Chất liệu văn hóa dân gian được xâm nhập và tài sinh trong các sáng tác của nhà văn hiện đại

Những cách làm độc đáo

Không phải ai cũng để ý, một số yếu tố văn hóa dân gian đã được khai thác rất thành công trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, tạo nên những sản phẩm vật chất hoặc tinh thần độc đáo, có ý nghĩa. Một trong số đó, được biết đến nhiều nhất, có thể kể đến các sản phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Trí Minh. Anh là người xây dựng tên tuổi trong làng âm nhạc với vai trò nhạc sĩ âm nhạc điện tử, và đưa vào trong các tác phẩm của mình nhiều chất liệu, trong đó có âm nhạc dân gian.

Nhạc sĩ chia sẻ: “Tôi sinh ra trong gia đình có mẹ là nghệ sĩ nhạc dân gian, cho nên được tiếp xúc rất sớm với loại hình âm nhạc này. Bản thân tôi là nhạc sĩ và là người thực hành khai thác, phát triển vốn văn hóa dân gian”. 

Nhạc sĩ cho biết, ngay từ đầu những năm 2000, anh đã đưa âm nhạc dân gian vào các tác phẩm của mình. Ban đầu, anh chỉ khai thác bằng cách dựa vào các nét của âm nhạc dân gian và sáng tác. Đến nay, cách thức khai thác của anh đã thay đổi: “Tôi mời hẳn nghệ sĩ âm nhạc dân gian cùng sáng tác với mình chứ không chỉ khai thác đơn thuẩn sản phẩm đã có sẵn nữa”. Các loại hình âm nhạc dân gian mà nhạc sĩ thường đưa vào tác phẩm của mình là ca trù, âm nhạc của đồng bào các dân tộc…

Khác với nhạc sĩ Trí Minh là một nhạc sĩ chuyên nghiệp có sử dụng yếu tố văn hóa dân gian vào tác phẩm của mình, Đặng Văn Hậu lại là một nghệ nhân dân gian thực thụ. Sinh ra và lớn lên tại làng nghề tò he Xuân La [xã Phượng Dức, huyện Phú Xuyên, Hà Nội], anh không chỉ nặn tò he thành thạo, mà còn nâng tò he lên thành một nghệ thuật, tạo ra những sản phẩm nghệ thuật có giá trị cao từ món đồ chơi dân gian truyền thống cha ông để lại. 

Năm 2017, anh cùng nhà nghiên cứu Trịnh Bách và nghệ nhân nặn con giống bột Đồng Xuân cuối cùng của Hà Nội Phạm Nguyệt Ánh mày mò tìm cách khôi phục lại con giống bột cổ xưa đã thất truyền. Đến nay, toàn bộ hình ảnh con giống bột như: Nghê hý châu, sư tử hý cầu, cá vàng, bộ lục súc và con giống ở Huế... đã được anh Hậu phục hồi lại gần như đầy đủ. 

Ngoài ra, bằng sự sáng tạo của mình, nghệ nhân Đặng Văn Hậu còn tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, tạo tác công phu… để phục vụ cho những đối tượng khách hàng khác nhau. Thí dụ, bộ sản phẩm “Tích Trung thu” anh phối hợp với họa sĩ Cẩm Anh thực hiện, được thiết kế và thử nghiệm nhiều lần trước khi hoàn chỉnh, có giá thành lên tới hàng triệu đồng, mức giá cao gấp hàng trăm lần so với sản phẩm tò he thông thường.

Họa sĩ Lê Mạnh Cương, người sáng lập KEIG Studio và game “Thần tích” lại lựa chọn một con đường khác để khai thác vốn văn hóa dân gian. “Thần tích” là game đầu tiên dựa trên chất liệu kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Ý tưởng của những người sáng lập game là xây dựng một trò chơi điện tử với các nhân vật trong truyền thuyết, cổ tích của Việt Nam như Lạc Long Quân, Âu Cơ hay Sơn Tinh, Thủy Tinh…

 Ứng dụng họa tiết trang trí dân gian vào sản xuất gốm thương mại ở Bắc Giang.

Đây chỉ là ba trong số rất nhiều thí dụ thực trong cuộc sống, được nêu lên trong buổi trò chuyện về “Văn hóa dân gian trong thời đương đại”, chương trình nằm trong chuỗi sự kiện đối thoại “Sống với văn hóa dân gian” do Trường Đại học Việt Nhật và Liên minh Sáng kiến văn hóa Việt Nam đồng chủ trì, các đơn vị Chèo 48h Tôi chèo về quê hương, VICH - Trung tâm xúc tiến quảng bá di sản văn hóa Việt Nam, Về Làng, Trường Ca Kịch viện đồng tổ chức, với sự phối hợp của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Phòng Thí nghiệm tương tác người - máy, Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Folklore Club USSH.

Những giải pháp để văn hóa dân gian “sống” trong đời sống đương đại

Nhiều nhà nghiên cứu, người thực hành cũng như nghệ nhân dân gian đã có những chia sẻ, ý tưởng về việc giữ cho văn hóa dân gian phát triển trong đời sống đương đại. Một trong những giải pháp được nhiều người quan tâm là giáo dục cho thế hệ trẻ. 

 Em bé thích thú với các loại tò he ở một hội chợ quê truyền thống.

PGS,TS Trần Thị Thanh Tú [Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Nhật, Đại học Quốc gia Hà Nội] chia sẻ, tiếp cận từ giáo dục là một trong ba cách tiếp cận quan trọng đối với văn hóa dân gian, cùng với kết hợp với kinh tế để tạo ra giá trị gia tăng, và kết hợp với công nghệ để phát triển.

Bà Trần Thị Thanh Tú cho rằng, ngay từ nhỏ, trẻ nhỏ phải được tiếp cận với các sản phẩm văn hóa dân gian như tò he, rối nước... Tuy nhiên, hiện nay ở các chương trình giáo dục cấp tiểu học, phổ thông đều chưa có, chưa quan tâm đến nội dung này. Trẻ biết về văn hóa dân gian chủ yếu do các gia đình chủ động cho các con tiếp cận. Ở các cấp học cao hơn, học sinh cần có sự tiếp cận cao hơn nữa, theo nhận thức của các con.

Nghệ nhân Đặng Văn Hậu cũng chia sẻ về kinh nghiệm tiếp cận lớp trẻ của mình. Anh kể: “Chúng tôi tham gia các lễ hội văn hóa và hội chợ để trải nghiệm. Tò he là món đồ hấp dẫn các em nhỏ, chúng tôi giúp các em tiếp cận bằng cách cho các em trải nghiệm nặn tò he với các dụng cụ của nghệ nhân. Từ đó, các em có thể hiểu hơn và yêu thích văn hóa truyền thống hơn”.

Một điều quan trọng không thể thiếu, là định hướng và chính sách của Nhà nước. GS,TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cho rằng, ở Việt Nam nếu không có chính sách, định hướng từ Nhà nước thì không làm được gì. Hiện tại, các chính sách của Nhà nước đối với văn hóa dân gian cũng khá mở, nhưng chưa thực sự hỗ trợ hay tiếp cận được đến đối tượng của chính sách. Thí dụ như các nghệ nhân dân gian, mặc dù đã có danh hiệu được công nhận, nhưng lại chưa hề có chế độ gì. 

Đồng ý kiến với GS,TS Lê Hồng Lý, nhạc sĩ Trí Minh cho rằng, là người tham gia trực tiếp từ rất lâu, anh nhận thấy để phát triển được thì phải có định hướng của nhà nước, nếu không có các chính sách mở đường của nhà nước thì các chính sách phát triển con người không đi đến đâu. 

Nghệ nhân Đặng Văn Hậu cũng cho rằng, nghệ nhân dân gian không chỉ làm việc một mình theo kinh nghiệm vốn có từ cộng đồng của mình, mà phải hợp tác với nhiều bên. Chính vì thế, cần đến hoạch định chính sách, sáng tạo, sản xuất, để tạo nên sản phẩm kết hợp như vậy.

Ngoài ra, việc tạo ra những chuỗi giá trị cũng là cách để văn hóa dân gian tồn tại. Các sản phẩm thương mại khai thác yếu tố văn hóa dân gian, các sản phẩm du lịch, hay những sản phẩm cụ thể như áo dài, tò he… đều có thể được xây dựng thành chuỗi giá trị. 

Điều quan trọng nhất, là người dân phải nhận thức được những giá trị quý báu của văn hóa dân gian, sử dụng và khai thác các sản phẩm có yếu tố văn hóa dân gian bên cạnh các sản phẩm hiện đại, đó cũng là một cách hướng về nguồn cội.

Nhiều khi chúng ta mải chạy theo những giá trị khác mà bỏ quên văn hóa dân gian. Ngày xưa, GS Trần Quốc Vượng có nói: “Còn dân là còn văn hóa”. Như đợt dịch Covid-19 vừa rồi, chúng ta thấy có rất nhiều ca dao tục ngữ hò vè về đề tài này, đó là điều thú vị của văn hóa dân gian trong đời sống đương đại. Trong đời sống hiện đại, cái gì khai thác được các yếu tố văn hóa dân gian thì sẽ tồn tại rất lâu”. 

GS,TS Lê Hồng Lý

TUYẾT LOAN

I. Các thành phần của văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

- Văn học giai đoạn này là văn học trung đại gồm hai thành phần chủ yếu là văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.

- Đến giai đoạn cuối, văn học chữ quốc ngữ xuất hiện nhưng chưa có thành tựu đáng kể.

1. Văn học chữ Hán.

- Thành phần văn học chữ Hán xuất hiện sớm, tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung đại, bao gồm cả thơ và văn xuôi.

- Thể loại phong phú gồm chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, kí sự, tiểu thuyết, chương hồi, phú, thơ cổ phong, thơ Đường luật...

- Ở loại hình nào, văn học chữ Hán cũng cớ những thành tựu nghệ thuật to lớn.

2. Văn học chữ Nôm.

- Văn học chữ Nôm bao gồm các sáng tác bằng chữ Nôm, ra đời muộn hơn văn học chữ Hán [khoảng cuối thế kỉ XIII], tồn tại, phát triển đến hết thời kì văn học trung đại.

- Văn học chữ Nôm chủ yếu là thơ, rất ít văn xuôi. Trong văn học chữ Nôm, chỉ một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ Đường luật, còn phần lớn là thể loại văn học dân tộc như ngâm khúc [viết theo thể song thất lục bát], truyện thơ [lục bát], hát nói [viết theo thể thơ tự do kết hợp với âm nhạc], hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã được Việt hóa như thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn.

- Văn học chữ Nôm có những thành tựu lớn ở tất cả các thể loại kể trên.

- Ở văn học trung đại, hai thành phần văn học chữ Hán và chữ Nôm cùng phát triển, bổ sung cho nhau trong quá trình phát triển của văn học dân tộc.

II. Các giai đoạn phát triển của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

1. Giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV.

- Văn học giai đoạn này phát triển trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: Dân tộc ta giành được quyền độc lập tự chủ vào cuối thế kỉ X.

- Văn học giai đoạn này cớ những bước ngoặt lớn. Trước hết là văn học viết ra đời [thế kỉ X] và sự xuất hiện của văn học chữ Nôm [cuối thế kỉ XIII]. Nội dung của văn học thế kỉ X - thế kỉ XIV là tinh thần yêu nước với âm hưởng hào hùng.

- Các tác phẩm như Vận nước [Quốc tộ] của Pháp Thuận, Chiếu dời đô [Thiên đô chiếu] của Lí Công Uẩn, bài thơ Sông núi nước Nam [Nam quốc sơn hà] đã mở đầu cho dòng văn học yêu nước. Những tác phẩm như Hịch tướng sĩ [Dụ chư tì tướng hịch văn] của Trần Quốc Tuấn, Phò giá về kinh [Tụng giá hoàn kinh sư] của Trần Quang Khải, Tỏ lòng [Thuật hoài] của Phạm Ngũ Lão, Phú sông Bạch Đằng [Bạch Đằng giang phú] của Trương Hán Siêu... tiêu biểu cho nội dung yêu nước.

- Văn học chữ Hán với các thể loại tiếp thu từ Trung Quốc có những thành tựu lớn như văn chính luận [Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ], văn xuôi viết về lịch sử, văn hóa [Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, Việt điện u linh tập của Lí Tế Xuyên...], thơ phú [các sáng tác của Pháp Thuận, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn...]. Văn học chữ Nôm đặt nền móng phát triển cho văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc với một số bài thơ, bài phú Nôm.

2. Giai đoạn từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII.

- Văn học giai đoạn này có bước phát triển mới, nổi bật là những thành tựu nghệ thuật của văn học chữ Nôm. Văn học viết chính thức xuất hiện hai thành phần: Văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.

- Văn học thế kỉ XV - thế kỉ XVII đi từ nội dung yêu nước mang âm hưởng ngợi ca đến nội dung phản ánh, phê phán hiện thực xã hội phong kiến.

+ Văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn với các sáng tác của Nguyễn Trãi như Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo bình Ngô... là sự kết tinh thành tựu văn học yêu nước của năm thế kỉ trước. Thiên Nam ngữ lục [thế kỉ XVII] là tác phẩm diễn ca lịch sử viết bằng chữ Nôm, mang cảm hứng hào hùng, tràn đầy niềm tự hào dân tộc.

+ Các sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ đã đánh dấu sự chuyển hướng từ cảm hứng ngợi ca đất nước và vương triều phong kiến sang cảm hứng phê phán những tệ lậu xã hội, những suy thoái về đạo đức.

- Văn học chữ Hán phát triển với nhiều thể loại phong phú, đặc biệt là thành tựu của văn chính luận [Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi] và bước trưởng thành vượt bậc của văn xuôi tự sự [Thánh Tông di thảo tương truyền của Lê Thánh Tông, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ].

- Văn học chữ Nôm cớ sự Việt hóa thể loại tiếp thu từ Trung Quốc đồng thời sáng tạo những thể loại văn học dân tộc.

+ Thơ Nôm viết theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn [Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập của các tác giả thời Lê Thánh Tông, Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm...].

+ Khúc ngâm, khúc vịnh viết theo thể song thất lục bát [Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải].

+ Diễn ca lịch sử viết theo thể lục bát [Thiên Nam ngữ lục - khuyết danh] và song thất lục bát [Thiên Nam minh giám - khuyết danh].

3. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.

- Văn học phát triển trong hoàn cảnh đất nước biến động bởi nội chiến và phong trào nông dân khởi nghĩa. Chế độ phong kiến đi từ khủng hoảng đến suy thoái.  

- Văn học phát triển vượt bậc, đây là giai đoạn rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam, được mệnh danh là giai đoạn văn học cổ điển.

- Văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX chứng kiến sự xuất hiện của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa.

+ Nổi bật là tiếng nói đòi quyền sống, đòi hạnh phúc và đấu tranh giải phóng con người, nhất là người phụ nữ.

+ Những tác phẩm tiêu biểu là Chinh phụ ngâm [nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn], Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Bà Huyện Thanh Quan, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái...

+ Nguyễn Du với các tập thơ chữ Hán và đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều là đỉnh cao nhất của văn học trung đại Việt Nam.

+ Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... vẫn tiếp tục tinh thần nhân đạo truyền thống nhưng đồng thời hướng nhiều vào thế giới tình cảm riêng tư và ý thức cá nhân của con người.

- Văn học phát triển mạnh cả về văn xuôi và văn vần, cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Địa vị văn học chữ Nôm và những thể loại văn học dân tộc như thơ Nôm viết theo thể Đưòng luật, ngâm khúc viết theo thể song thất lục bát, truyện thơ viết theo thể lục bát... được khẳng định và đạt tới đỉnh cao.

- Văn xuôi tự sự chữ Hán cũng đạt được những thành tựu nghệ thuật lớn, tiểu thuyết chương hồi với Hoàng Lê nhất thống chí [Ngô gia văn phái]; thể kí với Thượng kinh kí sự [Lê Hữu Trác], Vũ trung tùy bút [Phạm Đình Hổ]...

4. Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX.

- Thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến sang thực dân nửa phong kiến. Văn hóa phương Tây bắt đầu ảnh hưởng tới đời sống xã hội Việt Nam.

- Văn học yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX phát triển rất phong phú và mang âm hưởng bi tráng.

+ Nguyễn Đình Chiểu với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều y thuật vấn đáp... được xem là tác giả văn học yêu nước lớn nhất của giai đoạn này.

+ Ngoài ra còn cớ thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn...

+ Tư tưởng canh tân đất nước được thể hiện trong các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ. Thơ ca trữ tình - trào phúng đạt được những thành tựu xuất sắc với những sáng tác của Nguyễn Khuyến, Tú Xương.

- Thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương là thành tựu nghệ thuật đặc sắc của giai đoạn này. Sáng tác văn học chủ yếu vẫn theo những thể loại và thi pháp truyền thống. Tuy nhiên, sự xuất hiện một số tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ đã bước đầu đem đến cho văn học những đổi mới theo hướng hiện đại hóa.

III. Những đặc điểm lớn về nội dung của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

Văn học trung đại Việt Nam chịu sự tác động mạnh mẽ của truyền thống dân tộc, tinh thần thời đại và những ảnh hưởng từ nước ngoài, chủ yếu là từ Trung Quốc.

1. Chủ nghĩa yêu nước.

- Chủ nghĩa yêu nước là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại Việt Nam.

- Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại gắn liền với tư tưởng “trung quân ái quốc” [trung với vua là yêu nước, yêu nước là trung với vua].

- Chủ nghĩa yêu nước biểu hiện rất phong phú, đa dạng, là âm điệu hào hùng khi đất nước chống ngoại xâm, là âm hưởng bi tráng lúc nước mất nhà tan, là giọng điệu thiết tha khi đất nước trong cảnh thái bình thịnh trị.

- Chủ nghĩa yêu nước được thể hiện tập trung ở một số phương diện như:

+ Ý thức độc lập tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc [Sông núi nước Nam, Đại cáo bình Ngô].

+ Lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù [Hịch tướng sĩ].

+ Tự hào trước chiến công thời đại [Phò giá về kinh], tự hào trước truyền thống lịch sử [Phú sông Bạch Đằng, Thiên Nam ngữ lục].

+ Biết ơn, ca ngợi những người hi sinh vì đất nước [Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc].

+ Tình yêu thiên nhiên đất nước [những bài thơ viết về thiên nhiên trong văn học Lí - Trần, trong sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến...].

2. Chủ nghĩa nhân đạo.

- Chủ nghĩa nhân đạo cũng là nội dung lớn, xuyên suốt văn học trung đại Việt Nam.

- Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại vừa bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của người Việt Nam, từ cội nguồn văn học dân gian, vừa chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân văn tích cực của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo.

- Truyền thống nhân đạo của người Việt Nam biểu hiện qua những nguyên tắc đạo lí, những thái độ ứng xử tốt đẹp giữa người với người... Tư tưởng nhân văn của Phật giáo là từ bi, bác ái; của Nho giáo là học thuyết nhân nghĩa, tư tưởng thân dân; của Đạo giáo là sống thuận theo tự nhiên, hòa hợp với tự nhiên.

- Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại rất phong phú, đa dạng, biểu hiện ở lòng thương người; lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên con người; khẳng định, đề cao phẩm chất, tài năng của con người; những khát vọng chân chính như khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, khát vọng về công lí, chính nghĩa; đề cao những quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa người với người.

- Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo qua các tác phẩm văn học của Nguyễn Trãi [Đại cáo bình Ngô, Tùng, Cảnh ngày hè...], Nguyễn Bỉnh Khiêm [Ghét chuột, Nhàn...], Nguyễn Dữ [Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên...].

- Cảm hứng nhân đạo đặc biệt nổi bật ở các tác phẩm thuộc giai đoạn văn học thế kỉ XVIII - giữa thế kỉ XIX như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương [Bánh trôi nước, Mời trầu, chùm thơ Tự tình], Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu...

3. Cảm hứng thế sự.

- Biểu hiện rõ nét từ văn học cuối thời Trần [thế kỉ XIV]. Khi triều đại nhà Trần suy thoái là lúc văn học hướng tới phản ánh hiện thực xã hội, phản ánh cuộc sống đau khổ của nhân dân.

- Cảm hứng thế sự trở thành nội dung lớn trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những bài thơ viết về nhân tình thế thái.

- Văn học viết về thế sự phát triển trong hai thế kỉ XVIII và XIX; nhiều tác giả hướng tới hiện thực cuộc sống, hiện thực xã hội đương thời để ghi lại “những điều trông thấy”. Lê Hữu Trác viết Thượng kinh kí sự, Phạm Đình Hổ viết Vũ trung tùy bút.

- Bức tranh về đời sống nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến, một xã hội thành thị trong thơ Tú Xương. Cảm hứng thế sự trong văn học trung đại đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện thực sau này.

IV. Những đặc điểm lớn về nghệ thuật của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

1. Tính quy phạm và sự phá vỡ tính quy phạm.

- Tính quy phạm, đặc điểm nổi bật của văn học trung đại, là sự quy định chặt chẽ theo khuôn mẫu.

- Ở quan điểm văn học: Coi trọng mục đích giáo huấn, văn để chở đạo; ở tư duy nghệ thuật nghĩ theo kiểu mẫu nghệ thuật có sẵn đã thành công thức; ở thể loại văn học với những quy định chặt chẽ về kết cấu; ở cách sử dụng thi liệu dẫn nhiều điển tích, điển cố, dùng nhiều văn liệu quen thuộc. Do tính quy phạm, văn học trung đại thiên về ước lệ, tượng trưng.

- Tuy nhiên, các tác giả văn học trung đại cũng đã phá vỡ tính quy phạm, phát huy cá tính sáng tạo trong cả nội dung và hình thức biểu hiện.

2. Khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị.

- Tính trang nhã cũng là đặc điểm của văn học trung đại, thể hiện ở đề tài, chủ đề hướng tới cái cao cả, trang trọng hơn là cái đời thường, bình dị; ở hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ hơn là vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc; ở ngôn ngữ nghệ thuật là chất liệu ngôn ngữ cao quý, cách diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ hơn là thông tục, tự nhiên, gần với đời sống.

- Trong quá trình phát triển của văn học trung đại, xu hướng gắn bó với hiện thực đã đưa văn học từ phong cách trang trọng, tao nhã về gần với đời sống hiện thực, tự nhiên và bình dị.

3. Tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn học nước ngoài

- Văn học trung đại Việt Nam phát triển theo quy luật vừa tiếp thu vừa dân tộc hóa tinh hoa văn học nước ngoài, chủ yếu là văn học Trung Quốc.

- Dùng chữ Hán để sáng tác, tiếp thu thể cổ phong, thể Đưòng luật trong văn vần, thể hịch, cáo, chiếu, biểu, truyện kí, tiểu thuyết chương hồi trong văn xuôi... sử dụng những điển cố, thi liệu Hán văn.

- Quá trình dân tộc hóa đã sáng tạo ra chữ Nôm trên cơ sở những thành tố của chữ Hán để ghi âm, biểu đạt nghĩa tiếng Việt và dùng chữ Nôm trong sáng tác; Việt hóa thể thơ Đường luật thành thơ Nôm Đường luật, thất ngôn xen lục ngôn, sáng tạo các thể thơ như lục bát, song thất lục bát, các thể ngâm khúc, truyện thơ, hát nói; sử dụng lời ăn tiếng nói, cách diễn đạt của nhân dân trong sáng tác.

- Văn học trung đại Việt Nam phát triển trong sự gắn bó với vận mệnh đất nước, nhân dân. Cùng với văn học dân gian, văn học trung đại góp phần làm nên diện mạo hoàn chỉnh và đa dạng của văn học dân tộc.

Page 2

SureLRN

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề