Er pr her2 ki67 là gì

Đã có rất nhiều kết quả nghiên cứu được công bố liên quan đến việc sử dụng liệu pháp nhắm mục tiêu trong điều trị ung thư. Vậy liệu pháp “nhắm mục tiêu” đầu tiên áp dụng cho ung thư vú là gì?

Trên thực tế, phương pháp này có tên gọi là liệu pháp nội tiết hoặc liệu pháp hormone. Sự phát triển của phương pháp điều trị bằng cách sử dụng thuốc nhằm vào thụ thể oestrogen (hoặc estrogen) biểu hiện ung thư vú là một trong những tiến bộ lớn của lĩnh vực nghiên cứu ung thư. Hơn một thế kỷ trước, các nhà khoa học nhận thấy rằng việc tẩy hoặc loại bỏ chức năng nội tiết tố của buồng trứng, tuyến yên hoặc tuyến thượng thận là một cách để điều trị ở một số bệnh nhân ung thư vú giai đoạn cao. Mãi cho đến khoảng 50 năm trước, những thụ thể hormon steroid, được gọi là thụ thể estrogen (ER) và thụ thể progesterone (PR) đã được phát hiện ra và khối u biểu hiện gián tiếp qua các thụ thể này. Biểu hiện ER hay ung thư vú dương tính ER trở thành mục tiêu cho liệu pháp chống estrogen. Sau đó các loại thuốc được phát triển để hỗ trợ cho liệu pháp này. Một số các loại thuốc bao gồm SERMs (Selective Estrogen Receptor Modulators), và chất ức chế aromatase.

Bảng 1: Các loại thuốc nhắm “hormone” dùng cho ung thư vú

  1. Tamoxifen (Novadex)
  2. Toremifene
  3. Anastrozole (Arimidex)*
  4. Letrozole (Femara)*
  5. Exemestane (Aromasin)*
  6. Fulvestrant (Faslodex)
  7. Leuprolide (Lucrin) or Goserelin (Zoladex)
  8. Megestrol acetate (Megace)

*Đây là các chất ức chế aromatase

Hiện nay, đối với phân nhóm ung thư vú ER dương tính hoặc ung thư vú đáp ứng hormone, việc áp dụng liệu pháp chống estrogen với các loại thuốc kể trên rất quan trọng và đã cứu sống nhiều bệnh nhân trên toàn thế giới. Hiện nay, những phụ nữ được chẩn đoán ung thư vú dương tính thụ thể nội tiết từ giai đoạn sớm sẽ mất ít nhất 5 năm điều trị nội tiết tố bổ trợ để giảm tái phát và cải thiện sự sống. Các dữ liệu gần đây thậm chí còn cho thấy thời gian điều trị nội tiết bổ trợ còn kéo dài hơn (như thử nghiệm ATLAS sử dụng tamoxifen trong 10 năm chứ không phải 5 năm) sẽ mang lại lợi ích cho bệnh nhân vì ở một số trường hợp, ung thư dương tính ER đã tái phát sau 5 năm. .

Công nghệ mới phát triển gần đây sử dụng kỹ thuật phân tích biểu hiện gen đã giúp chúng tôi hiểu được các phân nhóm khác nhau của ung thư vú. Nền tảng phát triển của cách phân loại này dựa trên các gen biểu hiện trong các tế bào khối u. Các gen này sau đó được phân tích bằng thuật toán cho các mẫu biểu hiện gen. Có bốn phân nhóm phân tử nội tại chính: các thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô của con người 2 – giàu (HER2 được làm giàu), biểu hiện gen tương tự như các tế bào nền (basal-like), luminal A và luminal B. Việc phân loại này tác động đến cách đánh giá ung thư vú của bác sĩ điều trị, trái ngược với cách phân loại tiêu chuẩn sử dụng immunohistochemistry hoặc nhuộm mẫu của khối u bằng cách sử dụng kháng thể. Từ đó, kiểu phân loại mới sẽ dẫn đến một số khác biệt về cách gom nhóm các khối u dựa trên các công nghệ phân tích di truyền hoặc do miễn dịch.

Một cách tổng quan, ung thư vú dương tính với hormone sẽ thuộc nhóm Luminal A và luminal B. Những đặc điểm cụ thể của ung thư vú luminal B so với luminal A chính là:

  • Biểu hiện của các thụ thể hoóc môn hoặc estrogen thấp hơn
  • Luminal B có nhiều khả năng là thụ thể estrogen (ER) dương tính, thụ thể progesterone (PR) âm tính và có thể dương tính với Her2 (ER +, PR-, Her2 +)
  • Tốc độ sản sinh hoặc xoay vòng tế bào cao hơn dựa trên các marker tế bào như Ki67. Điều này có thể ngụ ý các tế bào khối u hoạt động nhiều hơn, ít nhất dưới kính hiển vi
  • Mức độ mô học cao hơn khi được kiểm tra dưới kính hiển vi (mức độ mô học cao hơn có nghĩa là nó có vẻ “tích cực” hơn hoặc vô tổ chức dưới kính hiển vi)
  • Ung thư vú Luminal B dường như mang đến hậu quả xấu hơn cho người bệnh so với ung thư vú Luminal A
  • Các mô hình của khối u lây lan có thể liên quan đến xương và đến phổi (ở mức độ thấp) đối với bệnh ung thư vú luminal B, còn ung thư vú luminal A có xu hướng chủ yếu lân lan đến xương. Mẫu di căn Luminal B có thể giống với ung thư vú basal-like và HER2.
  • Ung thư vú dương tính với Luminal B có thể có tỷ lệ phần trăm các thụ thể hormone nhuộm trên bệnh lý thấp hơn. Vì vậy, bệnh nhân mắc phải ung thư Luminal B sẽ được hưởng lợi từ cả hóa trị và liệu pháp hormon.

Tóm lại, cách phân loại và phương pháp điều trị ung thư vú đang trải qua nhiều thay đổi. Chúng ta có thể hiểu một cách tổng quát rằng bệnh ung thư vú dương tính phản ứng hormon hoặc thụ thể estrogen đã được thể hiện thông qua công nghệ giải trình tự thế hệ mới (NGS) và các công nghệ khác, và ung thư vú bao gồm ít nhất 2 phân nhóm ung thư vú nhỏ hơn. Ung thư vú Luminal A và luminal B có những điểm khác biệt ở một số đặc trưng quan trọng. Sự tăng trưởng của các khối u như vậy xuất phát từ các cơ chế gây ung thư khác nhau. Hiểu được những cơ chế gây ung thư này sẽ là khởi đầu của việc thiết kế các phương pháp điều trị phù hợp và hiệu quả cho các bệnh nhân ung thư vú.

Ki67 dương tính 20% nghĩa là gì?

Ki-67 là chỉ dấu kháng thể đối với kháng nguyên khối u được tìm thấy trong tế bào ung thư vú. Nếu khối u của bạn được làm xét nghiệm Ki67, kết quả giải phẫu bệnh sẽ cho ra chỉ số Ki-67. Chỉ số càng cao – lớn hơn 20% – có nghĩa là tế bào ung thư tăng trưởng và phân chia với tốc độ cao.

Chỉ số ER và PR là gì?

A: ER và PR là thụ thể estrogen và progesterol (các nội tiết tố trong cơ thể). Các tế bào vú bình thường và tế bào ung thư vú phụ thuộc vào các thụ thể này để phát triển. Do đó, khi xét nghiệm có ER/PR dương tính thì mình sẽ được điều trị bằng thuốc nội tiết.

ER PR HER2 là gì?

HER2 hay còn gọi là thụ thể tăng trưởng của biểu bì ở người receptor 2. Đạm HER2 được tìm thấy bên ngoài của mô Vú và kích thích tăng trưởng của tế bào ung bướu. Các tế bào ung thư có mức cao hơn chỉ số HER2 bình thường được xem là HER2-dương tính.

Đờ mờ học 2 là gì?

Độ 2 chỉ những u trung gian giữa độ 1 và 3. Về đánh giá cấu trúc của . tổn thương, khối u sắp xếp thành ống hoặc nhú trên toàn bộ là 1 điểm, chỉ thỉnh thoảng hình thành ống hoặc nhú là 2 điểm, không có cấu trúc nhú hoặc ống là 3 điểm.