Con dâu của ông vua gọi là gì năm 2024

Dưới triều Nguyễn, nhiều núm và mặt ấn được làm ra, nhưng do chiến tranh, thiên tai, hỏa hoạn, các hiện vật đó bị thất lạc, chỉ còn lại Châu bản hiện đang được lưu giữ, bảo quản một cách khoa học tại Trung tâm lưu trữ quốc gia I để tiếp tục nghiên cứu và phát huy giá trị.

Từ thời Gia Long (1802) cho đến triều Minh Mệnh (1832), dấu ấn của một số cơ quan hàng doanh in trên châu bản được gọi là chương, sau thời kỳ đó được gọi là ấn. Ấn dấu trên Châu bản xác nhận tính chân thực và có giá trị của các văn bản liên quan trực tiếp tới đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, ngoại giao, quân sự… ở thời điểm nó được phê chuẩn và có thể được coi là những tài liệu lịch sử nguyên gốc, nguồn tư liệu phong phú, đa dạng hữu ích đối với các công trình nghiên cứu khoa học về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn.

Các vị vua triều Nguyễn khi lên ngôi, lễ đăng quang nhận kiếm báu, ấn vàng diễn ra hết sức trọng thể. Ngay khi lên ngôi cùng với ban hành chiếu sắc chính sự, các vua triều Nguyễn còn ra chỉ dụ để chế tác và sử dụng Bảo tỷ và các loại ấn chương. Kim bảo tỷ biểu thị cho quyền lực tối cao của hoàng đế cũng như vương triều. Nhà vua sử dụng Kim bảo tỷ với ý nghĩa quốc gia trọng đại, được đúc bằng vàng và bằng bạc.

Con dâu của ông vua gọi là gì năm 2024

Ba chiếc ấn của triếu Nguyễn mới được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử VN

Các phiên bản tài liệu được trưng bày lần này được đóng dấu Bảo tỷ như: Quốc gia tín bảo, Ngự tiền chi bảo, Văn lý mật sát, Thủ tín thiên hạ văn vũ quyền hành. Ngoài ra, còn có ấn kiềm Phủ Tôn Nhân- cơ quan quản lý, điều hành công việc nội tộc, không có thực quyền hành chính và một số ấn tín của hoàng thân quốc thích.

Một nội dung khác của trưng bày chính là ấn chương của các cấp chính quyền địa phương- cấp quản lý trực tiếp. Vua Gia Long chia lãnh thổ thành 23 trấn và 4 doanh, lập các chính quyền từ thành xuống phủ, huyện. Sau đó, vua Minh Mệnh đổi cấp thành và trấn thành tỉnh, trừ doanh Quảng Đức nơi đóng đô đổi thành Phủ Thừa Thiên, chia lãnh thổ thành 30 tỉnh. Theo nguyên tắc tổ chức hành chính mới ở địa phương, cấp tỉnh phải do một quan lại cấp cao đứng đầu.

Trưng bày Ấn chương triều Nguyễn 1802-1945- một góc nhìn về quản lý hành chính dưới triều Nguyễn, sẽ song hành cùng với những thay đổi mang tính tích cực trong quản lý hành chính.

* Thời phong kiến, các thứ bậc trong hoàng tộc được gọi tên như thế nào? (Nguyễn Thanh An, Hải Châu, Đà Nẵng).

- Về cách gọi tên trong hoàng tộc, Việt Nam chịu ảnh hưởng của các triều vua Trung Hoa, viết hoa chữ cái đầu.

Cha vua nếu chưa từng làm vua gọi là Quốc lão; nếu đã từng làm vua rồi truyền ngôi cho con gọi là Thái thượng hoàng. Mẹ vua nếu chồng chưa từng làm vua: Quốc mẫu; nếu chồng đã từng làm vua: Thái hậu.

Vua: Hoàng thượng. Vua của đế quốc (thống trị các nước chư hầu): Hoàng đế. Vợ vua: Hoàng hậu hoặc Hoàng hậu nương nương.

Anh trai vua: Hoàng huynh. Chị gái vua: Hoàng tỷ. Em trai vua: Hoàng đệ. Em gái vua: Hoàng muội. Bác vua: Hoàng bá. Chú vua: Hoàng thúc. Cậu vua: Quốc cữu. Cha vợ vua: Quốc trượng.

Con trai vua: Hoàng tử; nếu được chỉ định sẽ lên ngôi: Đông cung Thái tử hoặc Thái tử. Vợ Hoàng tử: Hoàng tức. Vợ Đông cung Thái tử: Hoàng phi. Con gái vua: Công chúa. Con rể vua: Phò mã.

Con trai trưởng vua chư hầu: Thế tử. Con gái vua chư hầu: Quận chúa. Chồng quận chúa: Quận mã. Trong xưng hô thì không viết hoa, như dưới đây:

Vua tự xưng quả nhân (dùng cho tước nào cũng được); trẫm (chỉ dùng cho Hoàng đế hoặc Vương); cô gia (chỉ dùng cho Vương trở xuống).

Vua gọi các quần thần: chư khanh, chúng khanh; gọi cận thần (được sủng ái): ái khanh; gọi vợ (được sủng ái): ái phi; gọi vua chư hầu: hiền hầu.

Vua, Hoàng hậu gọi con (khi còn nhỏ): hoàng nhi. Các con tự xưng với vua cha: nhi thần. Các con gọi vua cha: phụ hoàng. Các con vua gọi mẹ: mẫu hậu.

Các thê thiếp (bao gồm cả vợ) khi nói chuyện với vua xưng: thần thiếp. Hoàng thái hậu nói chuyện với các quan xưng là: ai gia.

Các quan tâu vua: bệ hạ, thánh thượng. Các quan tự xưng khi nói chuyện với vua: hạ thần; khi nói chuyện với quan to hơn (về phẩm hàm): hạ quan; khi nói chuyện người dân: bản quan.

Các quan thái giám khi nói chuyện với vua, hoàng hậu xưng là: nô tài. Cung nữ chuyên phục dịch xưng là: nô tì.

Người dân gọi quan là đại nhân, khi nói chuyện với quan xưng là: thảo dân.

Người làm các việc vặt ở cửa quan như chạy giấy, dọn dẹp, đưa thư,... gọi là nha dịch/ nha lại/ sai nha. Nhà quyền quý, con trai: công tử; con gái: tiểu thư. Đầy tớ các gia đình quyền quý gọi ông chủ: lão gia; gọi bà chủ: phu nhân; gọi con trai chủ: thiếu gia; tự xưng khi nói chuyện với bề trên: tiểu nhân.

Đứa con trai nhỏ theo hầu những người quyền quý thời phong kiến: tiểu đồng.

Ngoài ra, đối với các quan còn có kiểu thêm họ vào trước chức tước, thành tên gọi. Ví dụ: Quách công công, Lý tổng quản, Lưu hoàng thúc...

* Giữa hai cách viết “Ôm rơm nặng bụng” và “Ôm rơm rặm bụng”, xin cho biết cách viết nào đúng? (Mỹ Hà, Liên Chiểu, Đà Nẵng).

- “Ôm rơm rặm bụng” là cách viết/ nói đúng. Về từ rặm, Từ điển tiếng Việt giải thích: “Hơi chói và khó chịu như có cái gì đâm khẽ vào da: Quạt thóc xong thấy rặm người; Rặm mắt”.

Về nghĩa của thành ngữ “Ôm rơm rặm bụng” từ điển giảng: (Khẩu ngữ) ví việc làm không đâu, không phải việc của mình nhưng cứ làm, nên không những không mang lại lợi ích mà còn tự gây vất vả, phiền phức cho mình.

Vợ của Thái tử được gọi là gì?

Vợ của ngài là công chúa Da Du Đà La (Yasodhara). Công chúa Da Du Đà La bằng tuổi và là em họ thái tử Tất Đạt Đa. Bà là con của cô ruột thái tử với quốc vương nước Câu Lỵ (Koliya) láng giềng.

Vợ của Thái tử kêu bằng gì?

Vợ của Hoàng tử thường gọi là Hoàng tức hay Hoàng túc, Hoàng tử phi (Công nương).

Con rể của vua gọi là gì?

Phò mã (phồn thể: 駙馬, giản thể: 驸马) là chức vị thường dành cho người chồng của Công chúa, tức con rể của Hoàng đế hoặc Quốc vương trong văn hóa Đông Á. Danh từ này xuất hiện trong văn hóa của Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc.

Bố của vua gọi là gì?

Cứ cái gì của Vua đều phải gọi là Long. Ghế Vua gọi là Long ngai.