Hai bán cầu não được ngăn cách bởi
Chất trắng của bán cầu đại não chiếm tất cả các khoảng nằm giữa vỏ đại não với não thất bên và các nhân nền; gồm có 3 loại sợi: sợi toả chiếu, sợi liên hợp và sợi mép. Show
Ðoan não gồm hai bán cầu đại não, nặng từ 1000 - 2000g, chiếm khoảng 85% trọng lượng toàn não bộ. Ðây là phần não phát sinh từ não trước, phát triển mạnh nhất, vùi lấp phần gian não vào giữa nó. Hình thể ngoàiKhe não dọc phân đôi chính giữa đoan não ra làm hai bán cầu đại não phải và trái. Ở phía trước và sau sự phân đôi này là hoàn toàn, nhưng ở phần giữa khe chỉ đến thể chai. Khe não ngang ngăn cách hai bán cầu đại não với đồi thị, trung não và tiểu não. Trên bề mặt của mỗi bán cầu có nhiều khe và rãnh chia não làm nhiều thuỳ, mỗi thuỳ lại chia làm nhiều hồi. Mỗi bán cầu có 3 bờ (trên, dưới, trong) và 3 mặt: mặt trên ngoài, mặt trong và mặt dưới. Mặt trên ngoài Hình. Mặt ngoài đại não 1. Thùy trán 2. Rãnh trung tâm 3. Thùy chẩm 4. Rãnh bên 5. Thùy thái dương Lồi, áp vào vòm sọ, có các rãnh: Rãnh trung tâm đi từ 1/3 giữa bờ trên bán cầu, chạy chếch xuống dưới và ra trước. Rãnh bên đi từ bờ dưới bán cầu, nơi nối giữa 1/4 trước và 3/4 sau chạy chếch lên trên và ra sau. Rãnh đỉnh chẩm ngắn, ở 1/3 sau bờ trên bán cầu. Các rãnh này chia mặt trên ngoài của bán cầu đại não thành 5 thuỳ là thuỳ trán, thuỳ thái dương, thuỳ đỉnh, thuỳ chẩm và thuỳ đảo. Thuỳ trán nằm trước rãnh trung tâm và trên rãnh bên. Thuỳ thái dương nằm dưới rãnh bên, trước thuỳ chẩm. Thuỳ chẩmở sau rãnh đỉnh chẩm. Thuỳ đỉnh nằm sau rãnh trung tâm, ở trên thuỳ thái dương. Thuỳ đảo: bị vùi lấp trong thung lũng của rãnh bên. Mặt trong Mặt này lộ ra hoàn toàn chỉ sau khi cắt dọc giữa hai bán cầu đại não và lấy bỏ thân não và gian não. Có các chi tiết sau: Thể chai: là mảnh chất trắng chạy từ trước ra sau, nối liền hai bán cầu đại não. Thể chai gồm 4 phần từ sau tới là lồi, thân gối và mỏ thể chai. Vòm não: nằm phía dưới thể chai, chạy vòng mặt trên đồi thị và nhân đuôi, là một dải chất trắng gồm một thân ở giữa, hai cột ở trước và hai trụ ở sau. Vách trong suốt: là một màng căng giữa thể chai ở trên và vòm não ở dưới, tạo nên thành trong của hai não thất bên. Mặt dưới Rãnh bên liên tục từ mặt trên ngoài của bán cầu xuống mặt dưới và chia mặt dưới làm hai phần: Phần sau: lớn, gồm có thuỳ thái dương và thuỳ chẩm. Phần trước: nhỏ, tạo nên phần ổ mắt của thuỳ trán, có rãnh khứu chia phần này thành hồi thẳng ở trong và các hồi ổ mắt ở ngoài. Trong rãnh khứu có hành khứu, dãi khứu; dãi khứu chạy ra sau chia thành các vân khứu. Hình. Mặt dưới đại não 1. Thùy trán 2. Cầu não 3. Hành não 4. Tiểu não Hình. Mặt trong đại não 1. Vùng hạ đồi 2. Tuyến yên 3. Cầu não 4. Thể chai 5. Đồi thị 6. Trung não Hình thể trongÐoan não được cấu tạo bởi lớp vỏ xám đại não ở bên ngoài, chất trắng và các não thất bên trong, các nhân nền ở phía dưới. Chất trắng Chất trắng của bán cầu đại não chiếm tất cả các khoảng nằm giữa vỏ đại não với não thất bên và các nhân nền; gồm có 3 loại sợi: sợi toả chiếu, sợi liên hợp và sợi mép. Chất xám Tập trung ở vỏ đại não và các nhân nền. Vỏ đại não bao bọc toàn bộ mặt ngoài đại não, có khoảng 14 tỷ tế bào. Vỏ đại não được chia ra làm nhiều khu (khoảng 52 khu) đảm nhận nhiều chức năng riêng biệt. Các nhân nền của đoan não gồm thể vân, nhân trước tường và thể hạnh nhân. Thể vân có nhân đuôi và nhân bèo. Mỗi bán cầu đại não chứa trong nó một não thất bên. Hai não thất bên thông với não thất III qua lỗ gian não thất.
– ĐN đc ngăn cách với trung não & tiểu não = khe não ngang. – ĐN đc khe não dọc chia thành 2 bán cầu. Mỗi BC có 3 mặt: trên ngoài, dưới & trong. – Trên bề mặt BC ĐN có các rãnh não. Các rãnh ngăn cách các thùy não được gọi là rãnh gian thùy. 1. Các rãnh gian thùy – Mặt ngoài:
– Mặt trong: có 3 rãnh gian thuỳ
– Mặt dưới: có 2 rãnh
2. Các thùy não 2.1. Thùy trán: Nằm trên cả 3 mặt của BC. Đầu trước thựy trỏn gọi là cực trán – Mặt ngoài:
– Mặt trong: đc ngăn cách với hồi đai của thuỳ viền bằng rãnh đai & được gọi là hồi trán trong. – Mặt dưới:
+ Phần trong: là hồi thẳng + Phần ngoài: là các hồi ổ mắt 2.2. Thùy đỉnh: Nằm ở mặt ngoài và mặt trong bán cầu. – Mặt ngoài: + Ở trước là: rónh trung tõm + Ở sau là: rónh đỉnh chẩm ngoài + Ở dưới là: rónh bờn
– Mặt trong:
+ Ở trước là: trẽ viền + Phớa sau là: rónh đỉnh chẩm trong + Phía dưới là: rónh dưới đỉnh – Phần lấn vào trong BC ĐN của các hồi sau &trc TT gọi là tiểu thuỳ cạnh trung tâm. 2.3. Thuỳ thái dương: Nằm ở 2 mặt ngoài & dưới. Đầu trc của nú = cực TD. – Mặt ngoài:
– Mặt dưới:
2.4. Thuỳ chẩm: Nằm trên cả 3 mặt BC. Đầu sau = cực chẩm. – Ngăn cách với thuỳ đỉnh ở trc = rãnh đỉnh chẩm ngoài & trong, ko có ranh giới với thuỳ TD. – Mặt ngoài: có 2 rãnh là rãnh nguyệt và rãnh chẩm ngang. – Mặt dưới: góp phần tạo phần sau của hồi chẩm – TD ngoài & rong. – Mặt trong: có hồi chêm nằm giữa rãnh đỉnh chẩm trong và rãnh cựa. 2.5. Thuỳ viền: là vùng não vây quanh thể trai và gian não. – Gồm 3 phần: hồi đai, hồi hải mã, vùng dưới trai – Hồi đai bao quanh mặt lưng thể trai, ngăn cách với mặt trong thuỳ trán = rãnh đai, với mặt trong thuỳ đỉnh = rãnh dưới đỉnh. – Hồi hải mã: ngăn cách với mặt dưới thuỳ TD = rãnh bên phụ. Đầu trc cong lại gọi là móc. – Vùng dưới trai: vùng vỏ não nằm ngáy dưới mỏ thể trai. 2.6. Thuỳ đảo: – Là vùng nóo nằm ở đáy rãnh bên – Ngăn cách với thuỳ não xung quanh bởi rãnh vòng đảo. – Trong thuỳ đảo có rãnh tâm đảo & 1 số rãnh nhỏ chia thành 1 hồi đảo dài ở phía sau rãnh tâm đảo & khoảng 4 hồi đảo ngắn ở phía trước
Não được chia ra bởi một khe dọc thành 2 bán cầu, mỗi bán cầu gồm 6 thùy riêng biệt:
Thùy trán, thùy thái dương, thùy đỉnh và thùy chẩm bao phủ gần hết bề mặt não (xem hình Các thùy não Các thùy não. ); thùy đảo nằm ở sâu dưới rãnh Sylvian . Thùy viền (hệ viền) là một khu vực hình chữ C ở sát bờ phía trong của mỗi bán cầu đại não; nó bao gồm một số phần của các thùy lân cận.
Mặc dù các chức năng cụ thể được quy định cho mỗi thùy, nhưng hầu hết các hoạt động đều đòi hỏi sự phối hợp của nhiều vùng trong cả hai bán cầu. Ví dụ, mặc dù thùy chẩm là cần thiết để xử lý hình ảnh thị giác, nhưng các phần của thùy đỉnh, thùy thái dương và thùy trán ở cả hai bên cũng xử lý các kích thích thị giác phức tạp.
Các thùy não.
Chức năng của các thùy não được định khu rộng ở một bên bán cầu đại não. Các hoạt động thị giác, xúc giác và vận động ở phía bên trái của cơ thể chủ yếu là do bán cầu phải chi phối và ngược lại. Một số chức năng phức tạp nhất định liên quan đến cả hai bán cầu não, nhưng chủ yếu vẫn là do một bán cầu (bán cầu não) chi phối. Ví dụ, bán cầu trái thường chiếm ưu thế về ngôn ngữ, và bàn cầu phải chiếm ưu thế đối với sự định hướng không gian.
Vỏ não (xem hình Các vùng của não Tổng quan về chức năng não ) chứa
Các vùng của não.
Các vùng cảm giác sơ cấp nhận được các kích thích cảm giác bản thể, thính giác, thị giác và vị giác từ đồi thị, cũng là nơi nhận các kích thích từ các cơ quan cảm giác chuyên biệt và các thụ thể cảm giác ngoại biên. Các con đường khứu giác bỏ qua đồi thị và đi trực tiếp vào các vùng chuyên biệt của vỏ não. Kích thích cảm giác được xử lý tiếp trong các vùng liên hợp có liên quan đến một hoặc nhiều giác quan.
Các vỏ não vùng vận động sơ cấp tạo ra các cử động cơ thể có ý thức; các vùng liên hợp vận động giúp lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động phức tạp.
Mỗi vùng liên hợp đơn thức nằm cạnh vùng cảm giác sơ cấp tương ứng và xử lý thông tin từ khu vực đó ở mức cao hơn so với vùng cảm giác sơ cấp.
Các vùng liên hợp đa thức không bị giới hạn bởi bất kỳ chức năng vận động hoặc cảm giác đơn thuần nào mà nhận được thông tin tập hợp từ nhiều vùng cảm giác và vận động của não. Các vùng liên hợp đa thức ở thùy trán, thùy thái dương, và thùy đỉnh phiên giải dữ liệu cảm giác, phản hồi vận động và các thông tin khác với những trí nhớ bản năng và thu được. Sự phiên giải này tạo thuận cho học tập và tư duy, cách diễn đạt và hành vi. Thùy trán
Các thùy trán nằm ở trước rãnh trung tâm. Chúng rất cần thiết cho việc lên kế hoạch, thực hiện việc học và hành vi có mục đích; chúng cũng là nơi có nhiều chức năng ức chế. Có một số vùng chức năng riêng biệt ở thùy trán:
Homunculus.
Thùy đỉnh
Một số vùng ở thùy đỉnh có các chức năng cụ thể.
Thùy thái dương
Các thùy thái dương rất quan trọng trong việc nhận cảm âm thanh, ngôn ngữ, trí nhớ hình ảnh, trí nhớ tường thuật (thực tế) và cảm xúc. Bệnh nhân bị tổn thương thùy thái dương phải thường mất khả năng hiểu được các kích thích âm thanh không phải lời nói (ví dụ: âm nhạc). Tổn thương thùy thái dương trái làm suy giảm nặng sự nhận biết, trí nhớ và sự hình thành ngôn ngữ. Thùy chẩm
Thùy chẩm có chứa
Tổn thương ở vỏ não thị giác sơ cấp dẫn tới một dạng mù vỏ não; được gọi là hội chứng Anton, bệnh nhân không thể nhận ra vật thể bằng cách nhìn và không nhận thức được sự thiếu hụt này của bản thân, thường mô tả bịa đặt về những gì họ nhìn thấy.
Động kinh liên quan đến thùy chẩm có thể gây ảo giác, thường bao gồm các đường hoặc mạng lưới màu chồng lên nhau ở thị trường đối bên. Thùy đảo
Thùy đảo tích hợp các thông tin cảm giác và tự chủ từ các tạng. Nó đóng vai trò trong các chức năng ngôn ngữ nhất định, được chứng minh bằng triệu chứng thất ngôn ở những bệnh nhân có tổn thương thùy đảo. Thùy đảo xử lý cảm giác đau, nhiệt và có thể cả vị giác. Thùy viền
Thùy viền (hệ viền) bao gồm các cấu trúc nhận thông tin đầu vào từ các vùng khác nhau của não và tham gia vào những hành vi liên hợp, phức tạp (ví dụ như trí nhớ, học tập, cảm xúc). Tổn thương ảnh hưởng đến hệ viền thường gây ra nhiều dạng thiếu sót.
Bệnh nhân có các ổ sinh động kinh ở các phần hệ viền - phần cảm xúc phía trong của thùy thái dương thường có cơn động kinh cục bộ phức tạp, đặc trưng bởi cảm giác không kiểm soát được và rối loạn thần kinh tự chủ, nhận thức hoặc cảm xúc. Đôi khi, những bệnh nhân như vậy có những thay đổi về tính cách, đặc trưng bởi không biết đùa, tôn thờ triết học và ám ảnh. Bệnh nhân có thể có ảo giác khứu giác và viết vô độ tâm thần (thôi thúc viết không thể dừng). Sinh lý bệnh
Rối loạn chức năng não có thể là cục bộ hoặc toàn bộ. Các quá trình cục bộ và toàn bộ có thể biểu hiện như các thiếu sót hoặc trở thành ổ hoạt động động kinh. Những quá trình này cũng có thể ảnh hưởng đến các hệ thống dưới vỏ, làm thay đổi ý thức (ví dụ: gây sững sờ hoặc hôn mê) hoặc tích hợp suy nghĩ (ví dụ: gây sảng).
Rối loạn chức năng cục bộ thường do
Các biểu hiện phụ thuộc vào vị trí, kích thước và tốc độ phát triển của tổn thương. Tổn thương có đường kính < 2 cm hoặc tiến triển rất chậm có thể không có triệu chứng. Các tổn thương lớn hơn, các tổn thương tiến triển nhanh (qua nhiều tuần hoặc hàng tháng thay vì hàng năm) và các tổn thương ảnh hưởng đến cả hai bán cầu nhiều khả năng là có triệu chứng. Các tổn thương khu trú trong chất trắng có thể làm tổn thương kết nối giữa các vùng của não và gây ra hội chứng mất kết nối (không có khả năng thực hiện một nhiệm vụ đòi hỏi phải phối hợp hoạt động của ≥ 2 vùng não, mặc dù giữ được các chức năng cơ bản của mỗi vùng).
Rối loạn chức năng toàn bộ là do
Rối loạn chức năng toàn bộ cũng có thể xảy ra do những bệnh lý trong một khu vực cụ thể của não bộ (ví dụ áp xe, khối u, chấn thương), nếu chúng làm tăng áp lực nội sọ hoặc gây thoát vị.
Những bệnh lý này ảnh hưởng nhiều mặt chức năng của não. Phục hồi
Phục hồi sau chấn thương não phụ thuộc một phần vào các đặc điểm sau của não:
Tính mềm dẻo (khả năng của một vùng não có thể thay đổi chức năng của nó) của não ở mỗi người là khác nhau và bị ảnh hưởng bởi tuổi và tình trạng sức khoẻ chung. Tính mềm dẻo thể hiện rõ nhất ở độ tuổi đang phát triển. Ví dụ: nếu các khu vực ngôn ngữ của bán cầu ưu thế bị tổn thương nghiêm trọng trước 8 tuổi, thì bán cầu đối diện thường có thể đảm bảo chức năng ngôn ngữ gần như bình thường. Mặc dù khả năng phục hồi sau tổn thương não là đáng kể sau thập kỷ đầu tiên của cuộc đời, nhưng tổn thương nghiêm trọng thường dẫn đến thiếu sót vĩnh viễn. Tái tổ chức lại chức năng não sau khi bị tổn thương ở người lớn là ít gặp, mặc dù sự mềm dẻo vẫn có ở một số vùng nhất định của não trong suốt cuộc đời.
Sự dư thừa đề cập đến khả năng nhiều vùng não, thay vì một vùng thực hiện cùng một chức năng. Các hội chứng rối loạn chức năng não
Các hội chứng đặc hiệu bao gồm
Các bệnh lý tâm thần (ví dụ: các bệnh lý trầm cảm Các rối loạn trầm cảm , loạn thần Giới thiệu về Tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan , lo âu Tổng quan các rối loạn lo âu ) đôi khi có các triệu chứng tương tự nhau. Nói khó Dấu hiệu bệnh lý tiểu não , bệnh lý thần kinh vận động, cũng có thể gây ra các triệu chứng tương tự như thất ngôn. Chẩn đoán
Nói chung, chẩn đoán rối loạn chức năng não là một chẩn đoán lâm sàng, thường được hỗ trợ bởi test thần kinh tâm lý.
Chẩn đoán nguyên nhân thường cần các xét nghiệm (xét nghiệm máu và đôi khi là xét nghiệm dịch não tủy), chẩn đoán hình ảnh thần kinh, có thể là cấu trúc (CT, MRI) hoặc chức năng (PET, SPECT). |