- lý thuyết
- trắc nghiệm
- hỏi đáp
- bài tập sgk
Đặc điểm cơ bản nhất để nhận biết động vật thuộc ngành chân khớp là:
Các câu hỏi tương tự
Động vật Chân khớp hay Động vật Chân đốt là những động vật không có xương sống, có một bộ xương ngoài [bộ xương vĩnh viễn], một cơ thể chia đốt và những đốt phụ, thuộc Ngành Chân khớp.
A. Chân có các khớp
B. Cơ thể phân đốt
C. Các phần phụ phân đốt khớp động với nhau
D. Cơ thể có các khoang chính thức
Đáp án đúng C.
Tại sao lại gọi là ngành chân khớp là do Các phần phụ phân đốt khớp động với nhau.
Lý giải việc chọn đáp án C là do:
– Động vật Chân khớp hay Động vật Chân đốt là những động vật không có xương sống, có một bộ xương ngoài [bộ xương vĩnh viễn], một cơ thể chia đốt và những đốt phụ, thuộc Ngành Chân khớp.
– Ngành này gồm 4 phân ngành chia thành 15 lớp, và có hơn 1 triệu loài được mô tả, khiến chúng chiếm trên 80% tất cả các sinh vật được tìm thấy, và là một trong hai nhóm động vật thực sự sinh sống được ở môi trường khô – nhóm khác là động vật có màng ối. Chúng có kích thước từ rất nhỏ như sinh vật phù du cho đến chiều dài vài mét.
Đặc điểm của ngành chân khớp
Cấu tạo:
– Mặc dù có hàng triệu loài trên thế giới, nhưng chúng có chung các đặc điểm cấu tạo cơ thể. Tất cả động vật chân khớp đều có bộ khung xương cứng [bộ xương ngoài], cấu tạo chủ yếu từ kitin. Ở một số loài, lipid, protein, và canxi cacbonat cũng đóng vai trò trong bộ xương ngoài. Bộ xương bên ngoài cung cấp khả năng bảo vệ cho chúng cũng như hỗ trợ cho cơ thể phát triển.
– Chúng phát triển cơ thể qua lột xác: Do lớp vỏ kitin có tính đàn hồi kém, nên chân khớp phải lột xác để thay vỏ cũ bằng vỏ mới thích hợp với cơ thể. [2 hình thức: Biến thái hoàn toàn và biến thái không hoàn toàn].
– Cơ thế chúng được chia thành nhiều phân đoạn. Về cơ bản chúng có cấu tạo gồm 3 phần: đầu, ngực và bụng. Tuy nhiên ở một số loài phần đầu và ngực hợp nhất với nhau.
– Arthropods có nghĩa là khớp chân. Ở động vật chân đốt tiền sử, mỗi phân đoạn cơ thể được liên kết với một cặp phụ. Tuy nhiên, động vật chân đốt ngày nay đã biến đổi các phần phụ đó thành miệng, râu hoặc cơ quan sinh sản. Phần phụ của chúng có thể phân nhánh hoặc không phân nhánh.
– Một số động vật chân khớp đã phát triển rất mạnh các cơ quan cảm giác. Hầu hết các loài đều có mắt hợp chất, và nhiều loài cũng có mắt đơn giản [ocelli]. Động vật chân đốt có hệ thống tuần hoàn hở [không có mạch máu] bao gồm một ống tim và một hemocoel hở [chứa máu]. Động vật chân đốt cũng có phần ruột hoàn chỉnh với hai lỗ, miệng và hậu môn.
Cơ quan thần kinh:
– Động vật chân đốt có bộ não cũng như các dây thần kinh quanh nằm tại khu vực hầu, trong khoang miệng. Một dây thần kinh kép kéo dài về phía sau dọc theo mặt bụng cơ thể, và mỗi phần cơ thể được liên kết với một hạch thần kinh.
Hô hấp:
– Sự trao đổi chất trong ngành này có rất nhiều cách. Một số loài có mang, trong khi số khác sử dụng khí quản, hoặc phổi. Hệ thống hô hấp bao gồm các lỗ mở bên ngoài da được gọi là spiracles, nó liên kết với một hệ thống các ống nhánh cho phép các khí hô hấp di chuyển vào các mô bên trong.
Giới tính:
– Hầu hết các động vật thuộc ngành chân khớp đều có giới tính riêng biệt. Việc sinh sản diễn ra thường xuyên và tất cả đều đẻ trứng. Để trưởng thành, chúng trải qua kiểu biến thái hoàn toàn hoặc không hoàn toàn tùy thuộc vào loài.
Động vật Chân khớp hay Động vật Chân đốt là những động vật không có xương sống, có một bộ xương ngoài [bộ xương vĩnh viễn], một cơ thể chia đốt và những đốt phụ, thuộc Ngành Chân khớp [Arthropoda] [từ tiếng Hy Lạp ἄρθρον arthron, "khớp", và ποδός podos "chân", nghĩa là "chân khớp"]. Ngành này gồm 4 phân ngành [Hexapoda, Chelicerata, Myriapoda và Crustacea] chia thành 15 lớp, và có hơn 1 triệu loài được mô tả, khiến chúng chiếm trên 80% tất cả các sinh vật được tìm thấy, và là một trong hai nhóm động vật thực sự sinh sống được ở môi trường khô – nhóm khác là động vật có màng ối. Chúng có kích thước từ rất nhỏ như sinh vật phù du cho đến chiều dài vài mét.
Thời điểm hóa thạch: 540–0triệu năm trước đây
TiềnЄ Є O S D C P T J K Pg N Kỷ Cambri – Gần đây | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Marrella, một trong những động vật chân khớp khó hiểu từ Burgess Shale.
Người ta cho rằng các động vật Ediacaran Parvancorina và Spriggina cách đây khoảng 555 triệu năm là các động vật chân khớp.[9][10][11] Các động vật chân khớp nhỏ có vỏ sống như động vật hai mảnh vỏ đã được tìm thấy trong các lớp hóa thạch đầu kỷ Cambri từ 542 đến 540 triệu năm ở Trung Quốc.[12][13] Các hóa thạch bọ ba thùy tuổi Cambri sớm nhất là 530 triệu năm, nhưng lớp này đã từng khác đa dạng và phân bố toàn cầu.[14] Các cuộc kiểm tra lại các hóa thạch trong đá phiến sét Burgess thập niên 1970 có tuổi 505 triệu năm đã xác định có một số loài động vật chân đốt, một số loài trong có không thể xếp vào bất kỳ nhóm nào đã từng được nhận dạng, và do đó đã nổ ra các cuộc tranh luận về sự bùng nổ kỷ Cambri.[15][16][17] Hóa thạch của Marrella trong đá phiến sét Burgess Shale đã cung cấp bằng chứng rõ ràng sớm nhất về sự lột xác.[18] Các hóa thạch giáp xác sớm nhất có tuổi khoảng 514 triệu năm trong kỷ Cambri,[19] và tôm hóa thạch có tuổi khoảng 500 triệu năm.[20] Hóa thạch giáp xác thường được tìm thấy từ kỷ Ordovic trở về sau.[21] Chúng hầu hết sống hoàn toàn trong nước, có thể do chúng chưa bao giờ phát triển các hệ bài tiết để bảo tồn nước.[22]
Ngàng Arthropoda được phân thành 5 phân ngành, một trong số đó [Trilobitomorpha] đã bị tuyệt chủng:[24]
Bên cạnh các nhóm chính này, cũng còn một số nhóm hóa thạch, hầu hết từ đầu kỷ Cambri, chúng rất khó phân loại, hoặc vào nhóm thiếu quan hệ rõ ràng với các nhóm chính hoặc có quan hệ rõ ràng với nhiều nhóm chính. Marrella là nhóm đầu tiên được nhận dạng có sự khác biệt rõ ràng với các nhóm nổi tiếng.[25] Phát sinh loài của các nhóm động vật chân khớp còn tồn tại là một lĩnh vực đang được quan tâm và có nhiều tranh cãi.[26] Các nghiên cứu gần đây nhất có khuynh hướng rằng giáp xác là cận ngành với các nhóm sáu chân khác được lồng trong nó. Myriapoda được nhóm cùng với Chelicerata trong một số nghiên cứu gần đây [tạo thành Myriochelata],[23][27] và với Pancrustacea trong các nghiên cứu khác [tạo thành Mandibulata].[28] Việc xếp các bọ ba thùy tuyệt chủng cũng là chủ đề tranh cãi.[29] Vì mã quốc tế về danh mục động vật học công nhận không có sự ưu tiên trên cấp họ, một số cấp phân loại cao hơn có thể được xem xét theo nhiều tên gọi khác nhau.[30]
Video liên quanChủ Đề |