Cúc ơi em ở đâu thơ

Tiểu đội đã xếp một hàng ngang Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp? Chín bạn đã quây quần đủ mặt Nhỏ-Xuân-Hà-Hường-Hợi-Rạng-Xuân-Xanh A trưởng Võ Thị Tần điểm danh Chỉ thiếu mình em [Chín bỏ làm mười răng được!] Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc Ðất sâu bao nhiêu bọn anh không cần Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng Cúc ơi! Em ở đâu? […] Cúc ơi...ời...ơi! [“Cúc ơi” - Huyền thoại 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc, thơ Yến Thanh] a. [0.5 điểm]. Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ. . b. [0,5 điểm]. Chỉ ra kiểu câu theo cấu tạo và theo mục đích nói cho câu thơ sau: “Cúc ơi!” c. [0,5 điểm]. Nêu tác dụng của dấu hỏi chẩm trong câu thơ “Em ở đâu?” d [1.5 điểm].Tìm và phân tích tác dụng của một phép tu từ nổi bật được sử dụng trong đoạn thơ. e [1 .0 điểm]. Đoạn thơ gợi cho em suy nghĩ gì? [trả lời ngắn gọn khoảng 5 – 7 dòng]

             CÚC ƠI!
                                  

Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang Cúc ơi! Em ở đâu không về tập họp Chín bạn đã quây quần đủ mặt: Nhỏ - Xuân- Hà, Hường - Hợi - Rạng - Xuân -Xanh A truởng Võ Thị Tần điểm danh Chỉ thiếu mình em

[ Chín bỏ làm mười răng được]

Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần 

Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng

Cúc ơi em ở đâu  Đất nâu lạnh lắm Áo em thì mỏng Cúc ơi em ở đâu  Về với bọn anh tắm nước trong Ngàn Phố Ăn quít đỏ Sơn Bằng

Chăn trâu cắt cỏ

Bài toán lớp 5 em còn chưa nhớ Gối còn thêu dở 

Cơm chiều chưa ăn

Em ở đâu hỡi Cúc Đồng đội tìm em: đũa găm, cơm úp Gọi em  Gào em Khản cổ cả rồi

Cúc ơi…ời…ơi!

                                         Ngã ba Đồng Lộc 25-07-1968

                                                                       Yến Thanh

Tác giả bên mộ Liệt nữ - Ảnh: Anh Đức

Lời bình:

       Viết về Đồng Lộc đã có rất nhiều tác phẩm hay bao gồm cả văn, thơ, nhạc, họa và nhiều loại hình nghệ thuật khác. Nổi bật trong cảm xúc người đọc, vượt khỏi giới hạn thời gian và không gian còn lại với chúng ta là bài thơ “CÚC ƠI!” của tác giả Yến Thanh, người bạn, người đồng đội của các o ứng tác xuất thần trong lúc đi tìm thi thể đồng đội, sau trận đánh[1]. Đến nay đã gần nửa thế kỷ trôi qua, mà những câu  thơ đọc lên vẫn xúc động sâu xa người đọc, tưởng chừng câu chuyện như mới vừa đâu đây.        Bài thơ viết về người thực việc thực. Nhân vật chính là o Hồ Thị Cúc quê xã Sơn Bằng, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Cúc mồ côi cha lúc một tuổi, mẹ đi lấy chồng , em phải đi ở với chủ chăn trâu cắt cỏ qua ngày. Lớn lên vào TNXP làm tiểu đội phó tiểu đôi 4, đại đội 552 [ Hà Tĩnh ], đơn vị Cúc nhận nhiệm vụ bảo đảm giao thông  tại ngã ba Đồng Lộc – túi bom cực kỳ tàn khốc. 14 giờ ngày  24-7-1968  một quả bom tấn rơi trúng hầm, nơi có 10 cô gái  ẩn nấp, cả tiểu đội hy sinh, nhưng hôm đó chỉ tìm thấy thi thể 9 cô. Riêng Hồ Thị Cúc 3 ngày sau mới tìm thấy thi thể. Bài thơ này tác giả viết  vào ngày thứ hai khi đang cùng đồng đội đi tìm Cúc. 

       Tứ bài thơ là “tiếng gọi hồn người đã khuất” của tác giả: Cúc ơi…ời…ơi! Gọi em, Gào em…Về với bọn anh… Gọi hồn để mong mau chóng tìm ra thi thể người đã khuất, một phương thức ngoại cảm truyền thống dân gian giàu chất tâm linh, nhưng chứa đựng trong đó bao thương yêu của tình đồng đội, tình quê hương…Các em hy sinh, đã tìm thấy như đủ cả tiểu đội. Câu thơ vắt  dòng  hiện lên thứ tự những người đồng đội thân yêu 


       Chín bạn đã quây quần đủ mặt :        Nhỏ - Xuân - Hà        Hường - Hợi - Rạng - Xuân – Xanh

       A trưởng Võ Thị Tần điểm danh…


      Chỉ thiếu mình em! Các chiến sĩ trong đơn vị giao thông, những người còn sống, tất cả tìm em trong tâm trạng khắc khoải: Bọn anh đã bới tìm em vẹt cuốc/ Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần/ Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng. Lòng quyết tâm sức mạnh có thừa nhưng sợ em đau [chạm thi thể em] nên không dám cuốc mạnh. Tình thương trùm lên những câu thơ thiết tha, chân thực Cúc ơi  em ở đâu / Đất nâu lạnh lắm/ Da em thì xanh/ Áo em thì mỏng… Kỷ niệm như thầm gọi, thầm nhăc nhở, tác giả thầm mong em sống lại về với quê hương, với người thân:
       Về với  bọn anh tắm nước trong Ngàn Phố
       Ăn quít đỏ Sơn Bằng / Chăn trâu cắt  cỏ/ Gối còn thêu dở / Cơm chiều chưa ăn...        Trong tâm trạng nhớ nhung, khẩn thiết, tiếng gọi em vang lên  Cúc ơi…ời…ơi.!.    như lay động đất trời.

       Bài thơ không kể về chiến công gan dạ anh hùng của người đã khuất như ta thường gặp mà chỉ nhắc đến những kỷ niệm quê hương nước trong Ngàn Phố, quít đỏ Sơn Bằng, chăn trâu cắt cỏ… nói về sự nhung nhớ xót thương của người còn sống đất nâu lạnh lắm, da em thì xanh, áo em thì mỏng…, nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp cuộc đời người nữ chiến sĩ. Thành công bài thơ là chỗ đó. Vì sự hy sinh của em như mặt trời trên quê hương không cần nhiều lời, người đọc  vẫn thấy rõ.. Cái rực rỡ  của chiến công lùi về sau nhường cho sự tiếc thương, nhớ nhung. Sức lay động vĩnh hằng ở đấy : Em còn rất trẻ ,  người con gái “chửa hình dung ra hạnh phúc , khi Tổ quốc cần ngã xuống chẳng từ nan”  [2] 


       Thể thơ tự do, ngôn ngữ mộc mạc như tâm tình, như lời tự kể, toàn bài không gợn một chút gì là kỹ thuật, là trau chuốt Chỉ thiếu mình em, Chín bỏ làm mười răng  được!, … Em ở đâu hỡi Cúc , Đồng đội tìm em: đũa găm, cơm úp...nhưng lại làm  xúc  động độc giả  sâu xa..
       Cúc ơi ! thêm một  đài bia ngôn ngữ kỷ niệm các cô gái Đồng Lộc mà tác giả Yến Thanh đã để lại cho chúng ta. Hình ảnh không phai nhạt về các cô gái quê huơng nhỏ bé, kham khổ nhưng can trường, hình ảnh những  người con hóa thân vào đất đai Tổ quôc, vào  cuộc sống các gia đình, vào bao hạnh phúc thời nay! 


H.Q

_____________________                                                              [1] Tác giả bài thơ Yến Thanh[ tên thật là Nguyễn Thanh Bình] nguyên là kỹ sư cầu đường , trong thời gian chiến tranh biệt phái  làm cán bộ kỹ thuật Tổng đội TNXP-N53, đồng đội của C552 đơn vị 10 cô gái Đồng Lộc   [2] Ý một câu thơ của  Xuân Diệu  

Ngày đêm bám trụ san lấp hố bom

“Năm 1968 đơn vị của tôi ở xã Mỹ Lộc, huyện Can Lộc. Tiểu đội 4 thuộc Ðại đội 552 TNXP Hà Tĩnh đóng quân cách chỗ chúng tôi một quả đồi”, nhà thơ Yến Thanh, tên thật là Nguyễn Thanh Bính, nguyên cán bộ kỹ thuật Tổng đội TNXP 55, kể. Quê Thạch Hà [Hà Tĩnh], tốt nghiệp trường Trung cấp Thủy bộ Hà Nội năm 1965 rồi trở về quê công tác, ông Bính được Ty Giao thông biệt phái sang làm cán bộ kỹ thuật lực lượng TNXP. Trong 6 năm [1965-1971] cùng đồng đội vào sinh ra tử ở trọng điểm Ngã ba Ðồng Lộc, có mặt nơi “túi bom, chảo lửa” thời khắc nóng bỏng nhất, nay tuổi đã ngoài “thất thập”, ông Nguyễn Thanh Bính vẫn nhớ như in sự kiện ngày 24/7/1968.

“Có một đoàn xe chở nhiên liệu đang ém ở bãi đậu phía Bắc Ngã ba Ðồng Lộc chưa qua được trọng điểm, lệnh của tỉnh là phải sớm san lấp hố bom, thông đường”, ông Bính nhớ lại. Tiểu đội 4 do A trưởng Võ Thị Tần chỉ huy làm ngày làm đêm, vừa đào hầm hào trú ẩn vừa bám trụ mặt đường san lấp hố bom. Ðầu giờ chiều ngày 24/7/1968, máy bay địch tiến đánh Ngã ba Ðồng Lộc, ném xuống hai loạt bom. Ðến 16h cùng ngày, một tốp F4 ập đến, lượn mấy vòng rồi bay ra phía biển. Ngay sau đó có một chiếc phi cơ đột ngột quay lại cắt loạt bom trùm xuống đội hình 10 nữ TNXP. “Sau tiếng bom nổ, các lực lượng trực chiến xung quanh chạy đến cứu viện. Giữa ngổn ngang hố bom chỉ thấy cuốc xẻng, cáng thương nằm lăn lóc. Xung quanh không một tiếng người”, một cựu TNXP nhớ lại. Sau khoảng 2 giờ đồng hồ đào bới, kiếm tìm, đồng đội phát hiện thấy 9 thi thể nữ TNXP bị vùi lấp trong hầm, riêng Tiểu đội phó Hồ Thị Cúc chưa tìm thấy. Ðêm đó, 9 nữ TNXP được đồng đội đưa đến an táng tại đồi Bãi Dĩa, cách Ngã ba Ðồng Lộc khoảng 3km. Một lực lượng khác tiếp tục xuyên đêm tìm A phó Hồ Thị Cúc.

 “Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng”…

“Sáng ngày 25/7/1968, tôi đến chỗ ban chỉ huy đại đội 552, thấy cỗ quan tài chờ chị Cúc nằm đó thì nước mắt trào ra, đau nhói”, giọng ông Bính ngắt quãng. Hồ Thị Cúc sinh năm 1944, quê Sơn Bằng [Hương Sơn, Hà Tĩnh]. Nạn đói 1945 khiến Hồ Thị Cúc mồ côi bố và bà nội. Ông nội đón hai mẹ con bà Trinh [mẹ chị Cúc] về nuôi. Một thời gian sau bà Trinh đi bước nữa, Hồ Thị Cúc lớn lên nhờ sự cưu mang của ông nội cho đến khi tham gia TNXP. “Cô gái Sơn Bằng có một tuổi thơ khổ cực và hy sinh anh dũng, khiến tôi rất xúc động. Bài thơ “Cúc ơi” ra đời trong cảnh ngộ như thế. Tôi viết trong khoảng ba giờ đồng hồ, viết xong giấu vào túi áo chưa dám cho ai xem vì sợ những câu, những chữ đầy nước mắt sẽ làm nhụt ý chí chiến đấu của anh em”, ông Nguyễn Thanh Bính nói.

“Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng”... Chi bộ đại đội TNXP 552 không đồng ý việc huy động máy ủi kiếm tìm thi thể Hồ Thị Cúc, mà thống nhất là phải đào tìm bằng tay. Những ngón tay rớm máu của đồng đội không quản ngại nắng mưa, bất chấp đạn bom rình rập quyết tâm tìm cho được nữ TNXP đã ngã xuống. “Ngày 25/7, qua một ngày trông ngóng, vẫn chưa thấy chị Cúc đâu. Sáng 26/7/1968, tôi và Bí thư chi bộ C552 ra hiện trường, ở đó có một bàn thờ dã chiến nghi ngút khói hương. Tôi nhẩm đọc bài thơ, nén tâm nhang thành kính trước linh hồn của người con gái TNXP anh hùng. Ðọc xong, tôi hóa bài thơ cạnh hố bom. Ðến khoảng 10 sáng hôm đó, đồng đội đã tìm thấy Hồ Thị Cúc”, ông Bình xúc động kể lại.

Tối 26/7, diễn ra lễ truy điệu 10 nữ TNXP Tiểu đội 4. Những câu chữ thổn thức của bài thơ ra đời ngay trên trận địa Ngã ba Ðồng Lộc được ông Bính cất kỹ trong lòng. Ngày 29/9/1968, chuyên mục thơ trên sóng của Ðài tiếng nói Việt Nam phát hai bài “Cúc ơi”, “Ngã ba tên em” của tác giả Yến Thanh [Nguyễn Thanh Bính], nghệ sỹ Văn Thành đọc trên nền nhạc bài “Cúc ơi”. Về bút danh Yến Thanh, ông Bính thổ lộ: “Ðó là tên ghép giữa tên lót của tôi và tên của một người bạn nhiều năm chiến đấu ở Ngã ba Ðồng Lộc”.

Tiểu đội đã xếp một hàng ngang

Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp?

Chín bạn đã quây quần đủ hết

Nhỏ - Xuân - Hà - Hường - Hợi - Rạng - Xuân - Xanh

A trưởng Võ Thị Tần điểm danh

Chỉ thiếu mình em

[Chín bỏ làm mười răng được!]

Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc

Ðất sâu bao nhiêu bọn anh không cần biết

Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng

[Trích đoạn bài thơ “Cúc ơi” của nhà thơ Yến Thanh]

Video liên quan

Chủ Đề