Lê công hành thờ ở đâu

Nằm trong phố thị sầm uất giữa đất Hà Thành có một ngôi đình cổ kính, đó là đình Chợ Thêu (cổng đình có 3 chữ Hán “Tú đình thị”, tức đình Chợ Thêu), thờ ông tổ nghề thêu Lê Công Hành. Theo thần phả còn lưu giữ trong đình thì Lê Công Hành tên thật là Trần Quốc Khái, sinh đầu thế kỷ 17 tại xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ (nay là Hà Nội).

Tổ tiên của Lê Công Hành là người họ Mạc. Khi nhà Mạc bị nhà Lê đánh ạt lên Cao Bằng, ông cùng nhiều người trong họ sợ nhà Lê trả thù nên đã thay tên đổi họ. Chuyện kể rằng ngay từ thời niên thiếu, ông đã nổi tiếng thông minh. Có lần đi đắp đê, vì sức yếu, không vác được hòn đất to, ông bị chôn chân ở đê. Một viên quan đi qua, thấy vậy hỏi duyên cớ, ông khai là học trò sức yếu. Viên quan liền nói: “Nếu là học trò, ta ra một câu vế đối, nếu đối được ta tha cho về”. Ông gật đầu. Viên quan đọc: “Ông quan thị cắm đường cái tiêu trị hồng thủy cho dân được cậy”. Lê Công Hành liền đối lại: “Trai Quất Động thi đỗ Bảng nhãn phù quân vương phí chí mới cam”. Vế trên có các thứ quả gồm thị, (chuối) tiêu, hồng. Vế dưới cũng có tên các quả gồm quất, nhãn, bồ quân. Viên quan vỗ ngực kể công thì cậu học trò cũng hiên ngang bày tỏ chí khí.

Sau khi đỗ đạt làm quan, Lê Công Hành được cử đi sứ sang Trung Quốc. Trên đường đi, bọn quan lại nhà Minh không để cho đoàn sứ bộ đi đường chính, mà lại dẫn đi theo đường tắt, đến một vùng rừng núi và thung lũng thì hết lương ăn. Ông bèn cho chặt tre, đan thành những cái dậm, cái dủi, rồi cho quân lính xuống suối kiếm cá và lên rừng kiếm trái cây để ăn. Qua hết quãng đường rừng đoàn sứ bộ của ta vẫn mạnh khỏe tiến thẳng về kinh đô nhà Minh.

Không biết vì ông đã đối đáp điều gì ngang ngược hay là vì muốn thử trí thông minh của sứ thần Việt Nam, người ra nhốt ông lên trên lầu cao và rút cầu thang không cho chạy xuống. Ở trên lầu suốt cả ngày, ông chẳng thấy ai đem cơm nước đến. Nhìn quanh quẩn trên lầu chỉ thấy một cái bàn thờ, bên cạnh là 2 cái lọng xanh, đỏ trông rất đẹp. Trên cao treo một bức nghi môn thêu rồng phượng. Giữa bệ ban thờ có bày một ông Phật Di lặc bụng to, sơn đen. Trước mặt Phật là một bát hương, một đĩa trầu, một bát nước. Dưới chân bệ có một cái chóe to đựng nước cúng. Nói chung không có một thứ gì để ăn. Để quên cơn đói, ông uống tạm mấy bát nước và thầm nghĩ “chả lẽ uống nước lã mà sống được ư?”. Ông ngắm nhìn Phật Di lặc. Ông Phật bụng to vui đời cũng như đang nhìn ông và cười nói với ông. Ông tò mò đến gần xem ông Phật làm bằng gì, gỗ sơn đen hay đồng đen? Ông lấy móng tay cậy vào lưng Phật thì thấy bật ra một mảng con, rồi lấy tay bóp vụn ra thành bột. Nếm thử bỗng thấy ngòn ngọt như bột bánh khảo. Ông liền cậy một miếng to hơn, ăn vào miệng thấy thơm ngon như bánh. Thế là cứ ngày 3 bữa, ông bẻ chân tay Phật ra ăn, tráng miệng bằng nước uống ở trong chóe. Ở trên lầu buồn quá chẳng có việc gì làm, ông tháo chiếc nghi môn xuống, thấy chỉ mầu, đường thêu rất khéo. Ông cẩn thận gỡ từng sợi chỉ ra xem cách thêu rồng phượng như thế nào. Càng xem càng say mê như đọc được một quyển sách hay. Ông nghĩ bụng phải học cách thêu để về truyền dạy cho bà con. Xem xét tỉ mỉ đường thêu của chiếc nghi môn, ông lại tháo chiếc lọng ra để nghiên cứu kỹ…

Khi ông Phật Di lặc đã bị ăn gần hết, chóe nước uống cũng dần cạn. Lê Công Hành nhìn ra ngoài trời thấy đàn chim bay lượn và thèm muốn cuộc sông tự do. Như sực nhớ ra điều gì, ông chạy vào xem 2 cái lọng. Ông giương lọng và đứng trên bàn thờ cao nhảy xuống sàn lầu. Lọng cản không khí đỡ ông rơi từ từ xuống sàn. Thế là ông nghĩ được cách xuống lầu. Ông ghì chặt 2 cán lọng vào người và nhảy xuống đất. Bọn lính gác ở cổng hoảng hồn thốt lên: “Sứ thần nước Việt biết bay!”. Ít lâu sau ông về nước, bèn cáo quan về quê mở trường dạy nghề thêu cho dân làng Quất Động. Dần dần nghề thêu phát triển sang các làng khác ở tỉnh Hà Đông cũ như: Thọ An (huyện Hoài Đức), Đại Nghĩa (huyện Mỹ Đức), Đào Xá, Tam Xá (huyện Thường Tín)…

Một thời gian sau, ông lên Kinh kỳ dạy nghề thêu ở phố Hàng Lọng. Biết ông có tài thêu, bọn quan lại cho người đến nhờ ông thêu một bức tranh quả dưa, hẹn 5 ngày là phải xong. Ông vốn tính hay rượu nên cứ lần lữa mãi, đến ngày thứ 4 mới thêu xong. Ngày thứ 5, quân lính đến lấy tranh. Bức tranh thêu màu sắc rất đẹp, chỉ tiếc một điều do thêu vội nên là quả dưa bị thiếu cuống. Ông vội thêu cái cuống ngoằn ngoèo như hình con giun đất. Khi xem bọn quan lại tấm tắc khen bức tranh đẹp nhưng không hiểu sao lại có con giun cứ quẩn quanh quả dưa. Ông liền bảo đáng ra thêu con rồng chầu rất đẹp nhưng chỉ có 5 ngày thì chỉ đủ làm con giun thôi. Nếu không thích giun thì đưa tiền để ông thêu bức khác.

Tục truyền khi còn làm sứ thần ở Trung Quốc, Lê Công Hành còn xẻ thịt mình để giấu hạt bắp nếp và đậu xanh mang giống về nước để bà con sản xuất. Nhớ công ơn ấy, trong lễ cúng Tổ nghề, người thợ thêu không bao giờ làm bánh cúng, hoặc chế biến thức ăn cúng giỗ ngài bằng đậu xanh và hạt bắp nếp. Sau khi ông mất dân các làng thêu ra Hà Nội hành nghề và tôn ông làm tổ nghề thêu, thờ ở đình Chợ Thêu. Tương truyền, ngày xưa cứ đến phiên chợ các làng đem sản phẩm thêu ra bày bán và trao đổi tại ngôi đình này, cho nên mới có tên là đình Chợ Thêu.

Lê Công Hành sống ở cuối đời Trần, đầu đời Lê (khoảng thế kỷ 14), sinh ngày 18 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1606), tên thật là Bùi Công Hành tại xã Quất Động, tổng Bình Lăng, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ (nay là thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội). Cuối đời Trần, ông lên đường dự thi vừa lúc quân Minh sang xâm lược nên khoa thi bị hủy. Ông ẩn náu trong rừng rồi theo Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh. Cuộc bình Ngô thành công, ông được Lê Thái Tổ trọng dụng.

Đến đời Lê Thái Tông (1423-1442), Bùi Công Hành dẫn đầu đoàn sứ bộ đi sứ. Vua nhà Minh muốn thử trí thông minh của sứ thần nước Việt bèn cho dựng một lầu cao chót vót rồi mời ông lên chơi. Khi ông đã lên lầu, chúng bèn rút thang. Không còn lối xuống nữa, Bùi Công Hành đành ở trên lầu một mình. Đưa mắt nhìn quanh, ông chỉ thấy hai pho tượng sơn son thiếp vàng, một chum nước cùng hai cái lọng cắm trước bàn thờ. Ngoài cửa lầu treo một bức nghi môn thêu nổi ba chữ: "Phật tại tâm". Lê Công Hành nổi tiếng thông minh từ lúc còn nhỏ, đỗ tiến sĩ vào thời vua Lê Chân Tông. Năm 1646, Lê Công Hành được cử đi sứ Trung Quốc. Do phật ý vua quan Trung Quốc, họ nhốt ông trên một lầu cao, rút thang đi, không cho ai lai vãng, cũng không cho ông ăn uống. Trên lầu có pho tượng Phật, ông nhanh trí bẻ tượng ra ăn nên suốt mấy ngày không bị đói. Trên lầu cao ông tỉ mỉ lấy tấm nghi môn xuống tháo ra rồi đan lại. Ông cẩn thận xem và nhớ kỹ cách thêu thùa. Sau đó ông quan sát mấy chiếc lọng thờ, cũng tháo ra chắp vào, xem xét vải sơn vải lợp, cùng cách lắp cán, lắp chân. Nhờ vậy ông hiểu được cách làm lọng, kỹ thuật thêu của Trung Quốc. Sau đó, vị sứ thần mạnh bạo dùng cái lọng làm dù nhảy xuống đất an toàn. Trước cách ứng xử thông minh ấy, vua nhà Minh rất khâm phục. Khi về nước, dù làm quan trong triều, ông vẫn tranh thủ dạy dân làng trong vùng cách làm lọng và hàng thêu. Vua Lê phong ông làm Kim Tử Vinh Lộc đại phu, sung chức Tả thị lang bộ Công, tước Thanh Lương Hầu và cho theo họ vua, đổi thành Lê Công Hành. Khi mất, ông được truy phong Thượng thư Thái bảo Lương Quận công. Lê Công Hành được các triều Lê và Nguyễn sau này phong 9 đạo sắc. Đạo sắc sớm nhất còn giữ được là của vua Lê Thần Tông (1619-1662), gia phong năm 1637. Đạo sắc này và các đạo sắc khác còn lưu ở đình làng Đào Xá (Xã Thắng Lợi, cùng huyện).

Ông mất ngày 12 tháng 6 năm Tân Sửu (1661), thọ 56 tuổi. Ngày giỗ hàng năm ông tổ nghề thêu nay vẫn là ngày 12 tháng 6 âm lịch. Đây cũng là ngày giỗ tổ nghề của những làng sinh sống bằng nghề thêu.

Trong một lần đi sứ và bị triều đình phương Bắc dồn vào thế khó để thử tài, Lê Công Hành đã học được cách làm lọng, kỹ thuật thêu rồi về truyền dạy cho dân chúng.

Lê Công Hành tên khai sinh là Trần Quốc Khái. Ông sinh năm Bính Ngọ (1606) tại xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Thường Tín, Hà Nội).

Chuyện kể rằng hồi còn nhỏ, cậu bé Khái đã rất ham học. Cậu học cả khi đốn củi, lúc kéo vó tôm. Tối đến, nhà không có đèn, cậu bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng lấy ánh sáng đọc sách. Khái học đến đâu thuộc đến đấy và nổi tiếng hay chữ một vùng.

Năm 18 tuổi, thanh niên trai tráng trong làng đều bị lý dịch bắt đi phu đắp đê sông Hồng. Vì sức yếu không vác nổi những hòn đất to, Khái bị phạt, phải chôn chân ở mặt đê từ sáng đến trưa.

Giữa lúc đó, viên quan coi đê đi qua thấy một thanh niên mặt mũi khôi ngô, lấy làm lạ nên dừng chân hỏi: “Ngươi bị tội gì mà phải chôn chân?”.

Khái lễ phép thưa: “Tôi là học trò, không vác nổi những hòn đất đá to nên bị phạt”.

Viên quan cũng có chút chữ nghĩa, liền cười nói: “Ngươi là học trò à? Ta ra một vế đối, đối được thì ta tha cho”. Khái gật đầu xin vâng.

Viên quan liền đọc: "Ông quan thị, cắm đường cái tiêu, trị hồng thủy, cho dân được cậy". 

Vế ra khá oái oăm, có tên bốn thứ quả gồm thị, chuối tiêu, hồng và quả cậy. Khái ứng khẩu đối lại ngay: "Trai Quất Động, thi đỗ bảng nhãn, phù quân vương, phỉ chí mới cam". Vế đối lại cũng đủ bốn thứ quả quýt, nhãn, bồ quân và cam.

Nghe xong viên quan gật đầu khen ngợi, cho về. Từ đấy, Khái càng nổi tiếng hay chữ.

Sau đó, Trần Quốc Khái lều chõng đi thi và đỗ tiến sĩ đời vua Lê Chân Tông, giữ chức quan to trong triều đình nhà Lê.

Lê công hành thờ ở đâu
Ông tổ nghề thêu Lê Công Hành. Nguồn: Thư viện lịch sử

Học nghề từ lần đi sứ phương Bắc

Năm Bính Tuất (1646), ông được cử đi sứ nhà Minh. Để thử tài sứ thần nước Nam, quan quân nhà Minh không dẫn ông đi đường chính mà lại dẫn theo đường tắt.

Đến một vùng rừng núi và thung lũng thì hết lương ăn, ông bèn cho chặt tre, đan thành những cái dậm, sai quân lính xuống suối kiếm cá và lên rừng tìm trái cây. Nhờ vậy, đoàn sứ bộ của ta vượt qua quãng đường rừng núi mà vẫn khỏe mạnh như thường.

Sau khi hoàn thành công việc ngoại giao, vua Minh muốn thử tài trí của sứ thần một lần nữa, bèn sai dựng một cái lầu cao chót vót rồi mời ông lên chơi.

Trần Quốc Khái vừa lên tới nơi, quân Minh dưới đất cất thang đi. Ở trên lầu suốt một ngày, ông chẳng thấy ai đem cơm nước đến.

Đưa mắt nhìn quanh, ông chỉ thấy có cái bàn thờ. Trước bàn thờ, hai cái lọng xanh, đỏ trông rất đẹp; trên cao treo bức nghi môn diềm màn thêu rồng phượng và nổi 3 chữ “Phật tại tâm” (Phật ở trong lòng).

Ông Phật Di lặc, bụng to, sơn đen được đặt giữa bệ bàn thờ. Dưới chân bệ, một cái chum to đựng nước cúng và trong góc dựng hai cây tre, một con dao, hoàn toàn không có thức ăn.

Một ngày trôi qua, bụng đói mà không có cơm ăn, chỉ có chum nước, ông nghĩ có nước uống tất phải có cái ăn. Quay ra ngắm bức tượng, tò mò xem thử xem nó làm bằng gì, ông lấy móng tay cậy vào lưng Phật thì thấy bật ra một mảng con, lấy tay bóp vụn ra được như bột.

Ông đưa lên miệng nhấm thử thì thấy ngọt, hóa ra tượng làm từ bột bánh khảo (có tài liệu nói rằng tượng nặn bằng bột chè lam). Từ đó ngày hai bữa, ông cứ bẻ dần tượng Phật mà ăn.

Ngồi không buồn quá, Trần Quốc Khái bèn chẻ tre, vót nan, quan sát kỹ cách làm lọng và nhập tâm các chi tiết. Khi đã biết cách làm lọng rồi, ông lại hạ bức trướng xuống, tháo các đường chỉ kim tuyến xem cách thêu, rồi lại dùng chỉ đó thêu vào. Lúc hoàn tất, ông ngắm nghía thấy nét chữ thêu giống hệt như cũ.

Lê công hành thờ ở đâu
Một nghệ nhân thêu cờ phướn. Nguồn: Mystown.com

Ăn hết pho tượng và uống gần hết chum nước, Trần Quốc Khái tìm cách xuống. Buổi chiều ngồi ngắm trời mây, thấy những con dơi xòe cánh chao đi chao lại như chiếc lá, ông nghĩ đến hai cái lọng cắm trên lầu, rồi ôm lọng nhảy xuống đất bình an vô sự.

Trước tài trí ứng xử linh hoạt của sứ thần Đại Việt, triều đình nhà Minh vô cùng kính phục, bày tiệc lớn tiễn đưa đoàn sứ về nước.

Bằng sự tài trí và ứng xử ngoại giao không ngoan, sau khi về nước, Trần Quốc Khái được phong tước, thăng lên chức Công bộ thượng thư thái bảo, được đổi họ Lê nên mới có tên khác nữa là Lê Công Hành.

Truyền nghề cho dân

Ít lâu sau, Lê Công Hành đem nghề thêu dạy cho dân làng Quất Động rồi sau đó phát triển rộng ra các tỉnh khác, sang cả Bắc Ninh, Hưng Yên.

Bên cạnh đó, ông cũng dạy lại cách làm lọng cho người dân. Để ghi nhớ công ơn ông, sau khi Lê Công Hành mất (năm 1661), nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và tôn ông là ông tổ nghề thêu.

Một số tài liệu cho rằng trước khi Lê Công hành truyền dạy nghề thêu và làm lọng cho dân chúng, những nghề này đã tồn tại ở nước ta. Tuy nhiên, nó phát triển nhỏ lẻ, kỹ thuật khá đơn sơ, quanh quẩn với vài màu chỉ và chủ yếu phục vụ cho vua quan.

Sử sách cũ còn ghi lại ở đời Trần, vua quan ta đã dùng đồ thêu và lọng. Năm 1289, trước năm đi sứ của Lê Công Hành khoảng hơn 350 năm, vua Trần đã gửi tặng vua Nguyễn một đệm vóc đỏ thêu chỉ vàng, một tấm thảm gấm viền nhiễu (theo Từ Minh Thiện viết trong tập Thiên nam hành ký).