Em hay nêu một số điểm khác biệt giữa nam và nữ về đặc điểm sinh học còn gọi là đặc điểm giới tinh

Nêu một số điểm khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học

Đề bài

Nêu một số điểm khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học.

Lời giải chi tiết

Ngoài những đặc điểm chung, giữa nam và nữ có sự khác biệt, trong đó có sự khác nhau cơ bản về cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục. Khi còn nhỏ, bé trai, bé gái chưa có sự khác biệt rõ rệt về ngoại hình ngoài cấu tạo của cơ quan sinh dục .

Đến một độ tuổi nhất định, cơ quan sinh dục mới phát triển, làm cho cơ thể nữ và nam có nhiều điểm khác biệt về mặt sinh học.

Ví dụ :

- Nam thường có râu, cơ quan sinh dục nam tạo ra tinh trùng.

- Nữ có kinh nguyệt, cơ quan sinh dục nữ tạo ra trứng.

Loigiaihay.com

  • Dùng các tấm phiếu có nội dung dưới đây để xếp vào cột phù hợp

    Dùng các tấm phiếu có nội dung dưới đây để xếp vào cột phù hợp

  • Nêu một số ví dụ về vai trò của nữ ở trong lớp, trong trường và ở địa phương bạn

    Nêu một số ví dụ về vai trò của nữ ở trong lớp, trong trường và ở địa phương bạn

  • Tại sao không nên phân biệt đối xử giữa nam và nữ?

    Tại sao không nên phân biệt đối xử giữa nam và nữ?

  • Khi một em bé mới sinh, dựa vào cơ quan nào của cơ thể để biết đó là bé trai hay bé gái ?

    Khi một em bé mới sinh, dựa vào cơ quan nào của cơ thể để biết đó là bé trai hay bé gái ?

  • Lí thuyết bài 2 – 3: Nam hay nữ?

    Ngoài những đặc điểm chung, giữa nam và nữ có sự khác biệt, trong đó có sự khác nhau cơ bản về cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục.

Câu 43: Thế nào là giới, giới tính? Phân biệt giới và giới tính?

Trả lời:

Khái niệm “giới” và “giới tính” được giải thích tại Điều 5 của Luật Bình đẳng giới, cụ thể là:

- Giới tính là khái niệm chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.

- Giới là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.

Khái niệm giới và giới tính giúp ta phân biệt đặc điểm của phụ nữ và nam giới để hiểu rõ thực chất và cơ chế hình thành các đặc điểm đó. Sự khác nhau giữa giới tính” và “giới”được thể hiện qua các nội dung sau:

- Giới tính là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về phương diện sinh học, có sẵn từ khi sinh ra, đồng nhất và không biến đổi [trừ trường hợp có sự can thiệp của y học]. Ví dụ nam giới có thể làm thụ thai, phụ nữ có thể sinh con và cho con bú.

- Khác với giới tính, giới không mang tính bẩm sinh mà được hình thành trong quá trình sống, học tập của con người từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành. Nói cách khác, giới được thể hiện thông qua các hành vi được hình thành từ sự dạy dỗ và thu nhận từ gia đình, cộng đồng và xã hội, là vị trí, vai trò của nam và nữ mà xã hội mong muốn, kỳ vọng ở phụ nữ và nam giới liên quan đến các đặc điểm và năng lực nhằm xác định thế nào là một người nam giới hay một phụ nữ [hoặc trẻ em trai, trẻ em gái] trong một xã hội hay một nền văn hóa nhất định. Ví dụ: phụ nữ làm nội trợ, thêu thùa, chăm sóc con cái, nam giới xây dựng nhà cửa, làm kinh tế, chính trị,… Những hành vi này không phải là hành vi hay kỹ năng bẩm sinh mà do họ được xã hội, gia đình, cộng đồng dạy dỗ để làm việc đó vì xã hội cho rằng như vậy là phù hợp với thiên chức phụ nữ hoặc nam giới.

Việc sinh con của phụ nữ do yếu tố sinh học quy định và đó là đặc điểm giới tính. Việc phụ nữ làm nội trợ trong gia đình nhiều hơn nam giới là do quan niệm và sự phân công lao động trong xã hội tạo ra, chứ không phải là tự nhiên. Nếu như giới tính mang tính đồng nhất [ở mọi nơi trên thế giới đều giống nhau] và không thể thay đổi thì giới rất đa dạng, phong phú và có thể thay đổi ở từng quốc gia, dân tộc dưới sự tác động của các yếu tố xã hội. Ví dụ: ở một xã hội này, phụ nữ có đặc điểm là phụ thuộc vào nam giới về mặt kinh tế và chỉ là người thực hiện các quyết định do nam giới đưa ra [trong công việc gia đình thì nam giới làm chủ gia đình, quyết định mọi việc lớn của gia đình; trong công việc của đất nước, của xã hội thì nam giới thường là người đứng đầu, người lãnh đạo], nhưng ở một xã hội khác, phụ nữ là người tham gia quyết định bình đẳng cùng với nam giới các vấn đề của gia đình và cuộc sống xã hội; hoặc ở nơi này, phần lớn phụ nữ có thể làm ruộng, trồng trọt nhưng ở nơi khác phần lớn nam giới làm ruộng, trồng trọt. Do vậy, muốn có bình đẳng giới thì cần phải thay đổi quan niệm về vị trí, vai trò của phụ nữ và nam giới, chứ không phải thay đổi các đặc điểm tự nhiên. Ví dụ: việc mang thai và sinh con là đặc điểm giới tính của phụ nữ nhưng sự buồn khổ do sinh con gái và sự vui mừng do sinh con trai là do yếu tố giới gây ra [do tư tưởng trọng nam khinh nữ]. Vì vậy, để bình đẳng giới, cần thay đổi tận gốc tư tưởng, quan niệm thích con trai, cho rằng con trai quan trọng và có ích hơn con gái.

Mục lục

Tổng quanSửa đổi

Hình 2: Giao tử đực [tinh trùng] thụ tinh cho giao tử cái [noãn]

Một trong những tính chất cơ bản của sự sống là sinh sản, khả năng tạo ra những cá thể mới và giới tính là một khía cạnh của quá trình này. Cuộc sống đã phát triển từ những giai đoạn đơn giản đến những giai đoạn phức tạp hơn, và các cơ chế sinh sản cũng vậy. Ban đầu, sinh sản là một quá trình sao chép bao gồm việc tạo ra các cá thể mới có chứa thông tin di truyền giống như cá thể ban đầu hoặc cá thể bố mẹ. Chế độ sinh sản này được gọi là vô tính, và nó vẫn được sử dụng bởi nhiều loài, đặc biệt là đơn bào, nhưng nó cũng rất phổ biến ở các sinh vật đa bào, bao gồm nhiều loài có khả năng sinh sản hữu tính.[6] Trong sinh sản hữu tính, vật liệu di truyền của cá thể con đến từ hai cá thể khác nhau. Khi sinh sản hữu tính được phát triển theo quá trình tiến hóa dài, các giai đoạn trung gian tồn tại. Ví dụ vi khuẩn, có sinh sản vô tính, nhưng trải qua một quá trình mà một phần vật liệu di truyền của một vi khuẩn này được chuyển đến một vi khuẩn khác.[7]

Không quan tâm đến các trung gian, sự khác biệt cơ bản giữa sinh sản vô tính và hữu tính là cách thức xử lý vật liệu di truyền. Thông thường, trước khi phân chia vô tính, một tế bào nhân đôi nội dung thông tin di truyền của nó và sau đó phân chia. Quá trình phân chia tế bào này được gọi là nguyên phân. Trong sinh sản hữu tính, có những loại tế bào đặc biệt phân chia mà không cần sao chép trước vật liệu di truyền của nó, trong một quá trình có tên là giảm phân. Các tế bào kết quả được gọi là giao tử và chỉ chứa một nửa vật liệu di truyền của các tế bào cha. Những giao tử này là các tế bào được chuẩn bị cho sự sinh sản hữu tính của sinh vật.[8] Giới tính bao gồm các sắp xếp cho phép sinh sản hữu tính và đã phát triển cùng với hệ thống sinh sản, bắt đầu với các giao tử tương tự [isogamy] và tiến tới các hệ thống có các loại giao tử khác nhau, chẳng hạn như các giao tử có giao tử cái lớn [noãn] và giao tử đực nhỏ [tinh trùng].[9]

Trong các sinh vật phức tạp, các cơ quan sinh dục là bộ phận có liên quan đến việc sản xuất và trao đổi giao tử trong sinh sản hữu tính. Nhiều loài, cả thực vật và động vật, có chuyên môn về tình dục, và quần thể của chúng được chia thành các cá thể đực và cái. Ngược lại, cũng có những loài không có chuyên môn về tình dục, và những cá thể giống nhau đều chứa cơ quan sinh sản đực và cái, và chúng được gọi là lưỡng tính. Điều này là rất thường xuyên trong thực vật.[10]

Mục lục

Sinh họcSửa đổi

Ở người, giới tính của một cá thể được xác định tại thời điểm thụ tinh bởi vật chất di truyền mang trong tế bào tinh trùng. Nếu một tế bào tinh trùng mang nhiễm sắc thể X thụ tinh với trứng, con cái thường sẽ là nữ [XX]. Mặt khác, nếu một tế bào tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y thụ tinh với trứng, thì con cái thường sẽ là nam [XY]. Yếu tố quyết định thực sự là gen SRY, thường được tìm thấy trên nhiễm sắc thể Y. Những người có cấu trúc di truyền hoặc sinh lý không rõ ràng được gọi là liên giới tính. Thể dị bội nhiễm sắc thể giới tính, chẳng hạn như hội chứng XYY, cũng có thể xảy ra.

Giống như hầu hết các loài động vật có vú đực khác, bộ gen của đàn ông thường thừa hưởng nhiễm sắc thể X từ mẹ mình và một nhiễm sắc thể Y từ cha mình. Thai nhi nam tạo ra lượng nội tiết tố androgen lớn hơn và lượng estrogen nhỏ hơn so với thai nhi nữ. Sự khác biệt về số lượng tương đối của các steroid sinh dục này là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự khác biệt về sinh lý để phân biệt nam và nữ.

Con người thể hiện lưỡng hình giới tính ở nhiều đặc điểm, trong đó có nhiều đặc điểm không liên quan trực tiếp đến khả năng sinh sản, mặc dù hầu hết các đặc điểm này đều có vai trò trong việc hấp dẫn giới tính. Hầu hết các biểu hiện của lưỡng hình giới tính ở người được tìm thấy ở chiều cao, cân nặng và cấu trúc cơ thể, mặc dù luôn có những ví dụ không tuân theo khuôn mẫu tổng thể. Ví dụ, đàn ông có xu hướng cao hơn phụ nữ, nhưng có rất nhiều người ở cả hai giới có chiều cao trung bình của loài.

Đặc điểm sinh dục sơ cấp [hay cơ quan sinh dục] là những đặc điểm có từ khi sinh ra và không thể thiếu trong quá trình sinh sản. Đối với nam giới, các đặc điểm giới tính chính bao gồm dương vật và tinh hoàn. Đặc điểm giới tính thứ cấp là những đặc điểm xuất hiện trong tuổi dậy thì ở người.[1][2] Những đặc điểm như vậy đặc biệt rõ ràng trong các đặc điểm kiểu hình lưỡng hình về giới tính để phân biệt giữa các giới, nhưng — không giống như các đặc điểm giới tính chính — không trực tiếp là một phần của hệ thống sinh sản.[3][4][5] Các đặc điểm giới tính phụ dành riêng cho nam giới bao gồm:[6]

Lưu trữ 2020-09-29 tại Wayback MachineHệ thống sinh sản nam của con người
  • Lông mặt;[4]
  • Lông ngực;[7]
  • Đôi vai rộng mở;[4]
  • Thanh quản mở rộng [còn được gọi là quả táo của Adam];[4] và
  • Giọng nói trầm hơn đáng kể so với giọng của trẻ em hoặc phụ nữ.[4]

Hệ sinh sảnSửa đổi

Hệ thống sinh sản của nam giới bao gồm cơ quan sinh dục bên ngoài và bên trong. Cơ quan sinh dục ngoài của nam giới bao gồm dương vật, niệu đạo nam và bìu, trong khi cơ quan sinh dục trong của nam giới bao gồm tinh hoàn, tuyến tiền liệt, mào tinh hoàn, túi tinh, ống dẫn tinh, ống phóng tinh và tuyến vòi tinh.[8]

Chức năng của hệ thống sinh sản nam là sản xuất tinh dịch, mang tinh trùng và do đó thông tin di truyền có thể kết hợp với trứng trong người phụ nữ. Vì tinh trùng đi vào tử cung của phụ nữ và sau đó đi tiếp vào ống dẫn trứng để thụ tinh với trứng phát triển thành thai nhi, hệ thống sinh sản của nam giới không đóng vai trò cần thiết trong suốt quá trình mang thai. Nghiên cứu về sinh sản nam và các cơ quan liên quan được gọi là nam khoa.

Lưu trữ 2020-09-29 tại Wayback MachineKaryogram của nam giới, sử dụng phương pháp nhuộm Giemsa. Nam giới thường có sự kết hợp XY trong nhiễm sắc thể.
Ảnh của một nam giới trưởng thành với một nữ giới trưởng thành để so sánh. Lưu ý rằng lông mu của cả hai người mẫu đều được loại bỏ.

Hormone giới tínhSửa đổi

Ở động vật có vú, các hormone ảnh hưởng đến sự phân hóa và phát triển giới tính là nội tiết tố androgen [chủ yếu là testosterone], kích thích sự phát triển sau này của buồng trứng. Trong phôi thai chưa phân hóa giới tính, testosterone kích thích sự phát triển của các ống dẫn Wolffian, dương vật và đóng các nếp gấp âm hộ vào bìu. Một loại hormone quan trọng khác trong việc phân hóa giới tính là hormone chống Müllerian, chất này ức chế sự phát triển của các ống dẫn Müllerian. Đối với nam giới trong độ tuổi dậy thì, testosterone cùng với gonadotropin do tuyến yên tiết ra sẽ kích thích quá trình sinh tinh.

Sức khỏeSửa đổi

Mặc dù nhìn chung nam giới mắc nhiều bệnh giống như phụ nữ, nhưng họ mắc nhiều bệnh hơn một chút so với phụ nữ. Nam giới có tuổi thọ thấp hơn [9] và tỷ lệ tự tử cao hơn [10] so với nữ giới.

Nghiệp vụ công đoàn

Cập nhật lúc 11:29 ngày 20/11/2018

Những nội dung cơ bản về giới và bình đẳng giới

Luật Bình đẳng giới [Luật số 73/2006/QH11] được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Mục tiêu bình đẳng là “xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”.
Một số nội dung cơ bản liên quan đến giới và bình đẳng giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới mà chúng ta cần quan tâm:
1. Giới và giới tính
- Giới: Chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
- Giới tính: Chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ.
[Khoản 1, 2 - Điều 5 Luật Bình đẳng giới].
* Sự khác biệt căn bản giữa giới và giới tính:
- Giới: Là đặc trưng xã hội; do học tập, nghiên cứu mà có; nó mang tính đa dạng, phong phú và có sự khác biệt giữa các vùng/miền, vị trí địa lý,…
- Giới tính: Là đặc trưng sinh học; mang tính bẩm sinh/có sẵn; đồng nhất ở mọi nơi; bất biến và không thay đổi theo thời gian,…
2. Khoảng cách giới
- Là sự khác biệt hoặc bất bình đẳng giữa trẻ em gái và trẻ em trai, giữa nam và nữ trong một trường hợp cụ thể, liên quan đến các điều kiện, sự tiếp cận và thụ hưởng nguồn lực.
- Khoảng cách giới do chính con người và xã hội tạo gia. Và khoảng cách giới có thể thay đổi.
3. Bình đẳng giới và các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới
* Bình đẳng giới: Là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó [Khoản 3 - Điều 5 Luật Bình đẳng giới].
* Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới
- Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
- Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới.
- Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
- Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
- Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật.
- Thực hiện bình đẳng giớilà trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân.
[Điều 6 - Luật Bình đẳng giới].
4. Vai trò giới: Chỉ những công việc và hành vi cụ thể mà xã hội trông chờ ở mỗi người với tư cách là nam giới hoặc phụ nữ.
- Vai trò giới là những công việc, những hoạt động khác nhau mà nam giới và phụ nữ thực tế đảm nhận.
- Vai trò giới khác nhau ở những bối cảnh xã hội, lịch sử khác nhau.
- Vai trò giới gồm 3 loại: Vai trò sản xuất; vai trò tái sản xuất và vai trò cộng đồng.
5. Vấn đề giới:
- Chỉ sự bất bình đẳng trong một lĩnh vực cụ thể nào đó của đời sống xã hội và gia đình.
- Vấn đề giới, bao gồm: Sự khác biệt hoặc khoảng cách tạo ra bất bình đẳng giữa hai giới [nam và nữ].
6. Định kiến giới:
- Là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ [Khoản 4 - Điều 5 Luật Bình đẳng giới].
- Định kiến giới là suy nghĩ của mọi người về những gì mà phụ nữ và nam giới có khả năng làm và loại công việc mà họ có thể làm và nên làm; là tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho là thuộc tính của nam giới hay nữ giới.
- Các định kiến giới thường theo xu hướng thiên lệch, ít tích cực, thậm chí đôi khi còn mang tính tiêu cực, dẫn đến sự sai lệch và hạn chế trong việc nhìn nhận, đánh giá những điều mà cá nhân nam hoặc nữ có thể làm, cần làm hoặc nên làm.
- Định kiến giới, khuôn mẫu giới có liên quan đến nhau và xuất phát từ quan niệm, kỳ vọng xã hội. Chúng đều là nguyên nhân gây nên sự bất bình đẳng giới.
7. Phân biệt đối xử về giới: Là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình [Khoản 5 – Điều 5 Luật Bình đẳng giới].
Và trách nhiệm của mỗi chúng ta cũng như của toàn xã hội là phải tìm mọi biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, nhằm bảo đảm bình đẳng giới một cách hiệu quả, thực chất...
Nguyễn Thị Thái

CÁC TIN KHÁC

  • Chi tiết mức điều chỉnh tiền lương, thu nhập đóng Bảo hiểm xã hội năm 2022
  • Những điều người lao động cần biết khi bị tạm hoãn HĐLĐ vì dịch
  • Thông tư số 2/2021/TT-BNV của Bộ Nội vụ về mã số, tiêu chuẩn ngạch bậc công chức
  • 3 chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp khó khăn do Covid-19
  • 3 điểm mới về phụ cấp thâm niên vượt khung từ ngày 15/8/2021

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề