Không nghĩa là gì
Trong quyển từ điển này, ta có thể bắt gặp rất nhiều mục từ có gốc Hán, mà thành tố của chúng đều là những từ có nghĩa. Như kiện cáo, một ngữ vị từ đẳng lập với hai thành tố đều là những từ độc lập hiện hành hiển nhiên, mà cũng bị liệt vào hàng từ láy. Show Kiện là một từ Hán - Việt, có liên quan đến hai từ tổ kiện tụng [健訟] và án kiện [案件]. Đây là hai chữ kiện khác nhau ([健] và [件]) mà nghĩa của cả hai đều vốn không hề liên quan gì đến việc tố tụng cả. Ngoài cái nghĩa quen thuộc là “khỏe mạnh”, chữ kiện trước [健] còn có nghĩa là “kiên trì, bền bỉ (trong một việc gì đó)”. Với nghĩa này, kiện tụng là “kiên trì, bền bỉ trong việc tố tụng”, rồi “ham mê việc tố tụng”. Sách Ấu học quỳnh lâm, quyển bốn, thiên “Tụng ngục loại” giảng: “Hiếu tụng viết kiện tụng” [好訟曰健訟], nghĩa là “ham thưa kiện gọi là kiện tụng”. Chính là với cái nghĩa này (kiên trì, bền bỉ → ham muốn, ưa thích) mà kiện còn có một điệp thức (doublet) là ghiền (theo tương ứng ngữ âm K <-> G/GH), vẫn còn được dùng một cách bình thường trong phương ngữ Nam bộ (phương ngữ miền Bắc gọi là nghiện - “nghiền” chỉ là một dị bản trẹo trọ). Còn nghĩa gốc của chữ kiện sau [件] thì chỉ là “vật/việc (gì đó)”, thí dụ: nhất kiện sam [一件衫] là một cái áo, lưỡng kiện sấn y [两件襯衣] là hai chiếc áo lót, cảo kiện [稿件] là bản thảo giao cho nhà xuất bản, án kiện [案件] là vụ án, rồi nào là bưu kiện, cấu kiện, linh kiện, phụ kiện, điều kiện, sự kiện, văn kiện... \n
Tin liên quan
In the second article, the natural and imprescriptible rights of man are defined as liberty, property, security and resistance to oppression. Education is an imprescriptible right, stop the suppression of the teachings posts, stop the dismissals, stop schools' closing, and privatization, initiate respect of the statuses and of the collective conventions... Nếu vậy mọi người sẽ nghĩ tâm là tâm hồn. Bạn cũng có thể nghĩ như vậy, nhưng bạn chỉ cần phân biệt một chút rằng tâm đây không phải là ‘tâm hồn’ hay ‘linh hồn’ theo như định nghĩa các tôn giáo khác. Vì tâm, theo Phật giáo, là một tiến-trình, một dòng chảy, và luôn luôn biến đổi; chứ không phải là một cái gì đó cố định theo kiểu một ‘linh hồn’ cố định, bất biến và truyền kiếp. Phật giáo không công nhận có một ‘linh hồn cố định, bất biến và truyền kiếp’. Bạn có thể hiểu nôm na như vầy: tâm là phần không dính líu đến thân, nhưng nó ở đâu đó trong thân. Và chính tâm là cái ghi nhận, nhận thức, chịu, hưởng, và thay đổi không ngừng theo mọi cảm giác sướng-khổ của sự sống.
Phật giáo định nghĩa rõ hơn về tâm với những đặc tính, như sau: Tâm là một hiện tượng phi-vật-chất, nó nhận thức, nghĩ, nhận biết, nếm trải, và phản ứng với đối tượng bên ngoài thông qua sự tiếp-xúc của giác quan và thức sinh ra từ các giác quan đó. Theo kinh điển, tâm có hai đặc tính cơ bản: trong suốt và sáng tỏ.
Nhiều người cho rằng tâm ở chỗ trái tim (Điều này trùng hợp trong tiếng Pali, Thái Lan, Hán, Hán Việt: tâm có nghĩa là tim. Tuy nhiên trong nhà Phật, khi các sư thầy nói trái tim là họ chỉ về tâm, còn khi họi nói tâm là chỉ về tâm chú không phải chỉ về trái tim hữu hình đang đập). Có người nghĩ rằng tâm ở trong bộ não, theo nghĩa tâm trí. Điều đó cũng sai, vì não và tim đều là hữu hình, là có thể nhìn thấy được, chụp hình được, giải phẩu được, cắt được, đụng được. Chúng đều là những bộ phận vật chất, không phải là thứ phi-vật-chất như định nghĩa của tâm. Tuy nhiên, Đức Phật cũng không nói là tâm nằm ở chỗ nào cụ thể trong thân. Phật chỉ gọi tâm như là một cái "hang" bên trong thân. Một số diễn dịch ẩn dụ khác về tâm được tìm thấy trong kinh điển và luận giảng:
"Vì chúng ta không thể thấy được tâm, nên chúng ta không thể nào chánh niệm (chú tâm) vào một mình tâm. Thay vì vậy, chúng ta chú tâm vào những thứ chứa trong nó....Ví dụ, làm sao để thấy hay biết những tâm tham, sân, si?. Bạn có thể khéo léo so sánh với những lúc mình không (ít) tham, sân, si.". Ví dụ, đó là cái tâm tức giận (sân) và ngu mờ (si) khi bạn uống rượu, thì bạn có thể nhận ra nó, vì bạn có thể so sánh nó với trạng thái tâm lúc bạn tỉnh táo, không uống rượu. Tuy nhiên, có những trạng thái tâm rất là tinh-vi mà bạn khó nhận biết để mà đối trị nó. Những loại này cần nhiều thời gian tu tập, rồi bạn sẽ thấy được chúng và đối trị được chúng. - Khi định nghĩa về tâm và sự tu hành, Đức Phật đã nói như vầy : "Này các Tỳ kheo, tâm này là sáng tỏ, nhưng nó bị làm hư hỏng bởi những ô nhiễm ngẫu nhiên từ bên ngoài. Một kẻ phàm phu không được chỉ dạy không hiểu được điều này đúng như nó là. Vì vậy, đối với người ấy, không có sự tu dưỡng tâm. "Này các Tỳ kheo, tâm này là sáng tỏ, nhưng nó không bị dính những ô nhiễm ngẫu nhiên từ bên ngoài. Một đệ tử thánh thiện được chỉ dạy hiểu được điều này đúng như nó là. Vì vậy, đối với người ấy, có sự tu dưỡng tâm." Những câu kinh này có nghĩa là: Tâm vốn có hai trạng thái. Trạng thái vốn có của nó (chân-tâm) là trong-suốt và sáng-tỏ. Trạng thái thứ hai là bị làm hư hỏng bởi những ô nhiễm từ bên ngoài, tức bị lu-mờ và dơ-bẩn. Người không có trí (không học hiểu giáo pháp) thì không hiểu được, nên không thực hành việc tu dưỡng tâm. Người có trí (có học hiểu giáo pháp) thì hiểu được và nỗ lực tu dưỡng tâm, làm trong sạch tâm. Về mặt tu tập giới hạnh và thiền tập, có một số giảng giải như sau: Tâm vốn là tinh khiết và trong sạch. Nhưng vì chúng ta bị dính nhiều ô nhiễm và bất tịnh, như: tham, sân, si, và rất nhiều loại thói tâm lâu ngày và lâu đời (tập khí) thuộc ba nhóm tham, sân, si này. Vì có những thứ ô nhiễm đó, con người mới bị khổ đau vì luôn chạy theo khoái lạc nhục dục, chạy theo những niềm tin sai lầm, và tạo ra nghiệp xấu dẫn dắt mình vào vòng sinh-tử liên tục và đầy đau khổ. Phật giáo đã tìm ra những nguyên-nhân đó của sự khổ và sự luân hồi sinh-tử. Đó chính là dục-vọng và/do những quan niệm sai lầm và si mê (về cái ‘Ta’, bản ngã, linh hồn, về mê tín...).
Muốn hết khổ đau và sinh tử thì phải diệt trừ hết những dục-vọng và những tà-kiến sai lầm và si mê đó. Về mặt thực hành, đó là làm cho tâm trong sạch, loại trừ và tẩy sạch những ô nhiễm đã nói trên. Đó chính là sự tu tập tâm, tu dưỡng tâm. Đó là "thiền". Và những cách thức tu thiền đã được Đức Phật chỉ dạy, và các thầy tổ đã hướng dẫn qua bao đời. Vì vậy, việc tu hành theo đạo Phật cũng được gọi là "tu tâm", tức là tu sửa tâm: loại bỏ những tâm xấu. Tiến-trình làm trong sạch tâm nằm trong việc sống giữ giới hạnh, thực hành thiền tập để giúp tâm trong sạch [trong suốt] và trí tuệ [sáng tỏ] như bản chất chân-nguyên của nó. Khi nào tâm trở nên được trong sạch, tâm được giải thoát, và trạng thái giải thoát hoàn toàn đó được gọi là Niết-bàn: trạng thái cao quý nhất mà các bậc A-la-hán và Phật đã chứng đắc được. Không sao có nghĩa là gì?Định nghĩa
Chẳng hề gì. Tôi ở nhà được, không sao.
Từ không thể có nghĩa là gì?Không có khả năng hoặc điều kiện làm việc gì.
Từ bỏ có nghĩa là gì?Chừa, cai, không giữ nữa.
Bao nhiêu thuốc từ loại gì?Lượng từ Từ dùng để chỉ lượng ít hay nhiều của sự vật. Ví dụ: Tất cả, mọi, những, mấy, vài, dăm, từng, các, mỗi..
|