Liên nhân là gì
hội. Ngƣợc lại, có tác giả xem quan hệ liên nhân cách là mức độ cao nhất so với các mối quan hệ khác. Ở trƣờng hợp khác, xem nó nhƣ là sự phản ánh các mối quan hệ trong ý thức. Cuối cùng chúng ta thấy rằng, (dựa vào ý kiến của đa số các nhà nghiên cứu tâm lí) để đi đến kết luận, bản chất của mối quan hệ liên nhân cách - đó là loại quan hệ đặc biệt nó không xuất hiện bên ngoài, bên cạnh, bên trên hay bên dƣới v.v… của mối quan hệ xã hội mà nó đƣợc xuất hiện bên trong bất cứ dạng quan hệ xã hội nào. Có thể trình bày một cách đơn giản nhƣ sau: mối quan hệ liên nhân cách nhƣ là tiết diện phẳng của hệ thống các mối quan hệ xã hội. Những quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội v.v… rất đa dạng và phong phú đều phát hiện thấy trong tiết diện phẳng này các mối quan hệ liên nhân cách. Hiểu nhƣ vậy mọi cái trở nên rõ ràng, dễ hiểu hơn để từ đó có thể giải thích vì sao quan hệ liên nhân cách dƣờng nhƣ tác động trực tiếp lên nhân cách một cách rộng rãi, mang tính xã hội toàn diện. Xét cho đến cùng, quan hệ liên nhân cách đƣợc qui định bởi quan hệ xã hội mang tính khách quan. Mối quan hệ liên nhân cách tồn tại bên trong các mối quan hệ xã hội rất đa dạng. Mối quan hệ liên nhân cách dƣờng nhƣ thực hiện các mối quan hệ không bản sắc trong các hoạt động cụ thể của con ngƣời, trong các cử chỉ, trong giao tiếp, trong sự tác động lẫn nhau. Cùng lúc, trong quá trình thực hiện các mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời (trong đó có quan hệ xã hội), mối quan hệ liên nhân cách một lần nữa lại xảy ra. Có thể nói bằng cách khác, có những khoảnh khắc (ý chí đƣợc ý thức và do những mục đích đặc biệt của cá nhân) xuất hiện trong tế bào khách quan của các mối quan hệ xã hội. Chính tại đây, mối quan hệ xã hội và mối quan hệ liên nhân cách va chạm nhau một cách trực tiếp. Vì vậy, trong tâm lí học xã hội, vấn đề này đƣợc đƣa ra có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. 1.2.2- Kiểu quan hệ liên nhân cách Giới thiệu cấu trúc các mối quan hệ tạo ra một kết quả quan trọng đối với tâm lí học xã hội. Đối với mỗi một ngƣời, khi tham gia các mối quan hệ liên nhân cách, các mối quan hệ này có thể biểu hiện mang tính thống nhất. Trong thực tế, bất kể đó là mối quan hệ nào thực ra suy cho đến cùng, dạng quan hệ xã hội này hay khác đều có nội dung của các quan hệ liên nhân cách. Nghĩa là hoạt động xã hội đã đƣợc xác định, nhƣng nội dung, đặc biệt là bản chất của chúng còn nhiều bí ẩn. Bình thƣờng con ngƣời 22 không chú ý tới quá trình quan hệ liên nhân cách mà chỉ chú ý quá trình vận hành quan hệ xã hội, trong đó mọi ngƣời trao đổi ý tƣởng cho nhau và ý thức đƣợc mối quan hệ này. Sự ý thức này không xảy ra thƣờng xuyên tới mức họ nghĩ rằng họ đang tham gia vào mối quan hệ liên nhân cách. Vào những thời điểm riêng biệt của mối quan hệ xã hội, những con ngƣời đang vận hành quan hệ xã hội lại thể hiện mình nhƣ là chủ thể các mối quan hệ liên nhân cách và quan hệ lẫn nhau: ai đƣợc tri giác nhƣ là con rắn độc của chủ nghĩa tƣ bản, ai đƣợc tri giác nhƣ một nhà buôn khôn lỏi v.v… Đối với lĩnh vực tâm lí học xã hội vẫn chƣa có sự phân tích về mặt lí luận một cách chuyên sâu và vấn đề chính ở chỗ đó. Chính vì vậy, động cơ của hành vi thƣờng chỉ đƣợc giải thích bề mặt bằng bức tranh mối quan hệ, chứ không giải thích bên trong. Tất cả trở nên phức tạp hơn khi mối quan hệ liên nhân cách chính là thực tiễn của các mối quan hệ xã hội. Mác đã viết rằng, chính mối quan hệ mang bản sắc cá nhân của cá thể giữa ngƣời với ngƣời, mối quan hệ lẫn nhau của họ với tƣ cách là một cá thể đã hàng ngày tạo và xây dựng nên mối quan hệ cơ bản. Trong thực tế, mọi ngƣời gia nhập vào tất cả các nhóm hoạt động với hai tƣ cách: nhƣ là những ngƣời thực hiện vai xã hội không bản sắc và với tƣ cách là một nhân cách mang bản sắc cá nhân và đơn nhất. Điều này là cơ sở để đƣa "khái niệm vai liên nhân cách" nhƣ là sự ghi nhận vị thế của con ngƣời trong hệ thống của các mối liên kết nhóm, không phải trên cơ sở vị trí khách quan của nhân cách mà dựa vào vị trí đƣợc xuất hiện một cách đặc biệt, trên cơ sở những đặc điểm tâm lí của nhân cách. Ví dụ có những vai liên nhân cách rõ nhƣ ban ngày trong cuộc sống thƣờng ngày đƣợc một số ngƣời trong nhóm nói rằng, đó là "anh chàng ruột để ngoài da", loại "bất chấp tất cả để đạt đƣợc danh vọng" v.v… Việc phát hiện các nét của nhân cách trong kiểu thực hiện vai xã hội sẽ tạo ra các phản ứng trả lời của các thành viên khác trong nhóm. Tóm lại, trong nhóm xuất hiện sự thống nhất của mối quan hệ liên nhân cách. Theo tâm lí học mác xít, bản chất của mối quan hệ liên nhân cách về cơ bản khác hẳn mối quan hệ xã hội: nét quan trọng mang tính đặc thù của nó đó là nền tảng cảm xúc. Chính vì vậy, mối quan hệ liên nhân cách có thể đƣợc xem nhƣ là một nhân tố tạo nên bầu không khí tâm lí của nhóm. Cơ sở cảm xúc của quan hệ liên nhân cách, nghĩa là các mối quan hệ này xuất hiện và hình thành dựa trên một số cảm xúc xác định, đƣợc nảy sinh ở con ngƣời khi có mối quan hệ lẫn nhau. Ngành tâm lí học Xô Viết đã 23 chia ra ba loại hay ba mức độ biểu hiện cảm xúc: xúc động, cảm động và tình cảm. Tuy nhiên, trong tâm lí học, các thuật ngữ trên không đƣợc sử dụng trong ý chặt chẽ của nó. Trong thực tế tập hợp các loại cảm xúc trên là vô hạn. Tuy nhiên, có thể phân ra thành hai nhóm lớn: - Nhóm thứ nhất: đó là những ngƣời gần gũi nhau, cảm xúc của họ đƣợc liên kết lại. Họ gia nhập một cách tự nguyện trong từng trƣờng hợp của mối quan hệ. Trong mối quan hệ với ngƣời khác, họ luôn sẩn sàng hợp tác, cùng tham gia hoạt động.... - Nhóm thứ hai: cảm xúc của họ phân tán khắp nơi, họ là ngƣời không thể chấp nhận đƣợc, là con ngƣời khó chịu trong quan hệ với ngƣời khác. Họ không hề mong muốn hợp tác... và cƣờng độ các cảm xúc của họ sẽ khác nhau. Mức độ cụ thể của sự phát triển cảm xúc không thể nào là vô hạn đối với hoạt động của nhóm. Việc mô tả, phân tích các mối quan hệ liên nhân cách không thể đƣợc coi là đầy đủ đối với đặc tính của nhóm: trên thực tế, các mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời không chỉ đƣợc hình thành trên cơ sở tiếp xúc cảm xúc một cách trực tiếp, bản thân hoạt động đã qui định một loạt các quan hệ khác, đƣợc hình thành gián tiếp thông qua nó. Các nhà tâm lí học Phƣơng Tây có cách tiếp cận khái niệm quan hệ liên nhân cách khác với các nhà tâm lí học Xô Viết trƣớc đây. Cũng nhƣ các nhà tâm lí học Xô Viết họ đồng quan điểm cho rằng quan hệ liên nhân cách nằm trong quan hệ xã hội. Tuy nhiên trong quá trình thể hiện vai của mình, các chủ thể bao giờ cũng mang trong mình cá tình mang tính đơn nhất, không lặp lại ở ngƣời thứ hai. Chính vì vậy cho dù ở vai nào, vị trí và chức năng nào. Ở họ vẫn nổi trội kiểu quan hệ liên nhân cách rất đặc trƣng cho chính họ, vì vậy khi ở các nhóm khác nhau với các vị trí chức năng khác nhau nhƣng những nhận xét về con ngƣời cụ thể đó của những ngƣời khác nhau sẽ trùng khớp nhau. - Mỗi con ngƣời là một cá tính với những đặc điểm tâm lí khác nhau, có các kiểu quan hệ liên nhân cách khác nhau đƣợc hình thành do các quá trình xã hội hóa khác nhau, trên cơ sở đó họ sẽ hình thành cái tôi rất khác nhau trong nhóm. Chính những yếu tố này xác định những ấn tƣợng chung về con ngƣời trong quá trình tri giác liên nhân cách. Trong vô số các tập hợp quan trong khi phân tích kiểu hành vi của các hành vi liên nhân cách trong nhóm các nhà tâm lí học đã có thể phân chia các kiểu quan hệ liên nhân cách trội hơn khi có sự tác động lẫn nhau trong nhóm. Chính 24 kiểu quan hệ liên nhân cách này làm cho các cá nhân khác nhau khi giữ các vai khác nhau đều mang trong mình bản sắc riêng làm cho quan hệ xã hội không bản sắc đã đƣợc phủ lên lớp sơn cá tính của cá nhân. Khi nghiên cứu các mối quan hệ liên nhân cách, các tác giả khác nhau sẽ có cách phân các kiểu quan hệ liên nhân cách sau: - Khống chế - bị lệ thuộc. - Hữu nghị - gây hấn. - Dễ gần - xa cách - Tiếp nhận sự đấu tranh - lảng tránh sự đấu tranh. Theo Liri nhà tâm lí học xã hội ngƣời Mỹ đã chia các kiểu quan hệ liên nhân cách với các đặc tính nhƣ sau: Kiểu quyền uy: Tính cách của xƣớng ngôn viên, ngƣời hống hách chuyên quyền (chuyên chế), kiểu nhân cách mạnh mẽ, thích đứng đầu trong các hoạt động nhóm, khuyên bảo (dạy bảo) tất cả, giáo huấn (huấn thị) tất cả, khao khát tất cả phải dựa vào ý kiến của mình. Không biết tiếp nhận lời khuyên của ngƣời khác. Mọi ngƣời xung quanh ghi nhận quyền lực này nhƣng không thừa nhận nó. - Ích kỷ: Mong muốn ở trên mọi ngƣời, mình luôn là nhất trong khi đó muốn tách ra khỏi mọi ngƣời xung quanh, tự phụ say mê chính mình, là ngƣời chi li, ngƣời không phụ thuốc, ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình. Chuyển những khó khăn sang những ngƣời xung quanh, bản thân tỏ thái độ với khó khăn một cách ghẻ lạnh, là ngƣời tự kiêu, hài lòng với bản thân, tính hay khoe khoang. - Gây hấn: Khắc nghiệt, tàn nhẫn, có tính thù địch trong mối quan hệ với những ngƣời xung quanh, tàn nhẫn, gay gắt, cục cằn, thô bạo, tính công kích, có thể dẫn đến hành vi chống xã hội. Nếu điểm thấp hơn, là ngƣời yêu cầu cao, thẳng tính, cởi mở, nghiêm khắc, mạnh mẽ, chặt chẽ khắt khe trong việc đánh giá những ngƣời xung quanh. Là ngƣời không khoan nhƣợng, có khuynh hƣớng kết tội tất cả. Là ngƣời hay giễu cợt, mỉa mai, là ngƣời dễ tức giận. 25 - Đa nghi: Lạnh nhạt (xa cách) trong mối quan hệ với thế giới (hung dữ) tàn ác và nhiều kẻ thù. Là ngƣời đa nghi, hay giận, dễ bị mếch lòng có khuynh hƣơng nghi ngờ tất cả hay thù oán, hay để bụng, thƣờng xuyên phàn nàn mọi điều. Nếu điểm thấp, là ngƣời hay phê bình, thể nghiệm những khó khăn.Vì tính đa nghi và sợ hãi các mối quan hệ xấu, là ngƣời khép kín, hoài nghi, tuyệt vọng chán mọi ngƣời, là ngƣời kín đáo, tính tiêu cực thể hiện trong tính gây hấn bằng lời (thù địch bằng lời). - Lệ thuộc: Ngoan ngoãn, dễ bảo, có khuynh hƣớng lệ thuộc, nhu nhƣợc, có khuynh hƣớng nhƣờng nhịn mọi ngƣời tất cả. Thƣờng xuyên đặt mình vào vị trí cuối cùng, lên án bản thân, gán lỗi cho mình, là ngƣời thụ động, có khuynh hƣớng tìm điểm tựa ở những ngƣời mạnh hơn. Nếu điểm số thấp là ngƣời nhã nhặn, rụt rè, nhút nhát, hay nhƣợng bộ, thận trọng, ngƣời cảm xúc. Có khả năng bị chinh phục, không có ý kiến riêng của mình, nghe lời và thực hiện trácch nhiệm một cách nghiêm túc. - Phụ thuộc: Không tin vào bản thân, ám ảnh sự sợ hãi và nguy hiểm, lo lắng do bất cứ nguyên nhân nào. Chính vì vậy mà phụ thuộc vào nsƣời khác, phụ thuộc vào ý kiến của ngƣời khác. Loại ngƣời ngoan, dễ bảo, nhút nhát, bất lực yếu đuối, không biết biểu hiện sự phản kháng, thƣờng chân thành cho rằng tất cả mọi ngƣời đều đúng. Điểm thấp, là ngƣời dịu dàng, chờ đợi sự giúp đỡ và lời khuyên, cả tin, có khuynh hƣớng khâm phục những ngƣời xung quanh, lịch thiệp. - Hòa thuận: Lịch thiệp với tất cả. Định hƣớng vào việc tiếp nhận và khen ngợi xã hội. Mong muốn thỏa mãn yêu cầu của ngƣời khác "trở thành ngƣời tốt" với tất cả mọi ngƣời không tính tới hoàn cảnh, thƣờng hƣớng tới mục đích của nhóm nhỏ. Biết phát triển cơ chế lấn át, là ngƣời cảm xúc. Điểm thấp, có khuynh hƣớng đoàn kết, có sự hợp tác, mềm dẻo, biết thỏa hiệp khi giải quyết vấn đề và trong hoàn cảnh xung đột, có khuynh hƣớng đồng ý với ý kiến của những ngƣời xung quanh, ý thức, dẫn tới tính ƣớc lệ, tính nguyên tác, tính nội qui "là ngƣời tốt giọng" trong mối quan hệ với ngƣời khác. Là ngƣời chủ động, sáng kiến, nhiệt tình đạt đƣợc mục đích của nhóm, mong muốn giúp đỡ, cảm thấy mình là trung tâm của 26 sự chú ý, đáng đƣợc yêu và đƣợc thừa nhận, ngƣời cởi mở, là ngƣời đầm ấm và hữu nghị trong các mối quan hệ. - Vị tha: thƣờng xuyên hy sinh những hứng thú của mình mong muốn giúp đỡ tất cả ngƣời khác, thƣơng xót tất cả, thông cảm với tất cả. Hay bị ám ảnh bởi sự giúp đỡ của mình và tích cực quá đáng trong các mối quan hệ với ngƣời xung quanh. Vì ngƣời khác mà nhận trách nhiệm về mình một cách không thích hợp, là loại nhân cách kín đáo, là loại ngƣời mâu thuẫn. Điểm thấp, là ngƣời trách nhiệm trong mối quan hệ với những ngƣời xung quanh, dịu dàng, hiền lành, nhân hậu, lịch sự. Có mối quan hệ cảm xúc với mọi ngƣời biểu hiện ở sự thƣơng xót, cảm tình, chăm sóc, an ủi, vuốt ve... 1.3- Vấn đề về bầu không khí tâm lý Đã từ lâu các nhà tâm lý học xã hội đã chú ý nghiên cứu vấn đề về nhóm nhỏ, các đặc thù thuộc nhóm, những công trình nghiên cứu và trong thực tế cuộc sống đã có nhắc tới bầu không khí tâm lý. Bản thân khái niệm bầu không khí tâm lý tâm lý thực sự chƣa đƣợc nghiên cứu đầy đủ và khoa học. Chính vì vậy sau nhiều năm khái niệm này có rất nhiều ý nghĩa khác nhau. Các nhà tâm lý học và mọi ngƣời thƣờng sử dung thuật ngữ này với nội hàm của chúng cũng rất khác nhau. Từ những năm 20-30 của thế kỷ XX Macarencô đa nghiên cứu mối quan hệ, kiểu và vai trò của tập thể. Ông nghiên cứu các thành viên họ khi đang sống trong tập thể sẽ phụ thuộc nhau nhƣ thế nào? Mỗi một nhân cách riêng lẻ cần phải phối hợp những mong muốn của riêng mình với mong muốn của những ngƣời khác. Thứ nhất: vì tập thể có tính thống nhất, những mong muốn đầu tiên của tập thể của những ngƣời trong nhóm cần phải đƣợc phối hợp, để các mục đích riêng lẻ trở thành các mong nuốn đƣợc chia sẻ trong mối quan hệ với mục đích chung của nhóm. Các mục đích chung của nhóm cần phải đƣợc xác định thành các mục đích riêng. Vì vậy những dấu hiệu chung, đặc trƣng cho tập thể, đó là: - Sự hài hòa mối quan hệ và mục đích các nhân và mục đích tập thể. - Các quan hệ phụ thuộc nhau một cách có trách nhiệm, giữa các thành viên trong nhóm khi họ tham gia vào các công việc. 27 - Sẵn sàng hành động mang lại lợi ích và hứng thú với tâm trạng phấn khích và sảng khoái. - Tâm trạng đặc biệt của nhân cách trong tƣ tƣởng, tinh thần vững vàng (khỏe mạnh), có khả năng tự thực hiện các công việc. - Khả năng bảo vệ che chở cho nhóm. - Khả năng ức chế về hành vi tâm lý và hành vi tay chân. - Tin tƣởng vào tƣơng lai. Khi Macarencô đƣa ra những tiêu chuẩn của tập thể, ông mong muốn dựa vào đó để xác định kiểu làm việc của các nhân cách trong tập thể, và thực tế cho phép biết đƣợc những đặc trƣng của tập thể bằng những đặc điểm tâm lý xã hội, những đặc điểm tâm lý xã hội này sẽ hình thành bầu không khí tâm lý của nhân cách. Các quan điểm về lý thuyết của Macarenô đƣợc ông phát triển chủ yếu nghiên cứu tập thể học sinh. Vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XX có làn sóng nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm của bầu không khí tâm lý xã hội, mặc dù thuật ngữ này chƣa tìm ra. Ví dụ: E.B. Xopoxoba, U.C. Maixurov, K.K. Palatonov đã từng nghiên cứu nội hàm bầu không khí tâm lý. Đối với triết học Mác-xít U.C. Maixurov là ngƣời đầu tiên đã đƣa ra thuật ngữ bầu không khí tâm lý. Ông đã chú ý tới hiệu quả của công việc phụ thuộc vào bầu không khí tâm lý. Ngƣời tiếp theo nghiên cứu khái niệm bầu không khí tâm lý là B.M.Sepel. Theo ông bầu không khí tâm lý là lớp sơn cảm xúc của các mối liên kết tâm lý của con ngƣời trong tập thể, nó xuất hiện dựa trên cơ sở gần gũi nhau, thiện cảm, sự giống nhau về tính cách, sở thích, ham mê. Theo ông bầu không khí sản xuất của các mối quan hệ ngƣời với ngƣời đƣợc hình thành từ ba loại bầu không khí. Bầu không khí thứ nhất: bầu không khí xã hội đƣợc biểu hiện trong việc ý thức, những mục đích công việc, bảo đảm sự tuân thủ các quyền lợi và nghĩa vụ của ngƣời công dân. Bầu không khí thứ hai: đó là bầu không khí đạo đức, nó xác định đƣợc các định hƣớng đạo đức trong tập thể và đƣợc mỗi thành viên chấp nhận. Bầu không khí thứ ba: bầu không khí tâm lý đó là bầu không khí không chính thức đƣợc hình thành các thành viên trong nhóm khi họ tiếp xúc với nhau. Đó là môi trƣờng 28 |