Các thuốc sau khi bị chuyển hóa ở gan sẽ

DƯỢC ĐỘNG HỌC CỦA THUỐC TRONG CƠ THỂ

5 [100%] 2 votes

DƯỢC ĐỘNG HỌC

HÓA DƯỢC – DƯỢC LÝ I

MỤC TIÊU HỌC TẬP:

  1. Trình bày được 4 con đường chính đưa thuốc vào cơ thể.
  2. Nêu được 2 quá trình phân bố và chuyển hóa thuốc trong cơ thể.
  3. Trình bày 4 con đường thải trừ thuốc chính khỏi cơ thể, ý nghĩa và ứng dụng trong điều trị.

NỘI DUNG CHÍNH:

Tuỳ theo tính chất của thuốc và mục tiêu điều trị, người ta có thể đưa thuốc vào cơ thể theo những đường khác nhau. Nhưng dù bằng đường nào thì rồi thuốc cũng đi vào máu với những mức độ khác nhau để đến nơi thuốc cần phát huy tác dụng.

Số phận của thuốc trong cơ thể phụ thuộc vào 4 quá trình [Dược động học]: hấp thu, phân bố, chuyển hóa và thải trừ.  Bốn quá trình này có thể xảy ra đồng thời hoặc tuần tự.

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến số phận của thuốc trong cơ thể như tính chất của thuốc, dạng bào chế, đường dùng, yếu tố cơ thể người bệnh…

1. Hấp thu:

Hấp thu là sự xâm nhập của thuốc vào vòng tuần hoàn chung của cơ thể. Để lựa chọn đường đưa thuốc vào cơ thể phù hợp cần căn cứ vào mục đích điều trị, tính chất của thuốc, dạng bào chế, trạng thái bệnh lý của người bệnh….

Đường đưa thuốc vào cơ thể ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hấp thu và tác dụng của thuốc.

Có nhiều đường đưa thuốc vào cơ thể, đó là đường tiêu hóa, đường tiêm, đường hô hấp và qua da.

2. Phân bố:

Sau khi được hấp thu, thuốc vào máu để được vận chuyển tới các nơi tác dụng. Trong máu thuốc có thể tồn tại dưới 2 dạng là:

  • Dạng tự do
  • Dạng kết hợp với protein của huyết tương

Một số thuốc có thể bị phân huỷ một phần ngay trong máu.

3. Chuyển hóa:

  • Chuyển hóa là quá trình biến đổi của thuốc trong cơ thể nhờ tác dụng của các enzym. Qua chuyển hóa, phần lớn các thuốc thường bị giảm hoặc mất tác dụng và giảm hoặc hết độc tính. Vì vậy chuyển hóa là quá trình khử độc của cơ thể đối với thuốc.
  • Một số thuốc có chất chuyển hóa vẫn giữ được tác dụng dược lý như chất ban đầu, tuy nhiên mức độ có thể thay đổi ít nhiều. Một số thuốc lại chỉ có tác dụng sau khi đã chuyển hóa.
  • Gan là cơ quan giữ vai trò quan trọng nhất trong quá trình chuyển hóa thuốc. Ngoài ra sự chuyển hóa thuốc cũng có thể xảy ra ở các tổ chức khác như thận, phổi, máu….
  • Hầu hết các phản ứng chuyển hóa thuốc trong cơ thể và đặc biệt là ở gan đều có sự tham gia của nhiều enzym khác nhau. Trong số các enzym gan thì Cytocrom P450 là một enzym đóng vai trò đáng kể đối với chuyển hóa thuốc.

4. Thải trừ thuốc:

Thải trừ thuốc là quá trình dẫn đến sự giảm nồng độ thuốc trong cơ thể. Thuốc thải trừ khỏi cơ thể chủ yếu là qua thận, ngoài ra cũng còn có thể thải trừ qua các đường khác như đường tiêu hoá, hô hấp, qua da, qua mồ hôi, qua sữa mẹ hoặc qua nước mắt.

Một số thuốc có thể được thải trừ đồng thời theo nhiều đường khác nhau nhưng thông thường mỗi thuốc có đường thải trừ chủ yếu của mình tuỳ thuộc vào tính chất và cấu trúc hoá học, vào dạng bào chế và đường dùng…

DƯỢC ĐỘNG HỌC CỦA THUỐC TRONG CƠ THỂ./.

COPY VUI LÒNG GHI NGUỒN VNRAS.COM

Một trong những vai trò hết sức quan trọng của gan là chuyển hóa thuốc, tạo điều kiện thuận lợi cho thuốc đào thải ra khỏi cơ thể.

1. Quá trình chuyển hóa thuốc ở gan

Các loại thuốc sau khi được uống qua đường miệng: viên nén, viên nang, viên sủi bọt… sẽ được hấp thu qua đường tiêu hóa. Sau đó, thuốc sẽ được hệ tuần hoàn phân phối đến các mạch máu, phóng thích hoạt chất phát huy tác dụng điều trị.

Tiếp theo quá trình phân phối thuốc là quá trình chuyển hóa thuốc. Quá trình chuyển hóa thuốc có thể diễn ra ở niêm mạc ruột, phổi, huyết tương… nhưng chủ yếu vẫn diễn ra ở gan. Trong quá trình chuyển hóa này, có sự tham gia của các enzyme Cytochrome P450 ở lưới nội chất trơn của tế bào gan trong vai trò chất xúc tác.

Quá trình chuyển hóa thuốc ở gan thường trải qua hai giai đoạn: pha 1 và pha 2. Tuy nhiên có một vài loại thuốc chỉ chuyển hóa ở pha 1 hoặc pha 2.

Pha 1: xảy ra các phản ứng sinh hóa như phản ứng khử, phản ứng thủy phân nhưng chủ yếu là phản ứng oxy hóa do enzyme gan Cytochrome P450 xúc tác, thuốc bị ion hóa do các phân tử thuốc bị mất điện tử.

Pha 2: xảy ra các phản ứng kết hợp giữa thuốc với các nhóm ion hóa như: acid glucuronic, glutathione, glycin, gốc methyl, acetyl… tại tế bào chất của tế bào gan, kết quả tạo ra chất chuyển hóa dễ hòa tan trong nước.

Trong quá trình chuyển hóa thuốc ở pha 1, có một số loại thuốc sẽ bị chuyển hóa thành chất độc với tế bào. Nếu như lượng thuốc nạp vào cơ thể lớn, gan không đủ để khử độc chất chuyển hóa và sự tích tụ của chất chuyển hóa có độc tính này sẽ ảnh hưởng đến tế bào gan, gây viêm gan.

Ví dụ Acetaminophen [paracetamol] ở pha 1 tạo thành chất chuyển hóa có chất NAPQI [N-acetyl-p-benzo-quinoneimine], ở pha 2 chất chuyển hóa này sẽ được khử độc khi kết hợp với glutathione. Nếu sử dụng paracetamol bừa bãi, dùng quá nhiều khiến NAPQI không chuyển hóa hết và sẽ gây hại cho gan.

2. Làm gì để gan khỏe

Không thể phủ nhận thuốc là giải pháp điều trị hữu dụng cho con người nhưng cần phải sử dụng thuốc chặt chẽ, theo đúng chỉ định, đúng liều lượng, không tự kê thuốc, uống thuốc bừa bãi. Cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng mỗi loại thuốc trước khi dùng. Với người buộc phải dùng thuốc điều trị [như người mắc bệnh tiểu đường, tim mạch, lao…] cần tuân thủ theo chỉ định của bác sỹ và nên giải độc và bảo vệ gan bằng thảo dược.

Trong các thảo dược tốt cho gan, cây Hovenia Dulcis là thảo dược nổi bật về công dụng giải độc gan. Hovenia là thảo dược đã được người Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc từ xưa dùng để chống nôn, giải độc, ngộ độc rượu, bảo vệ lá gan. Mỗi ngày dùng từ 3-5g dưới dạng nước sắc uống sẽ có tác dụng giải độc gan, chống say. Năm 2006 một nghiên cứu được thực hiện tại ĐH Y Bắc Kinh cho thấy Ampelopsin làm tăng cường hoạt động của enzym gan và glutathion. Việc tăng cường hoạt động của enzym gan  và glutathione giúp gan chuyển hóa các chất độc nhanh hơn. Vì vậy, trong nhiều nghiên cứu các nhà khoa học đã kết luận Hovenia có khả năng giải độc gan mạnh mẽ và hiệu quả. Tại Nhật Bản và Hàn Quốc Hovenia đã được ứng dụng trong nhiều sản phẩm giải độc gan như nước uống giải độc cơ thể, viên nén hỗ trợ điều trị nhiễm độc rượu, cây cỏ, thuốc bảo vệ thực vật…

Hovenia Dulcis

Ngoài ra, cần có biện pháp bảo vệ và tái tạo tế bào gan, để gan luôn khỏe mạnh. Về công dụng bảo vệ và tái tạo gan thì kế sữa là thảo dược hàng đầu. Hoạt chất Silymarin trong kế sữa được chứng minh có tác dụng bảo vệ và phục hồi tổn thương gan theo cơ chế: Silymarin giúp tăng tạo các enzyme gan trong lưới nội bào, có tác dụng ổn định tế bào, ngăn cản quá trình xâm nhập của các chất độc vào bên trong tế bào gan do đó nó làm bền vững màng tế bào, duy trì được cấu trúc, chức năng của tế bào, có tác dụng tăng cường chức năng gan và kích thích sự phát triển của các tế bào gan đã bị hủy hoại. Chính vì vậy, silymarin đã được bào chế thành thuốc thảo dược bảo vệ gan được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới.

Để được tư vấn miễn phí về bệnh gan từ chuyên gia gan mật gọi ngay tới số 091257119018001190 [miễn cước]

Cũng giống như cuộc đời của một con người, thuốc cũng có quá trình sinh, lão, bệnh, tử khi chu du khắp cơ thể người và cuối cùng được đào thải sau khi hoàn thành sứ mạng của nó. Hãy xem hành trình của thuốc như thế nào trong cơ thể chúng ta.


Khi ta phải bắt buộc dùng thuốc như thuốc giảm đau, kháng sinh chống nhiễm khuẩn, thuốc để bổ sung sự thiếu hụt [như thiếu insulin gây bệnh đái tháo đường] hoặc làm giảm sự thừa thãi một chất nào đó [như mỡ máu bị tăng cao] nhằm điều chỉnh lại sư cân bằng của cơ thể, ta phải đưa thuốc vào trong cơ thể nhờ con đường cho thuốc. Có nhiều con đường cho thuốc dựa vào các dạng bào chế để con người sử dụng như: thuốc dạng uống hoặc ngậm [dưới lưỡi]; thuốc dạng tiêm chích [tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch, tiêm động mạch…]; thuốc bôi ngoài da; thuốc bơm hít [khí dung] vào hầu họng; thuốc đạn đặt trực tràng; thuốc nhỏ mắt, thuốc nhỏ mũi...

Sau khi đưa thuốc vào cơ thể bằng các con đường đã nêu, thuốc sẽ di chuyển vào trong máu để đến các cơ quan và các mô trong cơ thể, đặc biệt tiến thẳng tới phần cơ thể bị bệnh. Từ đó, thuốc sẽ gây ra tác dụng gọi là hiệu ứng dược lý như phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể. Cuối cùng cơ thể chúng ta sẽ loại bỏ thuốc và các chất chuyển hóa của nó ra ngoài cơ thể.



Cũng giống đời người có sinh, bệnh, lão, tử, số phận thuốc trong cơ thể có các giai đoạn: hấp thu, phân bố, chuyển hóa, thải trừ.
Thuốc được hấp thu như thế nào?

Thuốc có thể được hấp thu trực tiếp vào máu khi dùng đường tiêm chích. Tiêm tĩnh mạch [viết tắt IV] vì đưa thuốc thẳng vào trong mạch máu nên cho tác dụng nhanh nhất, nhanh hơn tiêm bắp [IM] và tiêm dưới da [SC]. Thuốc tiêm, đặc biệt tiêm tĩnh mạch, có tác dụng nhanh và tiếp thu trọn vẹn nên nếu có sự nhầm lẫn thì thật tai hại, thậm chí nguy đến tính mạng nếu dược chất có nhiều độc tính. Trong trường hợp cấp cứu hay bệnh nhân hôn mê không thể dùng đường uống thì mới dùng đường tiêm.

Thuốc dùng phổ biến là thuốc uống. Tùy dạng thuốc uống [viên nén trần, viên nén bao, viên nang, thuốc uống lỏng như sirô, nhũ dịch, hỗn dịch…] mà sự hấp thu thuốc vào cơ thể nhanh chậm khác nhau. Khi thuốc uống vào miệng, đi qua thực quản và đi vào dạ dày, một số sẽ bắt đầu hòa tan trong khi dạng thuốc lỏng thì đã hòa tan sẵn. Một vài loại thuốc sẽ được hấp thụ tại dạ dày, số khác sẽ di chuyển vào ruột non. Điều này tùy thuộc vào lớp áo bao của viên thuốc. Nhiều loại thuốc có lớp áo bọc đặc biệt nhằm bảo vệ viên thuốc tránh bị hủy hoại bởi axít dạ dày hoặc bảo vệ niêm mạc dạ dày tránh không cho thuốc tác động trực tiếp gây hại dạ dày [viên nén bao tan ở ruột chứ không tan ở dạ dày]. Thuốc viên nang dạng con nhộng có khi cũng có cách thức bảo vệ dạng này, do vậy người bệnh không nên mở viên nang để lấy thuốc bên trong uống. Thuốc được xử lý bởi dạ dày có thể tan hoàn toàn hoặc không tan sẽ được chuyển vào ruột non. Từ đây, thuốc được hấp thụ vào niêm mạc của ruột non ở ba nơi: tá tràng, hỗng tràng hoặc hồi tràng. Thuốc được hấp thu từ ruột non sẽ di chuyển vào trong máu.

Nếu uống thuốc cùng với bữa ăn, có sự tương tác thuốc uống với thức ăn có thể làm thuốc không hoặc chậm hấp thu. Vì vậy, cần lưu ý có 4 loại thuốc uống: loại nên uống vào lúc bụng no, loại uống vào lúc bụng đói, loại nên uống cùng với bữa ăn, và loại uống tùy thuộc vào tính chất của từng loại thuốc.

Thuốc được phân bố trong hệ tuần hoàn như thế nào?

Thuốc vào được trong máu sẽ theo dòng máu nhờ nhịp đập của tim để luân chuyển khắp cơ thể, giai đoạn này gọi là sự phân bố của thuốc. Khi phân bố trong máu đi khắp nơi, thuốc muốn gây ra tác dụng dược lý phải được đưa đến cơ quan đích, nơi đáp ứng với tác dụng dược lý đó. Sự phân bố của thuốc bị ảnh hưởng bởi chính đặc tính của thuốc [như kích thước phân tử, tính thân mỡ hay tính thân nước của thuốc…] và phụ thuộc vào tính chất của cơ quan đích mà thuốc sẽ di chuyển tới, như có thuốc qua được hàng rào máu não, có thuốc thấm vào trong mô xương…

Một số cơ quan đích rất khó cho thuốc thâm nhập, bao gồm dịch não tuỷ, xương, mắt. Một số thuốc có khả năng phân bố vào các cơ quan đích này tốt hơn các thuốc khác. Người ta phải chọn lựa các thuốc có khả năng phân bố tốt, ví dụ, bác sĩ cho dùng kháng sinh là các cephalosporin thế hệ 3 [cefotaxim hay ceftriaxon] phân bố tốt vào dịch não tủy khi bệnh nhân bị nhiễm khuẩn ở vùng não tủy [như viêm màng não].
Rất cần biết thuốc có được phân bố vào nhau thai hoặc sữa mẹ hay không và với lượng bao nhiêu, vì cần quan tâm đến tác dụng có thể có của thuốc trên bào thai và đứa trẻ đang bú mẹ có thể gây hại.

Thuốc được chuyển hóa trong cơ thể như thế nào?

Khi thuốc theo máu đi khắp nơi và đến gan thì được chuyển hóa. Gan là cơ quan chính cho việc chuyển hóa thuốc. Rất nhiều thuốc được chuyển hóa tại gan nhờ các enzym [men] chuyển hóa thuốc làm nhiệm vụ chuyển hóa.

Gan luôn xem thuốc là chất độc và chuyển hóa thuốc thành các chất chuyển hóa không còn độc, dễ tan trong nước để thận loại chất đó qua nước tiểu ra khỏi cơ thể.


Đôi khi gan chuyển hóa thuốc thành chất chuyển hóa có độc tính, ví dụ paracetamol. Paracetamol là thuốc giảm đau hạ sốt, được chuyển hóa chủ yếu ở gan. Chuyển hóa paracetamol được xúc tác bởi enzym chuyển hóa thuốc gọi là cytochrom P450, hình thành chất chuyển hóa trung gian là N-acetyl benzoquinoneimin. Khi sử dụng với liều thông thường, chất này sẽ nhanh chóng được khử độc tính bởi glutathion [do gan tiết ra] và thải qua nước tiểu. Tuy nhiên, khi sử dụng liều quá cao, không đủ glutathion khử độc tính, lượng N-acetyl benzoquinoneimin tạo thành tăng lên, thâm nhập vào tế bào gan, gây hoại tử gan. Chính vì vậy, tuyệt đối không được dùng quá liều paracetamol để trị cảm sốt.
Gan thải trừ thuốc bên trong cơ thể bằng cách chuyển hóa, thận thải trừ thuốc ra khỏi cơ thể bằng cách bài tiết qua nước tiểu

Sau khi chuyển hóa ở gan, ngoài thải trừ qua đường tiểu, các chất chuyển hóa của thuốc còn được thải trừ qua mật để theo phân ra ngoài. Có nhiều thuốc còn được chuyển hóa thêm ở ruột và sẽ được tái hấp thu vào máu để thải trừ qua thận.

Enzym chuyển hóa một thuốc ở gan có thể bị ức chế [làm cho mất tác dụng] hoặc cảm ứng [làm cho tăng tác dụng] bởi thuốc dùng chung. Vì vậy, người ta rất lưu ý vấn đề tương tác thuốc ở giai đoạn chuyển hóa thuốc. Như kháng sinh erythromycin ức chế enzym chuyển hóa thuốc trị hen suyễn theophylin dẫn đến nồng độ theophylin cao hơn trong máu. Điều này có nghĩa người bệnh sẽ bị tăng độc tính của theophylin nếu dùng chung với erythromycin. Ngược lại, kháng sinh rifampicin gây cảm ứng enzym chuyển hoá thuốc “tránh thai đường uống” và dẫn tới giảm nồng độ thuốc tránh thai, đôi khi làm mất tác dụng tránh thai nếu hai thuốc này dùng chung. Các thuốc vừa kể phải uống cách xa trong khoảng thời gian cần thiết.

Khi suy giảm chức năng gan, chuyển hóa các thuốc bị suy giảm. Điều này có thể dẫn đến sự gia tăng nồng độ thuốc trong máu gây độc. Vì vậy, trong trường hợp suy giảm chức năng gan thầy thuốc tránh dùng các thuốc chuyển hóa qua gan hay phải hiệu chỉnh liều thuốc dùng thấp hơn bình thường.

Thuốc được thải trừ ra khỏi cơ thể như thế nào?

Các cơ quan chính liên quan đến việc loại bỏ thuốc là gan và thận. Về cơ bản, những cơ quan này sẽ sàng lọc ra các thuốc được xem là độc hại. Gan sẽ chuyển hóa tức phá vỡ thuốc thông qua một chuỗi các phản ứng hóa học và sinh học phức tạp tạo thành các chất chuyển hóa. Những chất chuyển hóa có thể độc hại cần phế thải này được trữ trong gan cho đến khi chúng sẵn sàng được chuyển đến thận. Trong thận, các chất chuyển hóa lại được xử lý kỹ hơn và loại bỏ khỏi cơ thể thông qua tiểu tiện.

Có thể nói, một chức năng của gan và thận là thải trừ thuốc. Gan thải trừ thuốc bên trong cơ thể bằng cách chuyển hóa, còn thận thải trừ thuốc ra khỏi cơ thể bằng cách bài tiết qua nước tiểu. Gan thận là cơ quan thải trừ thuốc chính của cơ thể. Nhiều thuốc còn được thải trừ qua đường ruột [qua phân], da [qua mồ hôi], phổi [hơi thở], sữa, tóc. Người ta đã phát hiện độc chất asen [thạch tín] trong tóc của Napoléon sau 150 năm chôn ông để kết luận là ông bị đầu độc!

Khi chức năng cơ quan thải trừ [gan thận] bị suy giảm thì thuốc bị tích lũy lâu trong cơ thể và nguy cơ bị độc tính lớn hơn. Cũng giống như suy gan, trong trường hợp suy thận rất cần giảm liều thuốc dùng.

Tóm lại, khi thuốc vào trong cơ thể, nó có cuộc hành trình bắt đầu từ “sinh” là bắt đầu hấp thu vào cơ thể, “lão, bệnh” là phân bố, chuyển hóa, và cuối cùng “tử” là sự thải trừ nó ra khỏi cơ thể. Điều quan trọng là ta dùng thuốc như thế nào giúp hành trình của thuốc suôn sẻ an toàn, không gây ra cái gọi là tai biến do thuốc xảy ra cho ta.

Theo SKĐS online.

Video liên quan

Chủ Đề