mỗi khi chúng ta niệm tưởng đến đức Quán Thế Âm thì Ngài có mặt ngay tại lúc đó, không chậm một giây phút nào cả.  Khi tâm ta niệm đức Quán Thế Âm, thì chất liệu Quán Thế Âm có mặt ngay.  Niệm ở đây là chánh niệm, là nhớ nghĩ, là tỉnh thức.  Niệm luôn luôn có đối tượng, ví dụ khi mình niệm hơi thở, hay mình niệm Bụt, thì hơi thở và Bụt là những đối tượng có mặt tức khắc.  — đây đối tượng là Quán Thế Âm.

Có thể nói rằng chúng ta ai cũng đã từng thương và cũng đã biết rằng thương không có nghĩa là chỉ ngồi đó để hưởng sự ngọt ngào.  Thương là một sự thực tập để đem lại niềm vui cho nhiều người, trong đó có chính bản thân ta.  Khi một người cần đến ta, thường thường ta tìm cách để đến với người đó.  Chúng ta có thể dùng điện thoại, dùng xe cộ, thư từ để có mặt với người đó.  Thấy người đó khổ là tự nhiên chúng ta muốn làm một cái gì để chứng tỏ sự có mặt của ta.  Vì mình là người thương, nên mình muốn làm việc đó.  Khi có ý hướng ấy thì tâm ta đã có chất liệu của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Ta cần làm cho chất liệu ấy lớn lên thôi.  Ta thấy khoảng cách giữa ta và đức Bồ Tát không quá lớn, tại ta cũng đã có hạt giống của thương yêu, của chăm sóc, của sự muốn có mặt.  Thương ai thì muốn có mặt với người đó khi người đó đau khổ.  Cho nên lắng tai nghe, tìm tới là những chất liệu có sẵn trong lòng của tất cả chúng taBồ Tát Quán Thế Âm thực hiện được cái tam muội gọi là Hiện Nhất Thiết Pháp Thân, cho nên Ngài có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, còn chúng ta thì chỉ có thể có mặt ở một nơi thôi.  Nhưng nếu quý vị biết thực tập thì quý vị cũng có thể có mặt ở nhiều nơi trong một lúc.  Một người đàn bà Việt-nam đảm đang cũng là một người đang thực tập hạnh Quán Thế Âm.  Một mặt mình muốn làm cho chồng có hạnh phúc, mặt khác mình muốn làm cho con hạnh phúc, dù chồng đang đi làm việc xa, dù con đang ở nội trú trong một trường đại học.  Rồi đến gia đình chồng.  Mình muốn cho mẹ chồng được no ấm đầy đủ, vì hạnh phúc này tạo ra hạnh phúc cho chồng mình và cho mình.  Vì vậy, những bà mẹ đó, tuy là người trần mắt thịt, nhưng nhìn cho kỹ thì ta thấy bà có rất nhiều cánh tay, tay này với sang bên Đông, tay kia với sang bên Tây.  Đàn ông cũng có thể thực tập như thế.  Có nhiều người biết lo cho hàng trăm người trong một lúc.  Họ muốn có mặt đồng thời ở nhiều nơi.  Đứng về phương diện hình thức mà nói thì ta chỉ có thể thấy được người đó ở một nơi thôi, nhưng trên thực tế thì người đó có thể có mặt đồng thời ở nhiều nơi, và chúng ta phải có một máy chụp hình rất đặc biệt, mới có thể chụp được sự thực đó.  Thành ra phân biệt rằng chúng ta là người phàm, còn Bồ Tát là một vị thánh, và sự khác biệt giữa chúng taBồ Tát là một sự khác biệt tuyệt đối, là không đúng.  Bởi vì cái ước muốn, cái phương thức của chúng ta cũng giống như của Bồ Tát, nhưng tại sự thực tập của chúng ta chưa đến nơi đến chốn, thành ra mức độ thực hiện của chúng ta còn nhỏ hơn của Bồ Tát nhiều đấy thôi.  Sự thực thì tâm chúng ta có đủ các hạt giống đó.  Ai cũng muốn có mặt đồng thời ở khắp nơi để làm vơi nỗi khổ của những người mình thương, vì vậy cho nên phương pháp hiện thânphương pháp không phải chỉ có Bồ Tát Quán Thế Âm mới có thể làm, chúng ta ai cũng muốn thực tập và có khả năng làm được việc đó cả.

Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Bụt:  Bạch Thế Tôn, Bồ Tát Quán Thế Âm dạo chơi trong cõi ta bà như thế nào? Chữ dạo chơi này chúng ta đã học rồi.  Dạo chơi tức là không hấp tấp.  Bạch đức Thế Tôn, trong khi Bồ Tát Quán Thế Âm qua lại một cách thoải mái trong cõi ta bà, thì Bồ Tát thực tập việc hiện thân độ người như thế nào?  Bụt trả lời rằng: Khi cần hiện thân Bụt, thì Quán Âm Bồ Tát hiện thân Bụt, để đến với người cần mình. Nghĩ cho kỹ thì mình cũng làm được chuyện này trên một bình diện hạn hẹp hơn.  Mỗi khi mình ngồi uống trà trong tỉnh thức, người ta nhìn mình, thì người ta được độ.  Khi ta có uy nghi, an lạc, thì Bụt có mặt ở trong ta, người kia nhìn ta người kia cũng được chuyển hóa, và trở về với chánh niệm.  Điều đó ta làm được và làm được đến một mức độ nào đó.  Chiếc lá mùa Thu khi rơi xuống, nó cũng có thể rơi một cách rất thanh thản, như lượn múa trong không gian, và cũng thực hiện một hóa thânMùa Xuân, chiếc lá ở trên cành, ca hát và vẫy tay đón nhận ánh sáng, nó cũng có thể độ mình, độ một cách khác.  Cuối Thu, nó rơi xuống và độ mình một cách khác.  Khi chiếc lá đã nằm trên mặt đất, và chân mình dẫm lên, nó độ mình một cách khác nữa.  Chỉ cần mở mắt ra, nhìn cho sâu sắc là mình thấy được những hình thái hiện thân khác nhau của chiếc lá.  Ai nói rằng Bụt và Bồ Tát đã nhập diệt?  Chỉ cần mở mắt ra là thấy được Bụt và Bồ Tát ở ngay bên mình.

Bụt nói tiếp: Nếu cần hiện thân Duyên giác thì Bồ Tát hiện thân Duyên giácDuyên giác là người tu, sống một mình, thực tập quán chiếu về nhân duyên và có thể giác ngộNếu cần hiện thân Thanh văn, thì hiện thân Thanh văn.  Có những người cần một vị Thanh văn để tu học theo, họ chưa có khả năng hay chưa muốn gặp các vị Bồ TátVì vậy khi gặp một vị Thanh văn, ta đừng nói ông chỉ là người ưa pháp nhỏ thì mình sẽ mang tội.  Vì trong vị Thanh văn ấy có một hạt giống Pháp lớn đang sẵn sàng nẩy mầm.  Điều này ta phải thực tập một cách tinh chuyên.  Tiếp chuyện với các thầy Nam tông, với các thầy Bắc tông, với các Phật tử Tây tạng, ta phải cẩn thận, họ đang tu tập như vậy, có thể họ đang là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đừng chê họ tụng đọc như thế này, đốt nhang như thế kia.  Đôi khi hương họ đốt có mùi mình không ưa thích, nhưng có thể họ phải dùng loại hương ấy mới độ được người ở vùng ấy.

Nếu cần sử dụng thân của Phạm Vương, thì hiện thân Phạm Vương, nếu cần dùng thân Đế Thích thì dùng thân Đế Thích. Tiếp đó, ta thấy Bụt nêu ra một số các thân mà Bồ Tát Quán Thế Âm thường hóa hiện để độ người.  Trong đó có thân của vị Tiểu Vương, tức là một vị vua nhỏ như là Vua Tịnh Phạn [Suddhodana], hay thân của một vị trưởng giả, tức là một businessman, Bồ Tát Quán Thế Âm đôi khi hiện thân thành một nhà doanh thương.  Nói chuyện với nhà doanh thương, nếu ta thấy ông không bị kẹt vào danh lợi và quyền hành, thì ta nhận ra đó là Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiệnNếu cần dùng thân cư sĩ, Bồ Tát hiện thân cư sĩ.  Nhìn vào một vị cư sĩ, ta có thể thấy đó là đức Quán Thế Âm Bồ Tát.   Ta phải có thái độ cung kính đúng mức, dù ta đã là người xuất gia và lên tới bực vị Hoà Thượng.

Nếu cần phải hóa hiện ra thân một vị Tể tướng, một vị Bộ trưởng thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra làm Tể tướng, Bộ trưởng.  Nếu cần hiện thân một vị Bà la môn thì đức Quán Âm hiện ra Bà la mônNếu cần hiện ra thân khất sĩ, nữ khất sĩ, cận sự nam, cận sự nữ mới độ người được, thì Quán Thế Âm Bồ Tát hiện ra khất sĩ, khất sĩ nữ, cận sự nam, cận sự nữ để mà độ đời. Khi đọc những câu này, chúng ta thấy rất rõ là chúng ta không nên có mặc cảm tự tôn hay tự ti, tại vì dưới hình thức nào, với ngôi vị nào, chúng ta cũng có thể thực tập hạnh của đức Quán Thế Âm.  Chỉ cần có tình thương trong lòng thì khất sĩ cũng được, khất sĩ nữ cũng được, cư sĩ nam cũng được, cư sĩ nữ cũng được, em bé cũng được, tất cả mọi giới, nếu có tình thương là có thể độ đời.  Mang tâm trạng kỳ thị cao thấp, là chứng tỏ chưa có sự có mặt đích thực của chất liệu Quán Thế Âm trong tâm của chúng ta.

Nếu cần hiện thân phụ nữ thì hiện thân phụ nữ để thuyết pháp.  — các nước Đông Nam Á người ta thường hình dung đức Bồ Tát Quán Thế Âm như một phụ nữ.  Người phụ nữ diễn tả được tình thương dễ dàng hơn người nam, tại vì trong nền văn minh Khổng Mạnh người đàn ông có vẻ hơi khô khan.  Thương nhưng không nói ra, nghĩ rằng nói ra thì mất linh, nên chỉ để tình thương kín đáo trong tâm.  Vì vậy mà nhiều lúc đứa con nghi ngờ, không biết cha mình có thương mình thật không, nếu thương sao mà khuôn mặt lạnh như tiền như thế được?  Ngược lại, người phụ nữ được coi là giới biết biểu lộ tình thương.  Do đó, đứng về phương diện văn hóa mà xét, chúng ta hiểu được tại sao người Á Châu lại chọn lựa hình tướng của người phụ nữ để đại diện cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Trên phương diện hình thức, người phụ nữ diễn tả được tình thương của đức Quán Thế Âm hay hơn người nam giới.  Nam giới hãy cẩn thận, hãy quán chiếu, hãy học hỏi để biểu lộ tình thương của mình.

Nếu cần hình thức của một chú bé hay một cô bé thì đức Quán Thế Âm hiện ra một chú bé hay một cô bé để độ đời.  Nếu cần hóa thân làm loài Trời, loài Rồng, loài Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, loài nhân hay loài phi-nhân, để độ người, thì Bồ Tát liền hiện ra những hình thái đó. Nói tóm lại thì Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa hiện ra bất cứ một hình thái nào để cứu độ, và đôi khi những hình thái đó trông rất dễ sợ.

Tình thương có rất nhiều mặt, nhiều khi nó không hẳn phải là ngọt ngào, không hẳn phải là dịu dàng mà vẫn là tình thương.  Tại các chùa ở Việt-nam, ta thấy có ông Thiện, và ông Ác.  Ông Thiện thì khuôn mặt rất hiền, con nít ưa tới gần, nhưng ông ác thì mình ngán lắm.  Quán Âm Đại Sĩ nhiều khi hiện ra làm Diện Nhiên Vương, có khuôn mặt rất dữ, mắt trừng đổ lửa, tay chỉ chỏ dọa nạt.  Diện Nhiên Vương là một hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Vì muốn cho chúng sanh sợ mà đừng làm điều bậy nên Ngài trừng mắt dọa nạt.  Sự dọa nạt này, không bắt nguồn từ sự giận dữtrái lại đã phát sinh từ lòng thương không bến bờ.

— Việt-nam, trên con đường xe hơi đi từ Sàigòn lên Đà lạt, có một đoạn đi qua đèo rất nguy hiểm, nhiều xe hơi rơi xuống đèo, nhiều người đã bị mất mạng.  Tại đó, người ta có dựng lên một cái miếu để thờ các oan hồn.  Trong giới lái xe có những người có tu học, họ biết chỗ ấy là chỗ nguy hiểm.  Khi lái xe đến đó, tự nhiên họ phát khởi chánh niệm, và chỉ cần thực tập chánh niệm là họ đưa lại sự an toàn cho họ và cho hành khách trên xe.  Nhưng có những người lái xe không thực tập chánh niệm, họ nghĩ rằng nếu đi ngang qua đây mà không có sự cung kính thì có thể những vị thần hay những oan hồn sẽ làm cho họ mờ mắt, và xe sẽ rớt xuống đèo.  Có những người cứng đầu giống như những tay anh chị Cầu Muối, không tin ai hết, không kính nể ai cả, nhưng khi đi ngang qua ngọn đèo này, các vị đó cũng kính cẩn dỡ nón ra, không dám hỗn hào.  Đó là một hình thái hóa độ của đức Quán Thế Âm.  Ngài dọa rằng nếu anh không đàng hoàng thì anh sẽ rơi xuống đèo, nhờ vậy mà Ngài cứu được người đó và cứu luôn được những hành khách trên xe.  Tình thương có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức, đôi khi bên ngoài không có vẻ dịu dàng nhưng bên trong chứa một nội dung rất ngọt ngào.  Người Việt có câu:  Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi,  vì thương mà phải rầy rà.

Sang trang 514:  Này Bồ Tát Vô Tận Ý, vị Bồ Tát có tên là Quán Thế Âm đó đã thực hiện được bao nhiêu là công trình như tôi đã nói, đã sử dụng những hình thái khác nhau để rong chơi trong các cõi nước, mà độ thoát cho các loài chúng sanh, vì vậy quý vị nên cung kính cúng dường vị Bồ Tát đó. Trong những trường hợp nguy hiểm và có người hay hoảng sợ lo âu, Vị Bồ Tát đó thường ban cho họ một sự không sợ hãi, một sự an tâm, vì vậy mà vị Bồ Tát đó được dâng tặng một danh hiệu rất đẹp, đó là người thực tập Vô-úy-Thí.  Vô-úy-Thí là ban tặng cho món quà không sợ hãi.  Sợ là một tâm trạng làm cho chúng ta khổ đau, làm ta mất an lạc rất nhiều.  Sợ hiện tại, sợ tương lai, sợ người, sợ mình, sợ tất cả mọi thứ.  Sống trên đống lửa thì không thể nào có hạnh phúc được.  Sợ người đó không còn thương mình nữa, sợ người đó thù oán mình, sợ người đó đang tìm cách tiêu diệt mình, cái sợ đó làm cho mình mất hết niềm vui sống của chính mình.  Bồ Tát Quán Thế Âm là một người có cái hạnh đem đến cho chúng ta món quà quí hóa đó, món quà Vô-úy.
Trong đạo Bụt có ba loại quà: Quà vật chất; quà phương pháp, ví dụ dạy cho ta một nghề thì đó là quà phương pháp, chỉ cho người ta cách tu học thì đó là quà pháp; và quà thứ ba là làm cho người ta không sợ.  Kỳ thực, khi biết niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm thì mình hết sợ.  Món quà này ta nhận được liền.  Bài thực tập Quay về nương tựa hải đảo tự thân, Chánh niệm là Bụt, Soi sáng xa gần…, cũng là một món quà Vô-úy.  Những lúc ta hoảng hốt, không biết phải làm gì, chúng ta bất an, thực tập bài đó là phương cách hay nhất mà chúng ta có thể làm trong giây phút ấy.  Không có cái gì hay hơn là trở về nương tựa, tức là thực tập quy y, dùng hơi thở vào, ra, đem lại cho mình sự an lạc, thanh tịnh, vì vậy, đó cũng là một món quà chứa đựng chất liệu vô úy.

Ví dụ ta đang ở trên một chiếc máy bay và máy bay đang gặp khó khăn, không biết có đáp xuống được an toàn hay không.  Lúc đó nếu ta cuống lên, la hét, khóc than, thì hành động ấy chỉ có thể làm hại cho mình, và làm cho người khác mất tinh thần.  Ngược lại nếu lúc đó ta biết thực tập quy y, thì tự nhiên ta đem lại cho tâm hồn ta sự vô úy, ta giúp cho ta thanh tịnh, giúp cho người khác thanh tịnh và trong trạng thái thanh tịnh đó, ta sáng suốt hơn, ta biết cần làm gì, và không được làm gì để cho tình trạng sáng sủa thêm ra.  Đó là những điều mà Bụt đã nói ra để trả lời câu hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ý.

Chúng ta có một bài tán đức Quán Thế Âm cần dịch ra tiếng Việt, tại vì bản chữ Nho hay lắm:

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài,
Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai,
Tường quang thước phá thiên sinh bịnh,
Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai,
Thúy liễu phất khai kim thế giới,
Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài,
Ngã kim khể thủ phần hương tán,
Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tàiTrí tuệ rộng và sâu, từ trí tuệ đó mà phát hiện một biện tài lớn.  Biện tài là khả năng có thể diễn tả được những cái khó diễn tả, có thể chinh phục những người khó chinh phục.  Trí tuệ là chất liệu ở bên dưới, còn biện tài là nghệ thuật ở bên trên.

Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai: Đứng một cách trang nghiêmtuyệt diệu trên các đợt sóng.  Đây là một hình ảnh rất đẹp mà các nghệ sĩ thường dùng để diễn tả đức Quán Thế Âm.  Đứng trên những làn sóng mà không bị những làn sóng kia xô đẩy, làm chìm đắmTuyệt trần ai có nghĩa là không dính một mảnh bụi nào, rất tinh khiết, nhẹ nhàng.  Tuy đứng trên sóng sinh tử nhưng không bị chìm đắm trong sóng sanh tử.

Tường quang thước phá thiên sinh bịnh: Tường quang là ánh sáng lành của đức Quán Thế Âm, có khả năng công phá và chữa lành được muôn ngàn bệnh tật.  Bệnh khổ là một gánh nặng của kiếp người, và Quán Thế Âm là người có thể dùng cái hào quang của mình mà trị liệu tất cả những bệnh khổ đó.

Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai: Nước cam lộ trượng trưng cho tình thương của Bồ Tát có thể làm tiêu tán những tai nạn bị dồn chứa trong vạn kiếp.  Chất liệu cam lộ, tiếng Phạn là Amrta, phiên âm là A-mật-ri-đa, có thể làm tiêu trừ tai họa muôn ngàn kiếp.

Thúy liễu phất khai kim thế giới: Với cành dương liễu xanh biếc, Bồ Tát phẩy một cái là mở ra một thế giới hoàng kim.  Phất nghĩa là phẩy, như trong chữ phất trần, phẩy bụi.  Thế giới hoàng kimthế giới của hạnh phúc.

Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài: Khi đóa sen hồng mọc vượt lên, thì Ngài làm xuất hiện một tòa lâu đài bằng ngọc.  Tòa lâu đài này là tòa lâu đài của giác ngộ, của thế giới cực lạc.  Người ta thường nói kim thế giới, ngọc lâu đài, nghĩa là thế giới vàng, lâu đài ngọc.

Ngã kim khể thủ phần hương tán: Giờ đây con cúi đầu xuống, đốt hươngca ngợi Ngài.  Phần hương tức là đốt hương, tán là ca ngợi.

Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai: Xin quay mặt về phía nhân gianhiển hiện pháp thân của Ngài để chúng con được thấy.  Xin hướng về cõi người và hiện rõ chân thân của Ngài cho chúng con thấy.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bây giờ hiểu nghĩa rồi, ta hãy cố làm một bài dịch cho hay, và nếu có thể thì đặt thành nhạc luôn[11] .

Một bài tán khác cũng đã được dịch và đặt thành nhạc mà lát nữa đây Sư cô Bảo Nghiêm sẽ hát cho chúng ta nghe.  Đây là một bài Thi tán mà tôi được nghe từ hồi còn nhỏ và rất thích.  Mỗi lần nghe là cảm động, nhưng chưa bao giờ có dịp dịch ra quốc ngữ.  Mùa hè năm rồi, có Sư chú Nguyện Hải làm thị giả, ở Cốc Ngồi yên.  Thầy trò có được vài phút rãnh rỗi, tôi ngồi trên võng và lần đầu tiên dịch bài đó ra tiếng Việt.  Nguyên văn bài tán chữ Hán là:

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn,
Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn,
Dương chi nhất đích chân cam lộ,
Tán tác sơn hà đại địa Xuân.

Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn: Biển động, và tiếng hải triều vang dội thành ra kinh Phổ Môn, mở rộng ra một cánh cửa để mọi người có cơ hội hiểu biết Pháp mầu.  Câu này rất hùng.

Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn: — giữa chín bông sen kia, lý tức là ở giữa, ở trong lòng, xuất hiện một em bé.  Em bé ở đây tức là sự trinh nguyên, là cái sơ tâm.  Một hình ảnh của sự giải thoát, sự giác ngộ, sự không lo lắng, không u sầuHình ảnh em bé được sử dụng trong nhiều truyền thống.  Đạo Bụt nói rằng khi chúng ta được giải thoát hay khi chúng ta sinh sang cõi cực lạc, thì chúng ta sẽ biến thành một em bé, và được thai nghén trong một bông sen.  Khi bông sen nở ra thì chúng ta lập tức thấy được Bụt A Di ĐàHoa khai kiến Phật có nghĩa là vậy.  Trong Cơ Đốc giáo cũng nói tương tự:  Nếu quý vị không trở lại thành một em bé, thì quý vị không thể nào đi vào nước Chúa. Vì vậy hình ảnh của em bé là hình ảnh của một sự sống mới, một sự chuyển hóa mới.  Người nào tu học đàng hoàng thì cũng đều biến thành em bé, sống an lạc và không có gì để lo lắng. ỘĐồng chơn nhập đạoỢ là đi tu từ hồi tuổi còn nhỏ.  Hai câu này là những hình ảnh rất đẹp.  Thứ nhất là tiếng hải triều làm ra pháp âm, thứ hai là hình ảnh của em bé ở trong bông hoa sen, không có gì đẹp bằng.

Dương chi nhất đích chân cam lộDương chi là nhành dương liễu, nhất đích là một giọt, chân cam lộ là đích thực nước cam lộ.  Một giọt nước cam lộ đích thực ở trên nhành dương liễu của Bồ Tát.

Tán tác sơn hà đại địa Xuân: Tán tức là rải lên, tác là làm thành, sơn hà là sông núi hay đất nước, đại địa là trái đất, the Great Earth.  Chỉ cần một giọt nước trên nhành dương liễu của Bồ Tát thôi, cũng đủ tạo ra một mùa Xuân cho trái đất và cho sông núi.

Bài Thi tán này hay quá làm cho ta có mặc cảm là nếu dịch ra tiếng Việt, thì không thể nào hay bằng.  Tuy vậy hôm ngồi ở Cốc Ngồi Yên, thầy trò đã cống hiến được một bản dịch sau đây, khá nghiêm chỉnh:

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng,
Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen.
Cam lồ một giọt tưới lên,
Xuân về trên khắp mọi miền núi sông,
Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm.

Hơi thơ tuy không được mạnh bằng nguyên bản, nhưng những hình ảnh của bài thơ đều đã có thể diễn tả được.

Phổ Môn vọng tiếng triều dâng: Kinh Phổ Môn vọng lại từ tiếng hải triều đang dâng lên.

Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen: Một em bé đột nhiên xuất hiện trong lòng bông sen.

Cam lồ một giọt tưới lên: Bài dịch thiếu mất chữ dương-chi.  Đúng ra thì phải dịch là Cam lồ từ nhành dương liễu một giọt tưới lên, nhưng như vậy thì dài quá, thơ lục bát mình chỉ được dùng có sáu chữ thôi.  Nếu nói Cam lồ giọt liễu tưới lên thì cũng được, nhưng lại thiếu mất chữ một.  Chữ một rất quan trọng, chỉ cần một giọt thôi cũng đủ làm cho Xuân về trên khắp mọi miền núi sông.

Bây giờ xin mời Sư Cô Bảo Nghiêm lên hát cho đại chúng nghe…

Trước đây chúng ta đã nói đến danh từ Vô úy thí [Abhaya-d€na], một trong những món quà mà ta có thể dâng tặng cho người khác: Món quà giúp họ đừng sợ hãi.  Chúng ta sợ nhiều thứ lắm:  Sợ sanh, lão, bệnh, tử, sợ những sự bất trắc, chúng ta sợ cuộc đời, đôi khi chúng ta sợ chính bản thân của chúng ta nữa.   Vì vậy thực tập để có sự vô úy, thực tập để có sự không sợ là một pháp thực tập rất sâu sắc.  Khi đạt tới vô úy chúng ta mới có khả năng hiến tặng người khác sự không sợ hãi đó.  Đây là một pháp môn đặc biệt của Bồ Tát Quán Thế Âm.  Người tu nào cũng phải thực tập cả, để khi đứng trước những thứ làm cho người thường run sợ, người tu có đủ khả năng vượt thoát sự sợ hãi, có sự vô úy thiết lập thân tâm vững chãi trong giây phút hiện tại.

Sau khi được nghe Bụt nói như vậy rồi thì Bồ Tát Vô Tận Ý rất lấy làm cảm phụcBồ Tát nói: Bạch đức Thế Tôn, bây giờ con phải cúng dường Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát liền đứng dậy, tháo chuỗi ngọc rất giá trị đang đeo ở cổ, trao lên cho Bồ Tát Quán Thế Âm và nói rằng: Xin Bồ Tát nhận chuỗi ngọc này do tôi cúng dường.  Lúc bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận.  Chúng ta thấy hình ảnh hiến tặng viên ngọc đã được sử dụng trong kinh Duy Ma.  — đây, kinh Pháp Hoa sử dụng lại hình ảnh đó.  Nên biết rằng Bồ Tát Vô Tận Ý không phải là một người xuất gia, vì nếu xuất gia thì đâu có đeo ngọc ngà châu báu như vậy.  Bồ Tát Quán Thế Âm từ chối là vì Ngài tự hỏi mình nhận chuỗi ngọc này để làm gì?  Lúc đó Bồ Tát Vô Tận Ý mới khẩn khoản: Xin nhân-giả thương chúng tôichấp nhận món quà cúng dường này.  Thấy vậy, Bụt liền can thiệp vào.  Ngài nói với Bồ Tát Quán Thế Âm: Giờ đây Bồ Tát hãy đem lòng thương Bồ Tát Vô Tận Ý và tất cả bốn chúng có mặt ở đây, trong đó gồm có Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân và phi nhân  v.v… mà chấp nhận chuỗi ngọc này. Tấm lòng từ bi đó không nên chỉ hướng về một người, mà hướng về tất cả đại chúng.  Đây là một sự thực tậptính cách tập thể.  Sự cúng dường này không phải từ một mình Bồ Tát Vô Tận Ý mà là từ tất cả đại chúng có mặt trong Pháp hội, cho nên chấp nhậnchấp nhận cho cả đại chúng, và đó là điều mà Bụt đã nói với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Bụt đã không nói: hãy thương Vô Tận Ýchấp nhận.  Bụt nói hãy thương Vô Tận Ý và tất cả những người có mặt ở đây.  Chúng ta phải để ý đến những chi tiết như vậy trong kinh.

Trang 515: Lúc bấy giờ đức Bồ Tát Quán Thế Âm, vì thương tất cả bốn chúng cho nên chấp nhận chuỗi ngọc.  Đây là lần thứ hai kinh lặp lại cái ý đại chúng cúng dường đó.

Sau khi chấp nhận lễ vật, Bồ Tát chia làm hai phần, một phần dâng lên cúng dường Bụt Thích Ca, một phần dâng lên cúng dường Bụt Đa Bảo.  Tích môn và Bản môn đều có mặt như nhau, một lần.  Có Tích môn là có Bản môn, có Bản môn là có Tích môn.  Đó là cách tu tập của chúng ta, không phải Bản môn và Tích môn là hai phần tách rời.  Mình không thể nói rằng tôi chỉ muốn theo Bản môn, nói vậy thì hỏng, tại vì không có Tích môn thì sẽ không có Bản môn.  Ngược lại nếu loại bỏ Bản môn thì cũng sẽ không có Tích môn.  Vì vậy chia chuỗi ngọc ra làm hai phần để cúng dường Bản môn do Bụt Đa Bảo đại diện, và cúng dường Bụt Thích Ca tượng trưng cho Tích môn, đó là để ý tới cả hai bình diện của sự sống.  Tu học cũng vậy, mình phải để thì giờ cho cả hai phía.  Tuy rằng mình đi vào thế giới của Hoa Nghiêm, của ánh sáng, nhưng mình vẫn không thể bỏ thế giới của hiện tượng, thế giới của nồi niêu, của vườn tược, của quét dọn, mình phải chịu trách nhiệm về cả hai phía.

Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta nên biết rằng các vị Bồ Tát đều có thần lực lớn.  Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Phổ Hiền v.v… đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng kiếp trước.  Nhưng vì xuất hiện trong môn thứ ba tức là Hạnh môn, cho nên vẫn hóa hiện làm người đang còn hành đạo, và khi gặp một vị Bụt, họ vẫn cung kính đảnh lễ, tuy chính bản thân họ đã là một vị Bụt.  Sự kiện Bản môn xuất hiện trong Tích môn rất quan trọng, và cái diệu dụng mà mình thấy là Hạnh môn.  Các vị Bồ Tát ta gặp trong kinh ở đây đều là những vị đã thành Bụt từ vô lượng vô biên kiếp trước, nhưng đứng trước Bụt Thích Ca thì vẫn đóng vai trò của người học trò, của nhà hành đạo.  Quí vị phải để ý đến chi tiết này.  Cũng như trong lễ truyền đăng của chúng ta, khi một vị giáo thọ đã được tiếp nhận bài kệ và cây đèn rồi, trước khi vị đó đăng đàn thuyết pháp, thì tất cả mọi người trong đại chúng, kể cả các vị tôn túc, các vị trưởng thượng, đều đứng dậy cung kính hướng về vị giáo thọ mới để chào đón.  Không phải vì đây là vị giáo thọ duy nhứt, nhưng tất cả các vị kia đều đứng dậy để chứng tỏ rằng đây là một vị giáo thọ mà tất cả mọi giới thiên, nhân đều phải cung kính, tại vì vị này mang trong người một sứ mạng truyền bá chánh pháp.  Các vị Bồ Tát như Phổ Hiền, Quán Âm, Thường Bất Khinh đã thành Bụt từ lâu nhưng đối với Bụt Thích Ca, họ vẫn kính cẩn cúi lạy, vẫn hóa hiện như là người đang còn hành đạoNếu không thấy được điều đó thì chúng ta chưa thấy được rằng đây là cái Hạnh môn, được sử dụng để nối lại cảnh giới Bản môn và Tích môn.

Ta biết rằng Tông Thiên Thaiđại biểu là thầy Trí Giả, đã nghiên cứu kinh Pháp Hoa và đã chia Pháp Hoa ra làm hai môn, Tích môn và Bản môn.  Nhưng trong khóa học này chúng ta thấy sự phân chia đó không được hoàn hảo, vì vậy chúng ta đã chia lại và cho rằng ngoài Tích môn và Bản môn, còn có một môn thứ ba gọi là Hạnh môn.  Bản môn thuộc về Thể, Tích môn thuộc về Tướng, và Hạnh môn thuộc về Dụng.  Hạnh môn không phải là một danh từ mới, nó đã được dùng nhiều lần trong kinh điển đạo Bụt.  Ví dụ trong bài Sám Qui Mạng mà các Thiền Viện Việt-nam tụng đọc buổi sáng, có câu:

Khai lục độ chi Hạnh môn,
Việt tam kỳ chi kiếp hải.

Hạnh môn ở đây có nghĩa là cánh cửa của hạnh phúc.  Do đó trong kinh Pháp Hoa, ngoài hai cánh cửa của Bản môn và của Tích môn, ta thêm vào một cánh cửa thứ ba là cánh cửa Hạnh môn, cánh cửa của hành động.  Tất cả các vị Bồ Tát xuất hiện trong kinh Pháp Hoa, đều tượng trưng cho cánh cửa của hành động.  Chúng ta phải nhận diện cho được các vị Bồ Tát đó ở trong kinh Pháp Hoa.

Sau khi đã trả lời cho Bồ Tát Vô Tận Ý, Bụt Thích Ca kết luận:  Này quí vị, tôi vừa nói cho quí vị nghe về sự rong chơi của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thế giới ta bà của chúng ta, và phân tích cái thần lực cũng như cái tự do của Ngài.  Đó là câu kết luận của Bụt trong phẩm này.

Phần ta vừa đọc là phần trường hàng, tức là văn xuôi.  Nhưng chúng ta đã biết rằng ở trong các kinh phần trường hàng luôn luôn xuất hiện sau phần trùng tụng.

Bây giờ chúng ta đọc phần trùng tụng của kinh, bản chữ Việt lẫn chữ Hán.  Mấy câu đầu có lẽ mới được thêm vào khi có phần trường hàng:

Thế Tôn muôn vẻ đẹp Thế Tôn diệu tướng cụ
Con xin hỏi lại Người Ngã kim trùng vấn bỉ
Bồ Tát kia vì sao Phật tửnhân duyên
Tên là Quán Thế Âm? Danh vi Quán Thế Âm?

Bậc diệu tướng từ tôn Cụ Túc Diệu Tướng Tôn
Trả lời Vô Tận Ý: Kệ đáp Vô Tận Ý:
hạnh nguyện Quán Âm Nhữ thính Quán Âm hạnh
Dáp ứng được muôn nơi. Thiện ứng chư phương sở.

Phương sở là những địa phương khác nhau.  Hành động của Quán Âm gọi là Quán Âm hạnh, đáp ứng được với tất cả các phương sở, không phải chỉ đáp ứng được nhu yếu của một nơi, mà đáp ứng được nhu yếu của tất cả mọi nơi.

Lời thề rộng như biển Hoằng thệ thâm như hải
Vô lượng kiếp qua rồi Lịch kiếp bất tư nghị
Đã theo ngàn muôn Bụt Thị đa thiên ức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh. Phát đại thanh tịnh nguyện.

Lời nguyền của Bồ Tát này sâu như biển cả, tại vì Ngài đã trải qua vô lượng kiếp, đã gần gũi học hỏi với muôn triệu vị Bụt và đã phát đại nguyện độ đời rất thanh tịnh.

Đây nói sơ lược thôi: Ngã vị nhữ lược thuyết:
Ai nghe danh thấy hình Văn danh cập kiến thân
Mà tâm sanh chánh niệm Tâm niệm bất không quá
Thì thoát khổ mọi cõi. Năng diệt chư hữu khổ.

Chữ hữu ở đây có nghĩa là cõi nước, như trong danh từ tam hữuba cõi, là Dục, Sắc và Vô sắc.  Nếu người nào nghe được danh hiệu Quán Thế Âm hoặc thấy được hình dáng Ngài mà tâm hồn không lơ là, có một chút chánh niệm, có một chút chú ý thì đã có khả năng diệt trừ những đau khổ của các cõi.  Không quá có nghĩa  là đi qua một cách luống uổng, không lợi ích gì.  Ví dụ khi đi qua rừng trầm hương mà mình không thấy được cây trầm nào hết thì gọi là không quá.

Nếu có ai ác ý Giả sử hưng hại ý
Xô vào hầm lửa lớn Thôi lạc đại hỏa khanh
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hầm lửa biến hồ sen.  Hỏa khanh biến thành trì.

Hỏa khanh là hầm lửa, trì là cái ao, cái hồ.  Nếu ai có ác ý xô mình xuống một hầm lửa, thì nhờ niệm lực Quán Thế Âm, hầm lửa đó tức khắc biến thành một hồ sen.  Chúng ta nên biết rằng con người nhiều khi sống trong hầm lửa, ngồi trên đống than hồng, ngọn lửa của phiền não, của tham sân đốt cháy trong lòng, không khác gì ta đang ngồi trong hầm lửa.  Nếu có chất liệu của tình thương ở trong trái tim thì tất cả những ngọn lửa đó đều tắt, và tự nhiên mình thấy được mát mẻ như đang ngâm mình trong một hồ sen.  Chuyện này nhiều người đã được thực chứngVì vậy mà chỉ cần niệm Quán Thế Âm, chỉ cần làm sao để tình thương có mặt trong trái tim của ta, là hầm lửa trong ta sẽ tắt ngấm, và tự nhiên ta được bơi lội trong một hồ sen.  Niệm bỉ Quan Âm lực, Niệm ở đây là chánh niệm, tức là nhớ tưởng tới, đem sự có mặt của Quán Thế Âm [sự có mặt của tình thương] về trong trái tim ta.  Đó là Pháp niệm Bụt.  Quán Âm lực là sức mạnh, là thần lực của đức Quán Thế Âm, The power of Mindfulness.  Khi tâm của mình thực hiện chánh niệm về Quán Thế Âm, khi mình đã bắt được làn sóng đó, thì tự nhiên có sự có mặt của năng lượng Quán Thế Âm trong tâm mình.  Chánh niệm là một sức mạnh rất lớn cho nên mình gọi là Niệm lực.  Do đó Niệm bỉ Quan Âm lực nghĩa là có chánh niệm về cái thần lực của đức Quán Thế Âm, mà mình đã dịch đơn giản là dùng sức mạnh Quán Âm.

Đang trôi giạt đại dương Hoặc phiêu lưu cự hải
Gặp nạn Rồng, Quỷ, Cá Long ngư chư quỷ nạn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Sóng gió không nhận chìmBa lãng bất năng một.

Nếu bị trôi giạt trong biển cả và nếu có xảy ra những tai nạn lớn như các loài rồng, quỉ, cá mập làm hại, và nếu chúng ta dùng niệm lực Quán Thế Âm thì sóng gió sẽ không làm ta chìm đắm.  Điều này cũng có thật, tại vì nếu hoảng sợ thì chính chúng ta tự làm đắm chiếc thuyền của chúng ta.  Còn nếu an tĩnh, có định lực thì chúng ta biết nên làm gì và không nên làm gì, cho nên sóng gió không làm đắm thuyền của chúng ta được.

Đứng chóp núi Tu Di. Hoặc tại Tu Di phong
Bị người ta xô ngã Vi nhơn sở thôi đọa
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Như mặt trời trên không.        Như nhật hư không trú.
Đây là một hình ảnh rất đẹp.  Nếu ta đứng ở đỉnh núi Tu Di mà có một người đứng sau lưng, xô chúng ta ngã xuống, thì nguy hiểm không cùng.  Nhưng nếu dùng niệm lực Quán Thế Âm thì chúng ta sẽ đứng lơ lửng trong hư không như là mặt trời.  Như Nhật hư không trú, đó là một hình ảnh rất tuyệt vời, không có gì động tới mình được, mình không bị sa ngã, rớt rụng được.  Khi có tình thương ở trong trái tim rồi thì dù mình đang ở vào tình trạng khó khăn giống như đứng ở đỉnh núi Tu Di, và bị người khác dẫn dụ, lôi kéo, xô đẩy vào vực thẳm, vào đường tội lỗi, thì mình cũng sẽ vững chãi như mặt trời trong hư không, chẳng hề bị lay chuyển, sa ngã.  Có một năm làm thiệp chúc Tết, Làng Mai đã dùng năm chữ Như Nhật Hư Không Trú để chúc mừng năm mới cho mọi người.

Bị người dữ đuổi chạy Hoặc bị ác nhân trục
Rơi xuống núi Kim Cương Đọa lạc Kim Cang sơn
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Không hao một mảy lông. Bất năng tổn nhất mao.

Bị oán tặc vây hãm Hoặc bị oán tặc nhiễu
Cầm đao thương sát hại Các chấp đao gia hại
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán tặc thấy thương tình. Hàm tức khởi từ tâm.

Nếu bị những oán tặc vây hãm, cầm dao, cầm kiếm định làm hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả đều phát khởi lòng thương.

Bị khổ nạn vua quan Hoặc tao vương nạn khổ
Sắp sửa bị gia hình Lâm hình dục thọ chung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đao kiếm gãy từng khúc. Đao tầm đoạn đoạn hoại.

Nếu bị chính quyền bắt bớ một cách oan ức và đem ra hành hình, mà dùng niệm lực Quán Âm, thì quan quân sẽ không xử trảm mình được, và lúc đó đao kiếm sẽ gãy ra từng khúc.

Nơi tù ngục xiềng xích Hoặc tù cấm già tỏa
Chân tay bị gông cùm Thủ túc bị nữu giới
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Được tháo gỡ tự doThích nhiên đắc giải thoát.

Nếu bị bắt, bị tra tấn, bị tù đày mà biết dùng niệm lực Quán Âm thì sẽ tháo gỡ được những thứ đó và sẽ được giải thoát, tự do.

Gặp thuốc độc, trù, ếm Chú trớ chư độc dược
Nguy hại đến thân mình Sở dục hại thân giả
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Người gây lại gánh chịu. Hoàn trước ư bổn nhơn.

Người ta dùng thuốc độc, dùng những phép trù, phép ếm để mong hại mình, nếu mình dùng niệm lực Quán Âm thì những thứ độc dược đó trở lại làm hại người chủ xướng.  Đây là một đoạn kinh mà khi đọc tới tôi không thích lắm.  Cố nhiên khi mình có ác tâm thì chính mình sẽ là người phải gánh chịu cái ác tâm đó.  Có ác tâm thì khi chưa làm, trong người mình đã bị các độc tố tham sân si làm cho đau khổ rồi.  Khi đã làm, thì cố nhiên gây nhân nào sẽ chịu quả đó.  Nhưng đứng trên phương diện từ bi mà nói thì khi niệm Quán Thế Âm, mình có lòng thương ở trong trái tim của mình, thì mình chỉ muốn bản thân mình thoát khỏi cái nạn đó thôi, chứ mình không muốn thuốc độc hay những phép trù ếm trở lại làm hại tác giảVì vậy tôi nghĩ mình nên chữa lại đoạn kinh này.  Đã đành rằng hại nhân thì nhân hại, đó là theo đúng luật nhân quả, nhưng nếu niệm Quán Thế Âm thì lòng từ của Quán Thế Âm sẽ cứu mình và cứu luôn cả người đó, làm cho họ mở mắt ra, để lần sau họ không còn làm như vậy nữa.

Gặp La Sát hung dữ Hoặc ngộ ác La Sát
Rồng độc và quỷ ác Độc long chư quỷ đẳng
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Hết dám làm hại ta. Thời tất bất cảm hại.

Gặp ác thú vây quanh Nhược ác thú vi nhiễu
Nanh vuốt thật hãi hùng Lợi nha trảo khả bố
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều vội vàng bỏ chạy. Tật tẩu vô biên phương.

Rắn độc và bò cạp Ngoan xà cập phúc yết
Lửa khói un hơi độc Khí độc yên hỏa nhiên
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Theo tiếng tự lui về. Tầm thanh tự hồi khứ.

Những loài rắn độc và bò cạp, những hơi độc, chất khói xuất hiện để hại mình, khi niệm lực Quán Thế Âm thì tất cả những thứ đó đều nghe theo tiếng niệm và tự trở về nơi xuất xứ của chúng.

Sấm sét, mây, điện, chớp Vân lôi cổ xiết điện
Mưa đá tuôn xối xả Giáng bạc chú đại vũ
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Đều kịp thời tiêu tánỨng thời đắc tiêu tán.

Đây là phần nói về những tai nạn do thiên nhiên gây ra.  Sấm, sét, lụt lội, mưa đá, bão bùng.  Khi những thứ đó xuất hiện và nếu mình an trú trong niệm lực Quán Thế Âm thì tâm ta an tĩnh, đạt được sự vô úy, và những thứ đó sẽ kịp thời tiêu tán, không làm ta sợ hãi nữa.

Chúng sanh bị khốn ách Chúng sanh bị khổn ách
Vô lượng khổ bức thân Vô lượng khổ bức thân
Trí lực mầu Quán Âm Quán Âm diệu trí lực
Cứu đời muôn vạn cách. Năng cứu thế gian khổ.

Chúng sanh bị muôn vàn những khổ ách, và những khổ ách đó thường trực bức bách hình hài của mình, nhưng trí lực mầu nhiệm của đức Quán Thế Âm có thể cứu khổ được cho cả cõi đời.

Trí phương tiện quảng đại Cụ túc thần thông lực
Đầy đủ sức thần thông Quảng tu trí phương tiện
Mười phương trong các cõi Thập phương chư quốc độ
Không đâu không hiện thân. Vô sát bất hiện thân.

Quán Thế Âm đã thực hiện được tam muội Hiện-nhất-thiết pháp-thân, với trí tuệ rất sâu sắc, với phương tiện rất rộng rãi, cho nên ở tất cả các cõi trong mười phương thế giới, không có cõi nào mà Ngài lại không hiện thân.  Sát ở đây nghĩa là cõi.

Những nẻo về xấu ác Chủng chủng chư ác thú
Địa ngục, quỷ, súc sinh Địa ngục, quỷ, súc sanh
Khổ sanh, lão, bệnh, tử Sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Cũng từ từ dứt sạch. Dĩ tiệm tất linh diệt.

Chủng chủng nghĩa là nhiều loại khác nhau; chư ác thú là những nẻo đường ác độc, tức là những đường đưa về địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.  Ác là dữ, thú không phải là loài vật mà là những đường đi, những nẻo về.  Trong ý thức của mình có những nẻo đi và đường về rất là vực thẳm, mà cũng có những nẻo về rất thênh thang.  Không phải chỉ dùng hai chân mới đi được, mình có thể đi bằng cái tâm của mình. Nếu không được điều phụchộ trì, thì tâm mình thường dẫn mình đi theo con đường địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sanh.  Đi về nẻo của Thiên, Nhân, A-tu-la thì đỡ hơn. Dĩ tiệm tất linh diệt, tiệm là từ từ; linh diệt là làm cho nó mất đi.  Như vậy, khi niệm và đưa hình bóng của Quán Thế Âm ngự trong trái tim mình, thì tự nhiên những nẻo về tối tăm của tâm sẽ tiêu tan từ từ, và ánh sáng chánh niệm sẽ mở cho chúng ta những con đường quang đãngChúng ta nên biết rằng tâm của chúng ta nhiều khi dong ruổi trong những nẻo đường rất hôn mê, rất đen tối.  Có ý muốn tự tử, hay có ý muốn giúp người, đó đều là những nẻo về của ý.  Niệm Quán Thế Âm là một trong những phương pháp điều phụchộ trì tâm, để tâm ta đừng đi về những nẻo đường tăm tối như vậy. Niệm Quán Âm một thời gian, từ từ những nẻo về tăm tối đó của tâm ý sẽ dứt sạch, đó gọi là dĩ tiệm tất linh diệt.   Đây là một phương pháp chữa trị rất hữu hiệu của khoa tâm lý trị liệu.

Quán Chân, Chân quán,
quán Thanh Tịnh thanh tịnh quán
Quán Trí Tuệ rộng lớn Quảng đại Trí Tuệ quán
Quán Bi và quán Từ Bi quán cập Từ quán
Thường nguyện, thường Thường nguyện thường
chiêm ngưỡngchiêm ngưỡng.

Đây là năm phép Quán có liên hệ đến danh từ Quán Thế Âm.  Niệm Quán Thế Âm đúng theo phương pháp chính thống, thì lúc niệm ta phải thực tập năm phép quán nói trên.

Chân quán tức là quán về sự thật, nhìn rõ để thấy được sự thật, không bị vọng tưởng chi phối, không bị những cái vỏ, cái hình thái dối gạt bên ngoài làm cho mình mờ mắt.  Dùng cặp mắt quán chiếu để thấy được bản chất của sự vật thì gọi là quán chân.

Quán thanh tịnh là phép quán có thể mang lại cho mình sự bình lặng, sự trong sáng của tâm hồn.  Nó chuyển hóa, lấy đi những hắc ám, tối tăm và bụi bặm của tâm hồn thì gọi là quán thanh tịnh.
Quảng đại trí tuệ quán tức là quán về trí tuệ lớn [Mah€prajự€p€ramit€] nghĩa là quán về Bát Nhã Ba La Mật.  — đây có nghĩa là quán về Không [ệũnyat€]. Mah€prajự€ là Đại Bát Nhã.  Quảng đại là đại; trí tuệBát Nhã, cho nên Quảng đại trí tuệ quán là quán về Không.

Bi quán cập Từ quán.  Bi tiếng Phạn là KaruẾ€, Từ  là Maitrĩ. Đó là bản chất của Quán Thế Âm.   Khi ta niệm Quán Thế Âm thì trong tâm ta có những chất liệu Từ và Bi.  Nếu có những chất liệu đó thì chắc chắn sự chuyển hóa sẽ tới.  Đây không phải là vấn đề tín ngưỡng hay mê tín.  Thường nguyện thường chiêm ngưỡng tức là ta phải luôn luôn tâm nguyệnchiêm ngưỡng năm phép quán đó.  Chiêm ngưỡng ở đây tiếng Anh là Contemplation.

Quán Vô Cấu, Thanh Tịnh Vô Cấu Thanh Tịnh quán
Mặt trời Tuệ phá ám Tuệ nhật phá chư ám
Điều phục nạn, gió, lửa Năng phục tai phong hỏa
Chiếu sáng khắp thế gianPhổ minh chiếu thế gian.

Vô cấu [Vimala] có nghĩa là không dơ bẩn;  Tuệ nhật phá chư ám, là mặt trời của trí tuệ phá tan tất cả những màn hắc ám; Năng phục tai phong hỏa là điều phục được những thiên tai gió lửa.  Năm phép quán đó có tính cách vô cấu, thanh tịnh.  Đó là một mặt trời trí tuệ, có khả năng phá tan những bức màn hắc ám, điều phục được tất cả các tai nạn gió, lửa, và chiếu sáng khắp cùng thế gian.  Đó là thần lực của năm phép quán.
Tâm Bi như sấm động Bi thể giới lôi chấn
Lòng Từ như mây hiền Từ ý diệu đại vân
Pháp cam lộ mưa xuống Chú cam lồ pháp vũ
Dập trừ lửa phiền não. Diệt từ phiền não diệm.

Bi thể tức là cái chất liệu của lòng Bi, giống như tiếng sấm động.  Đại Bi Quán Thế ÂmQuán Thế Âm có lòng thương rất lớn.  — đây chúng ta thấy một hình ảnh rất đặc thù.  Lòng thương thường được so sánh với một cái gì rất dịu hiền, nhưng ở đây lòng thương được so với tiếng sấm động.   Chúng ta nhớ ở kinh Duy Ma, sự im lặng có khi được xem là sự im lặng sấm sét, im lặng nhưng có hùng lực và hiệu năng rất lớn.  — đây lòng thương được ví với sấm động, tại vì lòng thương là một năng lượng tích cực.  Không phải thương rồi chảy nước mắt và không làm gì hết.  Tâm bi không phải là một thứ năng lượng thương xót tiêu cựcSức mạnh của tâm bi hùng vĩ như sức mạnh của sấm chớp.  Lòng từ ở đây được diễn tả dưới hình thái của các trận mưa [Từ ý diệu đại vân] để cho tất cả mọi loài đều được thấm nhuần chất nước cam lộ đó.  Đây là những hình ảnh rất thi caThế gian của chúng ta như một đám cháy.  Trong ta, mỗi người là một đám cháy, chúng ta đang cháy từ trong ra ngoài.  Chúng ta là một thân cây đứng trong một khu rừng đang bốc cháy, và lòng từ bi của Quán Thế Âm như là những đám mây hiền, với sự tác động của sấm sét, những đám mây đó biến thành mưa để chữa trị những đám cháy trên thế gian, và làm cho cây cối mọc lên xanh tươi.

Nơi án tòa kiện tụng Tránh tụng kinh quan xứ
Chốn quân sự hãi hùng Bố úy quân trận trung
Niệm sức mạnh Quán Âm Niệm bỉ Quán Âm lực
Oán thù đều tiêu tán. Chúng oán tất thối tán.

Vào các phiên tòa kiện tụng hay ra nơi trận mạc đầy bom đạn, nếu chúng ta biết sử dụng niệm lực Quán Thế Âm, thì tất cả những oán thù và tai nạn kia đều có thể vượt qua.

Tiếng Nhiệm, tiếng Quán Âm Diệu âm, Quán Thế Âm
Tiếng Phạm, tiếng Hải Triều Phạm âm, hải triều âm
Tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời Thắng bỉ thế gian âm
Hãy nên thường quán niệmThị cố tu thường niệm.

Đây là những câu rất hay trong Kinh Phổ Môn.  Năm phương pháp Quán kể trên là năm phép quán nói về chữ đầu trong danh hiệu của Bồ Tát: Quán.  — đây kinh nói về năm chữ Âm, tức là nói về năm loại âm thanhliên hệ tới Bồ Tát Quán Thế Âm.

Trước hết là Diệu âmÂm thanh của vị Bồ Tát này là một âm thanh rất nhiệm mầu, rất vi diệuQuán Thế Âm là âm thanh do sự quán chiếu về cuộc đời mà được thể hiện ra.  Ngài là một con người có đủ định lực, có đủ tình thương và nhất là có đủ thì giờ để nhìn vào cuộc đời, quán chiếu về cuộc đời mà hiểu được cuộc đời.  Đó là tiếng nói của người hiểu biết.  Không có thì giờ để nhìn, để hiểu thì không thể có tiếng nói của người hiểu biết.
Tiếng Phạm có nghĩa là tiếng cao quý, ví dụ như Brahma-vih€ra tức là bốn phạm trú, bốn nơi cư trú rất sang trọng, rất cao quí, tiếng Anh là Noble Dwellings.  Bốn phạm trú đó là Từ, Bi, Hỉ và Xả.  Bốn cư xá này là bốn cư xá số một, mình nên tìm đến đó để cư trú cho hạnh phúc, cho thảnh thơi.

Tiếng hải triều là tiếng sóng biển.  Pháp âm của Bồ Tát được ví với tiếng hải triều, hùng mạnh và có khả năng lấn át hết tất cả các tiếng rì rào, than khóc.

Thắng bỉ thế gian âm là tiếng vượt lên trên tất cả các thứ tiếng khác của thế gian, ví dụ như tiếng của danh, của lợi, tiếng của quyền hành, của tranh chấp, của đảng phái.  Tất cả các thứ tiếng đó đều bị tiếng của Bồ Tát vượt lên và chế ngự.

Chúng ta thấy có hai bức tranh, một về Quán và một về Âm, tên của Bồ Tát.  Tám câu kệ nghe như hai câu đối, rất tương xứng.  Về quán, ta có năm phép, về âm thanh ta cũng có năm loại:

Chơn quán, Thanh Tịnh quán, Quảng Đại Trí Tuệ quán, Bi quán, cập Từ quán.    

Diệu âm, Quán Thế Âm, Phạm âm, Hải triều âm, Thắng Bỉ Thế gian âm.

Từng niệm không nghi ngờ Niệm niệm vật sanh nghi
Trong ách nạn khổ chết Quán Thế Âm tịnh thánh
Quán Âmtịnh thánh Ư khổ não tử ách
Là nơi cần nương tựa. Năng vị tác y hộ.

Nghĩa là hãy tiếp tục quán niệm và đừng sanh tâm nghi ngờ, tại vì bậc thánh thanh tịnhQuán Thế Âm kia, thường hiến mình làm nơi nương tựa cho chúng sanh trong mọi trường hợp khi họ gặp tai ách, khổ nạn, và sự chết chóc.

Đầy đủ mọi công đức Cụ nhất thế công đức
Mắt thương nhìn thế gian Từ nhãn thị chúng sanh
Biển Phước chứa vô cùng Phước tụ hải vô lượng
Nên ta cần đảnh lễThị cố ưng đảnh lễ.

Bồ Tát có đầy đủ công đức, đem con mắt thương yêu để nhìn mọi ngườiTừ nhãn thị chúng sanh là năm chữ rất tuyệt diệu, ta chỉ cần làm được chừng đó là đã có hạnh phúc tràn trề rồi.  Đem con mắt thương để nhìn thì chẳng những người kia được hưởng hạnh phúc, mà chính trái tim của mình cũng được thấm nhuần những ngọt ngào của tình thương.  Ta hãy nhìn chúng sanh bằng con mắt từ bi chứ đừng đợi chúng sanh nhìn mình bằng con mắt có thiện cảm!  Biết nhìn mọi loài bằng con mắt từ bi thì không chóng thì chầy, mọi loài sẽ học được phương pháp đó, và sẽ biết nhìn lại mình bằng con mắt từ bi.  Phước tụ hải vô lượng tức là phước đức dồn về và sẽ lớn như biển cả, không thể nào đo lường được.  Thị cố ưng đảnh lễvì vậy cho nên chúng ta hãy cúi đầu đảnh lễ vị Bồ Tát đã thành Bụt từ lâu đó.

Rất tiếc là mình chưa có dịp để dịch lại toàn văn kinh Pháp Hoa, nếu dịch lại thì sẽ dễ đọc hơn nhiều.

Bây giờ ta trở về phần trường hàng kế tiếp của phẩm này.

Lúc đó Bồ Tát Trì Địa [Dh€ranỉndhara Bodhisattva] từ chỗ ngồi, đứng dậy và thưa với Bụt rằng:  Lạy đức Thế Tôn, nếu có người nào nghe được phẩm kinh nói về Bồ Tát Quán Thế Âm này mà thấy được cái sự nghiệp tự do của Ngài, thấy được cái năng lực thực hiện thần thông của Phổ Môn, thì công đức của người đó không phải là ít. Như vậy, người nào được nghe Phẩm Pháp Hoa này, thì người đó đã có công đức rất nhiều.  Nghe được Kinh Phổ Môn tức là đã tiếp xúc được với Bồ Tát Quán Thế Âm.  Đó là lời tuyên bố của vị Bồ Tát tên là Trì Địa.

Trì Địa là một vị Bồ Tát rất ưa lao động.  Hai bàn tay của Ngài thường dính đất, ưa làm vườn, ưa bắc cầu, ưa đào giếng.  Nghe nói rằng, hồi Bụt Thích Ca lên thăm mẹ ở cung trời Đao Lợi thì Bồ Tát Trì Địa đã đắp đường cho Bụt đi.  Ngài là một vị kiến trúc sư, một kỹ sư.  Trì là bảo vệ, duy trì, địa là trái đất, tiếng Anh là Earth Holder. Những người bảo vệ môi sinh, tranh đấu để giữ gìn cho sinh môi trái đất, đều là liên minh của Bồ Tát Trì Địa.  Đây là một vị Bồ Tát chuyên giữ gìn trái đất cho chúng ta, chúng ta cần phải liên minh với Ngài để bảo trì nguyên vẹn trái đất này lại cho con cháu.  Bồ Tát Trì Địa còn bắt cầu, đắp đường để đưa người ta lại với nhau.  Nếu có những người, những nhóm người bị chia rẽ, kẻ ở đầu sông người ở cuối, thì Bồ Tát làm một chiếc cầu đưa họ tới gần với nhau, để ký những hiệp ước hòa bình.  Thế giới của chúng ta rất cần Bồ Tát Trì Địa.

Nói đến đây thì tôi nhớ rằng Bồ Tát Địa Tạng [KỒitigarbha Bodhisattva] cũng phải được đưa vào trong Hạnh môn của kinh Pháp Hoa, vì Ngài là người có đại nguyện tìm đến những nơi đen tối nhất, u ám nhất, khổ đau nhất.  Những nơi đó là địa ngụcLời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng là Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, là chừng nào địa ngục còn có người, thì tôi nguyện còn phải đi tới và nguyện chưa an hưởng quả vị của một đức Bụt.  Bồ Tát Địa Tạnghiện thân cho đại nguyệnĐại Nguyện Địa Tạng Vương là một người luôn luôn thao thức muốn đi vào những nơi còn khổ đau, còn tăm tối.  Chúng ta biết rằng địa ngục không ở đâu xa, chỉ cần đưa tay ra là chạm địa ngục ngay, và đôi khi khỏi cần phải với tay ra bên ngoài, địa ngục cũng có ngay ở trong ta!  Vì vậy đem ánh sáng của tình thương, của hiểu biết tới với khổ đau là lời đại nguyện của Bồ Tát Địa Tạng.  Trong 14 giới Tiếp Hiện có một giới nói về chủ đề này:  Hãy tìm tới những kẻ khổ đau, đừng nhắm mắt trước khổ đau, đừng đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống.  Hãy phổ biến những pháp thoại qua băng Video và băng Audio để giúp cho mọi người bớt khổ.

Muốn cho kinh Pháp Hoa được hoàn mỹ, chúng ta có thể thêm vào một phẩm Bồ Tát Địa Tạng, đồng thời phát triển thêm phẩm Bồ Tát Trì Địa. Cố nhiên ở trong kinh Pháp Hoa chúng ta đã có Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài cũng đã thành Bụt lâu rồi, nhưng vẫn đóng vai Bồ TátĐịa vị của Phổ Hiền ở trong kinh Hoa Nghiêm rất lớn, vì vậy cho nên đến kinh Pháp Hoa chúng ta không được đọc nhiều về Bồ Tát Phổ Hiền nữa.

Tôi nghĩ Bồ Tát Phổ Hiền cần được đề cập đến nhiều hơn trong kinh này, tại vì Bồ Tát Phổ Hiền là một người tượng trưng rất nhiều cho Hạnh môn, và Hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền có tới mười điểm.  Nói tới Hạnh môn thì phải nói tới Phổ Hiềnchúng ta thường xưng tụng Phổ HiềnBồ Tát Đại Hạnh, thành ra sự có mặt của Bồ Tát Phổ Hiền trong phần Hạnh môn rất là quan trọng.
Phật tử Việt-nam ai cũng thuộc mười hạnh của Phổ Hiền, vì bài Hồi Hướng có nhắc đến mười hạnh đó:

1.  Nhất giả lễ kính chư Phật: Nghĩa là mình phải tỏ lòng tôn kính đối với bậc giác ngộ.

2.  Nhị giả xưng tán Như Lai:  Phải khen ngợi Như Lai.  Khen bằng nhiều cách, không phải bằng lời mà là bằng hành động.

3.  Tam giả quảng tu cúng dường: Phải thực hiện việc cúng dường, hiến tặng.  Cúng dường chúng sanhcúng dường Bụt.

4.  Tứ giả sám hối nghiệp chướng: Phải sám hối, luôn luôn phải đổi mới.

5.  Ngũ giả tùy hỉ công đức:  Hễ ai làm được một việc gì tốt, thành công và có niềm vui là mình phải vui theo, phải yểm trợ hết lòng.

6.  Lục giả thỉnh chuyển Pháp luân:  Người nào có khả năng làm giáo thọ, mình phải yễm trợ và cầu họ đi giảng dạy, đừng bắt họ ở ru rú trong chùa.  Những vị Bụt thành đạo chúng ta phải tới cầu xin các vị đi thuyết pháp, đừng có vì những khó khăn mà không thuyết pháp.  Nghe nói Bụt Thích Ca sau khi thành đạo đã có lúc không muốn đi thuyết pháp vì Ngài thấy giáo pháp thì khó, mà chúng sanh thì căn trí không được lanh lợi cho lắm.  Không biết có đúng vậy không, có thể Ngài đã thị hiện ra như vậy để chúng sanh phải thỉnh cầu, nhờ vậy mà thấy được rằng Pháp là quí giá.  Khi nào mình thấy một vị Bụt xuất hiện, thì mình phải thỉnh cầu vị Bụt đó chuyển Pháp luân, nghĩa là đi thuyết pháp hoằng hóa độ sanh.  Nếu thấy một người nào có khả năng thuyết pháp, mình cũng phải thỉnh cầu người đó đi thuyết pháp.

7.  Thất giả thỉnh Phật trụ thế: Là thỉnh Bụt ở lại lâu trong cõi đời để giáo hóa độ sanhBồ Tát Phổ Hiền là người chuyên đi làm những việc này.  Thấy ở cõi nào có Bụt sắp nhập diệt thì Ngài đến khẩn khoản xin Bụt lưu lại thêm một thời gian nữa để cứu độ chúng sanh.

8.  Bát giả thường tùy Phật học: Nghĩa là tinh chuyên theo học với Bụt.  Đừng nói rằng Bụt còn đó, lúc nào mình đến học cũng được.  Nay bận công việc, thôi để đến mai, hoặc năm nay mình kẹt, sang năm chắc chắn mình sẽ thu xếp để đi học.  Đó không phải là hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền; hạnh của Bồ Tát là nơi nào có Bụt giảng dạy, là nơi đó có Ngài đến học hỏi.

9.  Cửu giả hằng thuận chúng sanh: Mình phải đi theo với chúng sanh, đi theo với mọi người để hành đạo, để giúp đỡ, để điều phục chứ đừng trốn họ.  Tu không phải chỉ là tiếp thu vào trong ngũ uẩn của mình, mà phải đưa tay ra, phải tiếp xúc với chúng sanh, phải thấy được rằng những đau khổ, thao thức và ước mơ của chúng sanh là những đau khổ, thao thức và ước mơ của chính mình.  Phải tìm đủ mọi cách để đưa họ đi trên con đường tu họcchuyển hóa như mình, đó gọi là hằng thuận chúng sanh.

10.  Thập giả phổ giai hồi hướng: Khi thực hiện được một điều gì, học được một cái gì, trồng được một cây gì, làm được một điều gì trong ngày, mình đều nói rằng, cái đó là để cho hạnh phúc chung, để cho sự giác ngộ chung, chứ không phải mình đã làm việc đó riêng cho mình.  Học kinh Pháp Hoa không phải là học riêng cho mình mà là học cho tất cả mọi người.  Rửa một cái nồi, không phải chỉ rửa riêng cho mình, chỉ chuyển hóa riêng nội tâm của mình, mà làm cho mọi người và mọi loài.  Bước một bước chân tỉnh thức là bước cho tất cả nhân loại, tại vì nếu có lòng từ, lòng bi, có định, có tuệ thì bước chân đó sẽ làm lợi cho mọi loài hữu tình.   Đừng nghĩ rằng học như vậy là học riêng cho mình, tu như vậy là tu riêng cho mình.  Mình phải biết hồi hướng, tiếng Anh là Transferring the merits to all beings. Mình không có trương mục riêng, tất cả những công phu tu tập của mình đều đưa vào một trương mục mà ai cũng có thể sử dụng được hết, tu như vậy mới đúng là tu theo tinh thần của Bồ Tát Phổ Hiền.

Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện trong hội Pháp Hoa như là một trang nam tử.  Nhưng trong những hình thái tôn thờ ở nhiều nước Á Đông, thì chúng ta lại thấy Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện dưới hình thức một phụ nữ.  Điều này cũng dễ hiểu, vì phụ nữ có thể tượng trưng được tình thương một cách tự nhiên, dễ dàng hơn nam giới.  Hơn nữa, trong kinh có nói rất rõ rằng Bồ Tát Quán Thế Âmtình thương, và Ngài có thể trao tặng tình thương đó dưới nhiều hình thái khác nhau.  Vì vậy mà tôn thờ và hình dung Bồ Tát Quán Thế Âm dưới hình thức một phụ nữ, là một chuyện rất tự nhiên, rất hợp lý.

Chùa Bút Tháp ở miền Bắc Việt-nam có một tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nghìn tay, nghìn mắt rất đẹp.  Nghìn cánh tay có nghĩa là hoạt động nhiều cách.  Tình thương phải được thể hiện ra bằng nhiều cách.  Đối với những người không quen với ngôn ngữ điêu khắc của Phật giáo, thì họ sẽ lấy làm lạ khi thấy một vị tượng có nhiều tay quá.  Nhưng đối với chúng ta thì đó là một hình ảnh dễ hiểu, tại vì khi thương ai, ta muốn nâng đỡ, muốn giải quyết khổ đau giùm cho người ấy, và khi có nhiều người khổ đau quá thì ta phải có mặt ở nhiều nơi, và ta phải có nhiều cánh tay để giúp đỡ.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra.

Đó là hai câu thơ ở trong tác phẩm Nam Hải Quán Âm bằng chữ nôm.  Hai câu đó chứng tỏ rằng tình thương phải được thực hiện bằng hành động.  Nói suông rằng tôi thương anh lắm thì không giúp được gì, vì vậy mà phải có cánh tay.  Cánh tay để vươn tới.  Thành ra trong Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Phổ HiềnPhổ Hiềnđại hạnh, là hành động lớn.  Do đó chúng ta thấy cái chân lý của Hoa Nghiêm đã thấm nhuần tất cả mọi hình ảnh:  Bồ Tát Quán Thế Âm mang cánh tay của Bồ Tát Phổ Hiền.

Nghìn mắt cần thiết cho nghìn tay.  Mắt là để thấy, để hiểu.  Nhận thức mà dẫn tới hành động thì mới có kết quả, do đó vị tượng có nghìn tay thì phải có luôn nghìn mắt.  Mà con mắt là tượng trưng cho Bồ Tát Văn Thù Đại Trí.  Con mắt là để nhìn sâu, nhìn kỹ, để phát hiện ra sự thật, đó là  tác dụng của thiền quánThiền quán nghĩa là nhìn cho thật sâu, cho thật kỹ để thấy được cái chân tướng của sự vật, vì vậy mà con mắt là tượng trương cho thiền quán [VipaỐyan€].

Khi nhìn kỹ Bồ Tát Văn Thù, mình cũng thấy có trái tim của Quán Thế Âm và cánh tay của Phổ Hiền, cho nên một vị Bồ Tát chứa đựng tất cả các vị Bồ Tát khác, đó là chân lý của Hoa Nghiêm.

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một  điểm Linh đài hóa ra,
Xem trong biển nước Nam ta,
Phổ mônđức PhậtQuán Âm.

Hình tượng đã là như vậy thì sự hành trì cũng như vậy.  Tại sao lại có một ngàn?  Một ngàn chỉ là con số tượng trưng, một ý niệm về nhiều, nhiều lắm, Thiên thủ thiên nhãn.

Vào dịp lễ kỷ niệm 2500 ngày Bụt nhập diệt ở New Delhi, Ấn độ, phái đoàn Việt-nam từ Hà nội có sang tham dự, và có thỉnh theo tượng đức Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn để cho các phái đoàn quốc tế thấy cái tác phẩm nghệ thuật đó của Việt-nam.  Hồi đó đất nước mình còn chia làm hai, miền Nam đã gởi một phái đoàn, và miền Bắc một phái đoàn khác, và hai phái đoàn đã bí mật gặp nhauẤn độPhái đoàn miền Nam do Hòa thượng Huệ Quang lãnh đạo.  Hồi đó Tổng hội Phật Giáo Việt-nam ở miền Nam có một tờ tạp chí chính thức gọi là tờ Phật Giáo Việt-nam, Hòa Thượng Huệ Quang làm chủ nhiệm, còn tôi là chủ bút.  Trong khi lãnh đạo phái đoàn sang Ấn độ, Hòa Thượng bị đứt mạch máu và viên tịch tại bên đó.  — nhà chúng tôi có ra một số báo đặc biệt để tưởng niệm cố Hòa thượng Chủ nhiệm Huệ Quang.  Hồi đó phái đoàn miền Bắc có Hòa thượng Trí Độcư sĩ Lê Đình Thám, cùng một số các vị khác.  Hai vị trên có công lớn trong việc chấn hưng đạo Bụt ở Việt-nam.  Phái đoàn miền Nam có Luật sư Trần Thanh Hiệp đi làm thông ngôn.  Tôi vẫn còn nhớ lúc anh Hiệp đến Phật học đường Nam Việt để mượn cuốn tự điển Anh Việt.  Hồi đó ở Việt-nam tiếng Anh chưa được phổ biến lắm.

Vào chùa thấy tượng Quán Âm ngàn mắt ngàn tay, nếu quen với ngôn ngữ của điêu khắc Phật giáo thì chúng ta hiểu ngay đây là hình tượng để nói lên một thứ tình thương chân thật, được xây dựng bằng cái thấy, bằng sự quán chiếu, bằng hiểu biết do sự nhìn sâu.  Đây là một thứ tình thương đích thực, không phải thứ thương suông bởi vì nó được thể hiện bằng những cánh tay.  Khi hướng dẫn khách vào chùa, ta phải giải thích như vậy để họ có thể hiểu được, nếu không họ sẽ thắc mắc, vì mỗi nền văn hóa có một thứ ngôn ngữ riêng.

Đôi khi con mắt kia mình phải tìm mới thấy.  Nhìn qua thì chúng ta chỉ thấy vị tượng có nhiều cánh tay thôi, nhưng nếu nhìn cho kỹ, ta sẽ thấy trong mỗi bàn tay có một con mắt.  Bàn tay mà có con mắt là quan trọng lắm, bàn tay mà không có con mắt là nguy hiểm vô cùng.  Hành động mà không đi theo sự hiểu biết thì sẽ đưa đến sự đau khổ cho người mình thương, chứ đừng nói người mình không thương.  Ai cũng muốn đem lại hạnh phúc cho đất nước, cho đồng bào, cho nhân loại, cho các loài, nhưng cái tình thương không có sự hiểu biết thì chưa hẳn là tình thương và có thể gây đổ vỡ dù mình có đầy tràn thiện chíThiện chí chưa phải là tình thương, cái ý muốn thương chưa phải là thương.  Khả năng thương là khả năng thấy và khả năng hiểu để hành động, vì vậy mà các nhà điêu khắc đã diễn tả tình thương rộng lớn của Bồ Tát Quán Thế Âm như cả ngàn cánh tay có con mắt trong mỗi bàn tay.  Sự tu hành của mình, nói tóm lại, là để đặt vào trong lòng bàn tay của mình một con mắt.  Chừng nào mình đặt được một con mắt vào lòng bàn tay của mình, thì lúc đó hành động của mình sẽ có an toàn.  Bất cứ hành động nào của mình cũng sẽ đem lại hạnh phúc cho người và cho chính mình.  Nếu chưa có con mắt ở trong lòng bàn tay, thì chúng ta phải cẩn thậnTu quán là để có con mắt tuệ, tuệ nhãn.  Có tuệ nhãn thì dù muốn hay không cũng sẽ có từ bi, tại vì cái thấy sâu sắc đưa tới cái thương đích thực.  Và tình thương không thể nào không biểu hiện bằng hành động.

Người hành giả như một máy thâu hình, hay máy thâu thanh, phải có những điều kiện mới có thể cảm ứng được với những luồng sóng truyền thanh hay truyền hình.  Những đài phát thanh và phát hình luôn luôn có đó, nhưng mình phải có cái đồng thanh, đồng khí thì mới tương ứng và tương cầu được với những đài phát lớn.  Bụt và các vị Bồ Tát là những đài phát thanh và phát hình lớn, luôn luôn có mặt ở trong vũ trụ, nhưng nếu cái máy thu của mình không hội đủ điều kiện, thì mình sẽ không bắt được những làn sóng đó, và mình nói rằng không có phát thanh, không có phát hình, không có làn sóng điện.  Trong bài kệ kiến giải của Sư cô Như Phước, Sư cô nói rằng cái bí mật của hạnh phúc là sống cho trọn vẹn ngày hôm nay, và tiếp nhận được tình thương đến từ muôn loài.  Tình thương đó có thật và đang đến, cũng tương tự như những làn sóng truyền thanh, truyền hình đang tới với mình luôn luôn, nhưng tại vì tâm mình bị bít lấp, cho nên mình không mở được cõi lòng để đón nhận tình thương đó.  Không khí, hay là nước trong, những thứ này sẵn sàng có mặt đó cho mình, nhưng vì mình tự trốn tránh trong cái tháp ngà đau khổ của mình, cho nên mình không đón nhận được tình thương của không khí, của nước trong, của đám mây, của mặt trời, tất cả đều có ý muốn nuôi dưỡng, che chở cho mình.  Bụt và Bồ Tát cũng vậy, đó là những sự có mặt rất thực tế mà không cần phải có một đức tin mới tìm thấy được, chỉ vì con mắt mình không mở ra, và chỉ vì trái tim mình khép kín lại, cho nên mình mới không nhận ra sự có mặt của các vị Bụt và Bồ Tát ở chung quanh mình đó thôi.

Có những vị Bụt và Bồ Tát không có tên tuổi, không được các đài truyền thanh, truyền hình, hay báo chí nhắc tới, nhưng họ có mặt ngay chung quanh chúng taTình thương của họ được thể hiện rất rõ ràng, họ là những Bồ Tát vô danh, có mặt khắp mọi nơi.  Trong bước đường hành đạotây phương, thỉnh thoảng tôi có gặp những vị Bồ Tát như vậy.  Họ là Bồ Tát lớn, nhưng không ai nhìn rõ họ để có thể nhận ra họ là những vị Bồ Tát lớn.  Ví dụ ở Hòa lan có một phụ nữ, mới trông vào, mình không thấy gì đặc biệt cả, Bà tên là Hebe KolhbrỎgge.  Bà đã giúp rất nhiều cho trẻ em ở Việt-nam.  Trong đệ nhị thế chiến, bà đã tạo nơi ẩn náu cho rất nhiều người Do thái, và đã giúp di chuyển hàng chục ngàn người Do thái sang các nước khác để họ khỏi bị chết dưới bàn tay của người phát-xít.  Một người có tâm địa và hành động như vậy, nếu ta không gọi là Bồ Tát thì gọi là gì nữa?  Vậy mà Bà đã không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, chẳng có một giấy tờ gì để công nhận việc cứu độ chúng sanh của Bà.  Tôi chỉ vì may mắn nên đã được gặp bà trên bước đường hành đạo.  Bà sống rất đơn giản, đạm bạc và đã thực hiện được điều mà mình không ngờ một phụ nữ có thể đơn phương làm được.  Trong thời gian làm việc chung, tôi thấy Bà vẫn tiếp tục giúp những người câm, người điếc ở trong các nước Xã hội chủ nghĩa một cách rất sốt sắng và âm thầm.  Bà đã không mang danh là Phật tử, không mang một danh xưng nào hết.  Mình phải có một trái tim rộng mở, phải đừng có thành kiến, mới nhận ra được những vị Bồ Tát có mặt chung quanh mình, ở cùng trong xã hội với mình.  Hiện giờ tại các nước Tây phương cũng như Đông phương, có những người đang âm thầm làm việc để cứu trợ cho biết bao nhiêu người bệnh tật, nghèo đói, cùng khổ, đang bị áp bức.  Họ làm những việc cứu trợ đó một cách rất im lặng.  Nếu ta nhởn nhơ trong hoàn cảnh của ta, thì ta không thấy được sự có mặt của những người đó, và không biết đến những hoạt động rất lặng lẽ nhưng rất thực tế của họ.  Họ không cần báo chí tường thuật, không cần đài phát thanh, phát hình đề cập đến, nhưng họ đã làm những việc như vậy từ mấy mươi năm nay, và vẫn tìm được niềm vui và sự an bình trong công tác hàng ngày.

— Huế có một Phật tử tên là bác Siêu.  Bác tuy rất im lặng, nhưng vì bác đã làm việc xã hội lâu ngày quá, nên ở Thừa thiên không ai là không biết bác, và ai cũng nghĩ bác là một vị Bồ Tát.  Bác làm việc rất âm thầm.  Vốn liếng của bác chỉ là một chiếc xe đạp rất cũ.  Vậy mà ở đâu Bác cũng đạp đến được, và bác đã giúp cho rất nhiều gia đình đơn bạc, nghèo đói, bệnh tật.  Bác không có gia tài, nhưng bác có một trái tim, vì vậy mà bác đã có nhiều bạn hữu có thể giúp bác làm công việc từ thiện.

Năm 1964, trong một chuyến về Huế, tôi đã mời bác lên chùa Từ Hiếu để được chuyện trò và học hỏi những kinh nghiệm của bác.  Hồi đó, tôi vừa thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và nghĩ rằng mình sẽ thực hiện những công tác tình thương trên toàn quốc, có tính cách hệ thốngtỷ lệ lớn hơn bác Siêu.  Đó là tại tôi nghĩ rằng mình đang làm theo phương pháp mới, mình đào tạo nhiều cán bộ cùng một lúc, và mình đã nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các nước, cho nên mình sẽ làm hay hơn bác.  Trong khi ngồi nói chuyện với bác, tôi vẫn mang cái niềm tự tin rằng mình sẽ khoa học hóa và hệ thống hóa được công việc, và tôi muốn mời bác gia nhập vào trong công tác này.

Mục đích của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội không chỉ là công việc từ thiện, mà gồm cả công việc phát triển xã hộiPhong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội là để giúp dân, giúp nước, chứ không phải là để làm từ thiện đơn thuần.  Giúp dân, giúp nước là giúp cho chính mình.  Sau khi nghiên cứu nhiều nơi, tôi trở về lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, nhằm bốn mục tiêu:

1.         Giáo dục: Nông thôn có nhiều làng không có trường học và trẻ em lêu lổng,  không có học vấn.  Vì vậy công việc đầu tiên của một tác viên xã hội khi về làng, là tìm cách chơi với các em để dạy các em.  Mình có thể chơi và dạy các em ở ngoài bờ sông hay dưới gốc đa.  Khi số lượng các em lên đến hai ba mươi đứa, lúc trời mưa, mình kéo nhau vào xin tá túc ở nhà của một dân làng để tiếp tục việc học.  Từ từ cái ý niệm xây một mái trường bằng tre và lá dừa phát sinh ra, và chính người tác viên đó sẽ đề nghị dân làng họp lại để làm ngôi trường đó cho làng.  Đừng đợi chính quyền hay một sự giúp đỡ từ bên ngoài, vì đợi thì sẽ phải đợi hoài.  Thanh niên phụng sự xã hội phải bắt đầu từ những cái gì mình có, từ những cái gì mình biết chứ không chờ đợi một sự viện trợ, dù sự viện trợ đó là từ chính quyền của nước mình.

2. Y tế: Thành lập một trạm y tế, dạy dân làng cách phòng ngừa tật bệnh, và tự thiết lập những nhà vệ sinh bằng xi-măng rẻ tiền.  Dạy trẻ em ngăn ngừa những bệnh thông thường như bệnh cảm, sốt rét, bệnh đau mắt v.v…

3.         Kinh tế: Làm sao cho sự sản xuất của dân làng tăng lên, ví dụ tìm cách tổ chức hợp tác xã; chỉ cho dân làng sử dụng phân bón đúng mức; cách chọn hạt giống; phương pháp trị liệu những chứng bệnh của cây cối mùa màng; tổ chức để dân làng có thể làm những tiểu công nghệ trong giờ rảnh rỗi để tăng thêm ngân sách gia đình; giúp cho dân làng biết phương pháp chăn nuôi gà, vịt mà không để chúng bị bệnh tật. 

4.         Tổ chức: Giúp dân làng tổ chức lại làng xã, công việc tương trợ, tại vì nếu không tổ chức lại đàng hoàng thì mình không thành công được.

Hồi đó với kiến thức, với kinh nghiệm như vậy, tôi nghĩ rằng, phong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội sẽ là một hình thái hoạt động mới, và so với hình thái hoạt động cổ điển của bác Siêu thì nó phải tiến bộ hơn nhiều.  Cho nên tôi có niềm tin rất lớn và tôi nghĩ rằng mình có thể làm hay hơn bác Siêu.

Trong lúc tiếp xúc, bác Siêu ngồi im lặng nghe những điều tôi trình bày.  Sau đó bác cũng đồng ý tham dự trong khi bác vẫn tiếp tục con đường riêng của bác.  Cho đến khi người Cộng sản lên nắm chính quyền, họ cấm hết tất cả các hoạt động của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và họ bắt đầu bắt tác viên của trường, thì tôi mới nhận ra rằng cái phương pháp của bác Siêu rất là vô tướng.  Bác vẫn tiếp tục công việc từ thiện như thường, vẫn với chiếc xe đạp cũ kĩ ọp ẹp đó, bác đi tới khắp hang cùng ngõ hẻm và vẫn làm được cái công việc mà ngày xưa tôi cho là không khoa học cho lắm.

Không ai ở Thừa thiên mà không biết cái hạnh nguyện, cái âm thầm lặng lẽ của bác.  Bác Siêu là một vị Bồ Tát không có chứng minh thư, không có bằng tưởng lệ, và báo chí không nhắc tới.  Nếu mở mắt ra, mở trái tim ra, mình sẽ tiếp xúc được với rất nhiều người như bác Siêu ở ngay trong đất nước của mình.  Trong những con người đó, có chất liệu của Quán Thế Âm, và những người đó thực sự có niệm lực của Quán Âm.  Nhờ thế mà họ mới trường kỳ công tác được như vậy, nếu không thì chỉ vài ba tháng là họ bỏ cuộc, họ chán nản.  Vì vậy khi niệm đức Quán Thế Âm, phải thực tập sâu sắc mới có thể thành công được.  Nếu cái máy thâu hình của mình hư, thì dù mình có bấm nút mấy trăm lần đi nữa, nó vẫn không tiếp nhận được hình ảnh của đài truyền hình.  Niệm danh hiệu Quán Thế Âm cũng vậy, mình phải chuẩn bị tâm của mình cho thanh tịnh, cho chí thành thì mình mới bắt được cái nguồn năng lượng đại bi kia.  Niệm mà thấy cái hiểu và cái thương có mặt trong ta, thì lúc đó niệm mới thực sự hữu hiệu, còn niệm bằng miệng mà trong lòng vẫn có hờn giận, nghi kị, tham lam, buồn chán, thì mình sẽ không bắt được cái tinh lực của đức Quán Thế Âm.  Muốn thừa hưởng được niệm lực Quán Âm thì mình phải bắt được niệm lực ấy.  Cho nên những người niệm đức Quán Âm, niệm Bụt Di Đà, hay Bụt Thích Ca mà trái tim vẫn còn cứng như đá thì ta biết rằng họ không bắt được làn sóng từ bi.  Niệm Bụt là một pháp môn rất thâm diệu đem lại một kết quả rất tốt.  Chúng ta không đặt vấn đề nghi ngờ mà chỉ đặt vấn đề niệm như thế nào để trái tim của mình có thể mở ra và để cho tình thương, sự hiểu biết và cánh tay của đức Quán Thế Âm có thể có mặt trong mình.  Trong chúng ta, người nào cũng đã có những giây phút kinh nghiệm về hiểu, về thương và về một ước muốn hành động.  Khi chúng ta có cái hiểu, cái thương và sự muốn hành động đó, thì chúng ta biết rằng hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm đã ngự trong trái tim của chúng ta rồi.  Nếu chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì không có lý do gì mà tinh lực của đức Quán Thế Âm không tiếp tục tuôn tràn vào trong trái tim của chúng ta.

Khi niệm Quán Thế Âm ta phải niệm một cách thông minh, phải biết rằng niệm theo phương pháp nào thì mới có kết quả, và ta phải giúp cho những người khác, đừng để cho họ niệm một cách mê tín, máy móc và sai lạc.  Niệm đức Quán Thế Âm như niệm một vị thần linh chỉ biết ăn hối lộ, cúng chuối, cúng xôi và mong đức Quán Thế Âm đứng về phe mình để đánh dẹp phe kia, niệm như vậy thì ngàn đời Bồ Tát Quán Thế Âm cũng không ứng hiện được trong trái tim của ta, tại vì Bồ Tát Quán Thế Âmhiện thân của cái hiểu, cái thương và cái hành động.

Mình cũng đừng có nghĩ rằng đức Bồ Tát Quán Thế Âm là một thực tại hoàn toàn ở ngoài mình.  Đây là giáo lý của Hoa Nghiêm, mà cũng là giáo lý của Pháp HoaGiáo lý này cũng căn cứ trên nguyên tắc duyên sinh [Pratĩtyasamutp€da], hay duyên khởi.  Khi chắp tay lễ Bụt, mình phải thấy rằng Bụt có trong ta và ta có trong Bụt, thì sự lễ lạy đó mới đúng với tinh thần Phật giáoChúng ta thấy trong đạo Hồi Hồi hay trong đạo Cơ Đốc cũng có sự lễ lạy, nhưng có thể sự lễ lạy này không giống như sự lễ lạy trong đạo Bụt.  Chúng ta có một pháp môn lạy mà đã mấy ngàn năm nay, người Phật tử đã thực tập rất đều đặn, rất thâm sâuDâng hương cũng là một pháp môn đặc thù, chúng ta không chỉ dâng hương trầm mà dâng hương Giới, hương Định và hương Tuệ, hương Giải Thoát và hương  Giải Thoát Tri Kiến. Có giới, có định, và có tuệ để dâng lên, thì Bụt bằng lòng hơn.  Sau khi dâng hương lên rồi, chúng ta mới quán tưởng, tức là chúng ta lạy xuống.  Phép quán tưởng này là một phép quán tưởng rất cao siêu.

một lần tôi trình bày tại Đại học Boston cho những nhà thần học nghe về phép quán tưởng này, và họ rất lấy làm ngạc nhiên, vì không có một tín đồ nào lễ lạy vị Giáo chủ của mình với một tinh thần như vậy.  Chắp tay lại mình đọc:

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghị,

có nghĩa là người kính lễ và người được kính lễ, cả hai đều không có sự có mặt riêng biệt và tách rời khỏi nhau.  Đây là đạo lý duyên sinh được nhìn nhận.  Bạch đức Thế Tôn, con đang lễ lạy Ngài và con biết rằng con được làm bằng Ngài và Ngài được làm bằng con.  Đức Thế Tôn được làm bằng những chất liệu không phải là Thế Tôn, cũng giống như một bông hoa được làm bằng những chất liệu không phải là bông hoa, như ánh sáng, đám mây, phân bón.  Đức Thế Tôn cũng vậy, Ngài được làm bằng những chất liệu không phải Thế Tôn, trong đó có con, vì vậy trong Thế Tôn có con.  Con cũng được làm bằng những chất liệu không phải là con, trong đó có Thế Tôn, vì vậy trong con có Thế Tôn và trong Thế Tôn có con.  Đó là cái ý nghĩa về tánh không tịch. Có tôn giáo nào mà người tín đồ nhìn vị Giáo chủ của mình và tuyên bố như vậy trước khi lạy không?  Cảm ứng đạo giao nan tư nghị, có nghĩa là chỉ vì con nhận thức được như vậy cho nên con biết rằng sự cảm ứng và sự giao tiếp giữa con và Ngài mới thật là mầu nhiệm, không thể nào diễn tả bằng tư tưởng và bằng ngôn ngữ được.  Nếu Ngài là một thực thể hoàn toàn độc lập, và con cũng là một thực thể hoàn toàn độc lập, thì sẽ có một vạn lý trường thành chia cách, làm thế nào giữa Ngài và con mà có sự thông cảm mầu nhiệm sâu xa được?  Trong đạo Ki-tô có những khuynh hướng thủ cựu cho rằng Đấng Tạo hóa không thể nào có cùng một bản chất với những vật thụ tạo, như là núi sông, cây, cỏ, con người v.v…  Vật thụ tạo [Creatures] và Đấng Tạo hóa [Creator] là hai thực thể tách rời.  Như vậy giữa hai bên có một bức thành kiên cố ngăn cách thì làm sao có được sự giao tiếp hai chiều, tức là có sự cảm ứng sâu sắc giữa Thượng đếcon người được?  Đạo Bụt thì nói rất rõ: Con không có thực thể riêng biệt mà Bụt cũng không có thực thể riêng biệt. Chính cái sự to gan dám so sánh đó, mới chứng tỏ được mình là một đệ tử giỏi, một học trò có thể hiểu được ý thầy.  Con không có thực thể, con là Không, và Bụt cũng không có thực thể, Bụt cũng là Không.  Đó là một lời khen rất lớn đối với Bụt, tại vì sự khen ngợi này không chỉ được làm bằng lời nói và sự cung kính, mà bằng cái tuệ giác của mình đối với giáo pháp của đức Thế Tôn.  Chính vì Bụt không có thực thể độc lập, và con cũng không có thực thể độc lập, cho nên sự cảm ứng giữa Bụt và con mới thật là sâu sắc và mầu nhiệm.  Đó là những điều mà các vị tổ của ta đã thực tập hàng ngàn năm nay.  Mỗi khi chắp tay trước đức Bổn Sư mà ta không thực tập như thế thì chúng ta có thể chỉ lễ lạy một cách cạn cợt, có khi là mê tín.  Đối với Bồ Tát Quán Thế Âm chúng ta cũng phải thực tập như vậy.

Có người thực tập phương pháp lễ lạy như sau:

Khi đưa hai tay chắp lên trán, họ đồng nhất sự cung kính của họ với ý,
Khi đưa tay xuống ngang miệng và cổ họng thì họ đồng nhất sự cung kính với lời nói,

  • Khi bàn tay rời lãnh vực ngôn ngữ, đi xuống ngang trái tim thì họ đồng nhất sự cung kính của họ với thân,

và khi lạy xuống là họ lạy với ba nghiệp Thân, Ngữ, Ý thanh tịnh. Như vậy, cái hành động kính lễ của mình rất là hiệu nghiệm:  nó gom được thân, khẩu và ý trong chánh niệm, và mình lạy xuống trong cái nhận thức là mình có Bụt trong mình, và Bụt có mình trong Bụt, như vậy là mình mở trái tim của mình ra để cho Bụt đi vào một cách rất dễ dàng.  Lúc đã có nội ứng rồi, đã có Bụt trong mình rồi, thì sự niệm Bụt trở nên rất dễ dàng và có hiệu lực.  Mình đừng có mặc cảm.  Phải tin rằng cái chất liệu của đức Quán Thế Âm đang có mặt ở trong mình, chất liệu đó sẽ được nuôi dưỡng, sẽ được phát hiện bởi phương pháp niệm Bụt của mình.  Ngược lại nếu mình có mặc cảm rằng Bụt và Bồ Tát là những bậc tuyệt vời, còn mình chỉ là người trần, mắt thịt, tội lỗi đầy đầu, và hai bên không bao giờ gặp nhau cả, thì sự niệm Bụt của mình sẽ khó thành công.

Cái pháp môn lạy Bụt chưa chấm dứt ở đó, vì ta còn tiếp tục quán chiếu:

Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.

có nghĩa là cái đạo tràng trong đó con đang đứng để hành lễ nó giống như là một màn lưới làm bằng những hạt minh châu của Vua Trời Đế Thích.  Trong cung Vua Đế Thích có một bức màn rất quý vì nó được kết toàn bằng những hạt minh châu vô giá.  Nếu đến gần, mình sẽ thấy mỗi hạt minh châu chứa đựng hình ảnh của tất cả các hạt châu khác ở trong nó.  Trong cái một có cái tất cả, cái tất cả chứa đựng cái một, đó là giáo lý kinh Hoa Nghiêm mà mình đưa ra để thực tập trong sự lễ lạy.  Trước khi lạy xuống mình quán tưởng và thấy rằng cái đạo tràng trong đó mình đang đứng, được tạo bằng tấm màn lưới của Vua Trời Đế Thích, và tất cả chư Bụt trong mười phương đều hiển hiện trước mặt mình.  Vì vậy khi lạy, mình không bỏ sót một vị Bụt nào hết, khi lạy một Bụt là mình lạy tất cả các Bụt. Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ, thân con cũng ảnh hiện như Bụt vậy, nếu Bụt hiện thânvô số thì con cũng hiện thânvô số.  Số lượng của sở lễ nhiều như thế nào thì số lượng của năng lễ nhiều như thế đó.  Nếu chư Bụt nhiều như số cát sông Hằng, thì con cũng vậy, số lượng của hiện thân con cũng nhiều như số cát sông Hằng, và trước mỗi vị Bụt trong mọi thế giới đều có con đang đứng kính lễ.

Khi quán tưởng như vậy và lạy xuống thì một cái lạy, là ta lạy tất cả chư Bụt trong thế giới tam thiên đại thiênVì vậy lễ lạy trong đạo Bụt không phải là sự khuất phục trước một uy quyền, cúi đầu hạ thấp nhân phẩm của mình trước một đấng thần linh, trái lại lúc lễ lạy ta đưa nhân phẩm của ta lên ngang hàng với nhân phẩm của chư Bụt.

Thầy Thiện Siêu đã dịch bài này như sau:

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châuđạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo-tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Mình nên dịch thế nào để cho người đọc hiểu được dễ dàng, và nương vào đó mà quán tưởng trong lúc lễ lạy, thì mỗi cái lạy mới giúp mình làm tiêu tan đi biết bao nhiêu vô minh, bao nhiêu mê mờ, bao nhiêu nghiệp chướng, đồng thời nó tạo ra một sự thông cảm lớn lao giữa mình và chư Bụt[12] .

Trong trường hợp lễ lạy đức Quán Thế Âm, nếu ta cũng áp dụng phương pháp đó thì ta sẽ thấy được rằng trong ta có một Bồ Tát Quán Âm ở trong tư thế tiềm phụcTự nhiên chúng ta sẽ có niềm tin.  Đây là lời dạy của Bụt.  Lưỡi của Bụt rất dài, che được cả tam thiên đại thiên thế giới, vì vậy cho nên những điều Bụt nói đều toàn là sự thật.  Đó là hình ảnh diễn tả trong kinh.  Khi Bụt nói mọi chúng sanh đều có một vị Bụt trong lòng, thì đó là một sự thật, vì vậy trong mỗi chúng ta đều có tiềm phục một đức Quán Thế Âm.  Nếu chúng ta tu tập cho có những điều kiện để hạt giống Quán Thế Âm ở trong ta được tưới tẩm, có không gianthời gian để phát triển, thì đó là một hình thái niệm Bụt, tại vì đức Quán Thế Âm không phải chỉ ở bên trong hay ở bên ngoài ta.  Nói rằng Ngài chỉ có ở bên trong ta thì không đúng, mà nói Ngài chỉ có ở bên ngoài thì cũng không đúng luôn.  Phật tánh có ở khắp nơi.
Khi thấy rõ được sự tiềm phục của Bồ Tát Quán Thế Âm trong ta thì tự nhiên ta sẽ có sự cung kính đối với ngũ uẩn của chúng taChúng ta không còn phiền trách, khinh thường, không còn hờ hững với ngũ uẩn của chúng ta nữa.  Đồng thời nhìn quanh, chúng ta cũng không chê trách, khinh thị, đối xử tệ bạc với những hợp thể của ngũ uẩn chung quanh ta, tức là những bạn tu, những sư anh, sư chị của chúng ta.  Họ đều có đức Quán Thế Âm trong ngũ uẩn của họ, tại vì chúng ta chưa biết cách cho nên chưa đánh động và làm sống dậy được Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong họ.  Người đó có vẻ như khôngtình thương, không có hiểu biết, không biết lo cho những người khốn khổ.  Sự thực là đức Quán Âm trong họ đang ở trong tư thế tiềm phục, và ta chưa đủ khả năng để giúp người bạn kia tiếp xúc được chất liệu cam lộ Quán Thế Âm.  Cho nên khi biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong ta, thì ta cũng biết lễ lạy đức Quán Thế Âm trong người khác.

Tu học là dùng những phương tiện quyền xảo để giúp người và chuyển hóa mình.  Đôi khi chỉ cần nói một câu mà mình có thể đánh động được tình thương và sự hiểu biết trong con người đó, và nhờ vậy mà người đó chuyển hóa.  Mình không cần làm nhiều mà chỉ cần làm đúng.  Làm sao để làm đúng?  Mình phải biết quán sát tâm trạng của người đó, biết người đó đang bị kẹt vào cái gì.  Thấy được rồi thì chỉ cần nói đúng một câu là tháo gỡ được cho người đó.  Đối với người bạn tu của mình cũng vậy.  Họ có thể là khô cằn, họ có thể là đa nghi, nhưng với con mắt trạch pháp của mình, với phương tiện quyền xảo của mình, với ngôn ngữtình thương của mình, mình có thể làm cho mạch tình thương ở trong họ tuôn chảy trở lại.  Đó là một hình thức lễ lạy, biến người đó thành một người bạn đồng hành của mình trên con đường thực tập từ bi.

Chúng ta có thể về Huế để tìm bác Siêu, nhưng chúng ta cũng có thể tìm được bác Siêu ở ngay đây.  Nếu bác Siêu ở trong trái tim của ta đã hiện ra rõ, thì việc đi tìm bác Siêu bên cạnh chúng ta sẽ trở nên rất dễ dàng.

[11] Bài Tán Dương Quán Âm dưới đây đã được thầy Nhất Hạnh
dịch và Sư cô Chân Quy Nghiêm phổ nhạc sau đó:

Trí tuệ bừng lên đóa biện tài,
Đứng yên trên sóng sạch trần ai,
Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh,
Hào quang quét sạch buổi nguy tai,
Liễu biếc phất bày muôn thế giới,
Sen hồng nở hé vạn lâu đài,
Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh,
Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.
[12] Làng Mai đã cống hiến bản dịch bài Quán tưởng như sau:

Trong thể tính chân như
Không chủ thể đối tượng
Đệ tử kính lạy Bụt
Trong tương cảm nhiệm mầu
Biểu hiện khắp mười phương
Như Đế châu ảnh chiếu
Nơi nào cũng có Bụt
Và có con kính lạy

Video liên quan

Chủ Đề