Gây tổn hại sức khỏe cho người khác bao nhiêu sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Xin chào các anh chị luật sư, em có câu hỏi mong các anh chị luật sư giúp đỡ.

Em của em đang là sinh viên tại Hà Nội. Cậu ấy đi làm thêm và đi dán tờ rơi tại khu đô thị A. Bảo vệ ngăn không cho cậu ấy dán, cậu ấy đã gỡ xuống, xin lỗi nhưng người bảo vệ muốn bắt về nộp phạt. Sau đó hai bên va chạm đánh nhau, cậu ấy đánh bị thương người bảo vệ và cậu ấy cũng bị đánh. Sau đó người bảo vệ đi giám định thương tật và xác định tỷ lệ thương tật 30%. Gia đình em đã đền bù vật chất theo yêu cầu của gia đình người bảo vệ, gia đình người bảo vệ đã rút đơn. Gia đình em cũng không tin vào kết quả giám định 30% vì gia đình em thăm nom chăm sóc khi người bảo vệ vào viện rất chu đáo, đầy đủ và sau 3 ngày anh ấy đã xuất viện về nhà và sức khỏe đã bình thường.  Vậy xin hỏi nếu như ra tòa thì em của em sẽ bị xử mức án thế nào? Nếu gia đình người bảo vệ rút đơn và đề nghị giảm án thấp nhất thì em của em có thể được hưởng án treo để tiếp tục đi học được không? Nếu gia đình em không tin vào kết quả giám định thương tật 30% thì có thể yêu cầu giám định lại không? Kính mong nhận được câu trả lời sớm nhất của các luật sư, em xin cảm ơn!

Với câu hỏi của bạn Phamlaw xin được trả lời như sau [câu trả lời chỉ mang tính tham khảo]:

Thứ nhất, giả sử như kết luận giám định về tỷ lệ thương tật của người bảo vệ kia là đúng, thì hành vi của em của bạn đã đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999. Cụ thể Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác và hình phạt tương ứng như sau:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a] Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b] Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c] Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d] Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ] Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e] Có tổ chức;

g] Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h] Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i] Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k] Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”

Thứ hai, theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 có quy định về vấn đề Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại cụ thể như sau:

“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”

Như vậy, nếu hành vi cố ý gây thương tích của bạn thuộc khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì em của bạn chỉ bị khởi tố khi người bị hại yêu cầu khởi tố vụ án và ngược lại [căn cứ vào những thông tin mà bạn cung cấp thì hành vi của em của bạn sẽ thuộc khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999]. Trong trường hợp này gia đình người bị hại đã rút đơn [có thể hiểu là rút yêu cầu khởi tố] thì em của bạn sẽ không làm sao cả.

Nếu gia đình bạn không tin vào kết quả giám định tỷ lệ thương tật kia, thì gia đình em của bạn có quyền yêu cầu giám định lại, và cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành giám định lại tỷ lệ thương tật, đảm bảo cho vụ án được xét xử đúng người đúng tội.

Trên đây là câu trả lời của Phamlaw đối với trường hợp của bạn, nếu còn vướng mắc bạn có thể kết nối trực tiếp đến Phamlaw, chúng tôi rất sẵn lòng để giải đáp mọi vướng mắc của bạn.

Trân trọng./.

Thực tế, gây lộn xích mích dẫn đến đánh nhau là chuyện thường gặp. Theo Luật Hình sự quy định truy tố trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây tổn hại thương tật cho người khác, cụ thể như thế nào? Gây lộn, đánh nhau gây thương tích bao nhiêu % thì bị đi tù? Cùng theo dõi bài viết dưới đây của chúng tôi.

Hành vi của các bạn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự vê tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 [sửa đổi, bổ sung 2017], cụ thể như sau:

"Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a] Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

b] Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

c] Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d] Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

đ] Có tổ chức;

e] Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

g] Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

h] Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

i] Có tính chất côn đồ;

k] Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân."

Như vậy, với tỷ lệ thương tật 11% thì các bạn đã có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh trên. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều  155 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định:

"Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết."

Như vậy, theo quy định của pháp luật, về cơ bản, thì hành vi cố ý gây thương tích sẽ bị khởi tố hình sự theo khoản 1 Điều 134 nêu trên, nếu mức độ thương tích từ 11% đến 30%.

Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi gây thương tích mà có một trong các các điều kiện được quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 thì dù mức độ thương tích dưới 11% vẫn có thể bị khởi tố hình sự.

Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự cũng quy định người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp như dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1, Điều 134.

Khi xác định được đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng hình phạt sẽ do cơ quan tố tụng xem xét, quyết định. Bên cạnh việc có thể phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật thì người nào bị truy tố còn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại tức là người phụ nữa bị đánh kia do sức khỏe bị xâm phạm. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường được quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015. Bao gồm:

– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu… theo chỉ định của bác sĩ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sĩ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại [nếu có] và các chi phí cho việc khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại [nếu có].

– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khỏe bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

– Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc [người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên] thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

– Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm.

Video liên quan

Chủ Đề