Phương pháp nghiên cứu định lượng sơ bộ
Khi nhắc đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vẫn là một khái niệm chưa được nghiên cứu rộng rãi tại Việt Nam đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu khi nghiên cứu về vấn đề này đã tìm được khe hổng nghiên cứu đấy là mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (được trình bày trong chương 1 mục 1.1.2). Như vậy việc tìm được mối quan hệ này thật sự là một đóng góp hữu ích cho lý thuyết nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và cả trong thực tiễn của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ở thị trường Đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam. Quá trình nghiên cứu được thiết lập theo ba bước chính: Show
o Nghiên cứu chính thức – Nghiên cứu định lượng Chương trình được thiết lập cho các đối tượng nghiên cứu đó là doanh nghiệp hoạt động ở Đồng bằng sông Cửu Long (cụ thể là các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang). Quy trình nghiên cứu được trình bày theo như hình vẽ bên dưới đây (hình 3.1.) và được giải thích cụ thể theo các bước sau: Bước 1: Thiết lập mô hình nghiên cứu và thiết kế bảng câu hỏi nghiên cứuĐể thiết lập được mô hình nghiên cứu, trước tiên nghiên cứu tiến hành lược khảo tài liệu nghiên cứu thông qua các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam. Sau đó xác định được vấn đề nghiên cứu và khe hổng nghiên cứu. Từ đó nghiên cứu tiến hành xác định mô hình nghiên cứu. Mô hình nghiên cứu bao gồm các khái niệm được đo lường khi nghiên cứu mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội của nghiên cứu và hiệu quả hoạt động của nghiên cứu. Sau khi thiết lập được mô hình nghiên cứu, nghiên cứu tiến hành nghiên cứu định tính bằng cách phỏng vấn các chuyên gia để xác định được các khái niệm và bộ thang đo đo lường các khái niệm ở thị trường Việt Nam (xem phụ lục 1). Sau khi đã có bộ thang đo lý thuyết, nghiên cứu tiến hành nghiên cứu sơ bộ để xác định lại thang đo của các khái niệm ở thị trường Đồng bằng sông Cửu Long thông qua phân tích cronbach alpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA) (xem phụ lục 4). Bước một được kết thúc với kết quả là bảng câu hỏi để tiến hành nghiên cứu sơ bộ. Bước 2: Nghiên cứu sơ bộTrong bước nghiên cứu sơ bộ cần thực hiện những hoạt động sau:
Như vậy, mục đích chính của bước này là điều tra sơ bộ một số các quan sát với một mẫu không lớn nhằm đánh giá độ tin cậy và giá trị của thang đo trước khi tiến hành kiểm định lý thuyết khoa học của mô hình nghiên cứu (Nguyễn Đình Thọ, 2011). Qua đó, việc đánh giá độ tin cậy của các thang đo để có thể loại một số biến đo lường với tương quan biến tổng thấp (< 0,3) và hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo > 0,6 là thang đo có thể chấp nhận được về độ tin cậy (Nunnally và Bernstein, 1994). Trên cơ sở đó, dùng phân tích nhân tố khám phá (EFA – Exploratory factor analysis) để xác định giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của thang đo. Những biến với độ tải nhân tố thấp (< 0,4) sẽ bị loại (Nguyễn Đình Thọ, 2011). Sau phân tích EFA, sẽ thực hiện tính lại hệ số Cronbach’s Alpha cho từng khái niệm của mô hình lý thuyết để kiểm định lại một lần nữa độ tin cậy của các thang đo sau khi một số biến nào đó đã được loại khỏi thang đo từ kết quả của phân tích EFA. Cuối cùng những thang đo sau khi đã được kiểm định lại sẽ được đưa vào bảng câu hỏi nghiên cứu chính thức ở bước kế tiếp. Bước 3: Nghiên cứu chính thứcNghiên cứu chính thức được thực hiện dựa trên bảng câu hỏi chính thức sau khi đã thực hiện ở bước 2, nghiên cứu được điều tra các doanh nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long cụ thể là ba tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long và Kiên Giang với số lượng doanh nghiệp là 392. Như vậy, các khái niệm nghiên cứu được đánh giá dựa trên cở mẫu là 392 quan sát. Hai nội dung chính được thực hiện trong bước nghiên cứu chính thức này: (1) phân tích nhân tố khẳng định (CFA- confirmatory factor analysis) và (2) mô hình nghiên cứu được kiểm định bằng phân tích mô hình hóa cấu trúc tuyến tính (SEM – Structural Equation Modeling). Phân tích CFA được thực hiện với mục đích kiểm định sự phù hợp của thang đo: độ tin cậy tổng hợp, phương sai trích, tính đơn hướng, hội tụ và phân biệt. Khi phân tích CFA đạt kết quả tốt, bước tiếp theo là kiểm định những giả thuyết được đề nghị trong mô hình lý thuyết bằng SEM
>> Xem thêm: Làm thế nào để lựa chọn được phương pháp nghiên cứu phù hợp? 1. Nghiên cứu Định lượng (Quantitative research)Tiếp cận định lượng xem xét hiện tượng theo cách có thể đo lường được trên các đối tượng nghiên cứu. Nói chung, nghiên cứu định lượng thường được áp dụng đối với các hiện tượng có thể được diễn tả/quy đổi bằng số. Nghiên cứu định lượng thường được gắn liền với việc kiểm định (lý thuyết) dựa vào phương pháp suy diễn. Nói cách khác, nghiên cứu định lượng là nghiên cứu sử dụng các phương pháp khác nhau để lượng hóa, đo lường và phản ánh và diễn giải các mối quan hệ giữa các nhân tố (các biến) với nhau. Trong khoa học xã hội, nghiên cứu định lượng được sử dụng rộng rãi trong tâm lý học, kinh tế học, xã hội học, tiếp thị, y tế, …
Ví dụ: Khi hỏi mức độ hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ, các câu trả lời nhận được là định tính như “Rất không hài lòng”, “Tương đối hài lòng”, “Rất hài lòng”, … Người nghiên cứu cần lượng hóa các dữ liệu định tính này dưới dạng số như 1 (tương ứng Rất không hài lòng) đến 5 (tương ứng với Rất hài lòng) để thực hiện các nghiên cứu định lượng.
Các phương pháp thu thập dữ liệu có thể là cân, đo, sử dụng bảng câu hỏi có cấu trúc để khảo sát/phỏng vấn, quan sát và ghi chép dữ liệu, tập hợp lại dữ liệu định lượng trong quá khứ. 2. Nghiên cứu định tính (Qualitative research)Nghiên cứu định tính là hướng tiếp cận nhằm thăm dò, mô tả và giải thích dựa vào các phương tiện khảo sát kinh nghiệm, nhận thức, động cơ thúc đẩy, dự định, hành vi, thái độ. Chúng có thể hướng chúng ta đến việc xây dựng giả thuyết và các giải thích. Phương pháp nghiên cứu định tính phù hợp để trả lời cho các câu hỏi “Thế nào” (How), “Tại sao” (Why) hoặc “Cái gì” (What).
Trong nghiên cứu định tính, dữ liệu được sử dụng có thể là dữ liệu định tính hoặc dữ liệu định lượng (đã được giải thích ở phần trên). Trong đó, dữ liệu định tính thường ở dạng chữ, phản ánh tính chất, đặc điểm hay sự hơn kém và ta không tính được trị trung bình của dữ liệu dạng định tính. Một số ví dụ về dữ liệu định tính: giới tính: nam hay nữ; kết quả học tập của sinh viên: giỏi, khá, trung bình, yếu… Cần lưu ý rằng để phục vụ mục đích thống kê, mô tả trong nghiên cứu định tính thì việc mã hóa dữ liệu định tính thành dạng số (lượng hóa) có thể được thực hiện hoàn toàn tương tự như khi sử dụng nghiên cứu định lượng. Điểm khác biệt duy nhất là khi sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, người nghiên cứu không thực hiện các mô hình kinh tế lượng, mô hình toán với những dữ liệu đã được lượng hóa đó.
Ngoài các phương pháp dùng để thu thập hoàn toàn tương tự đối với nghiên cứu định lượng, các phương pháp thu thập dữ liệu trong nghiên cứu định tính còn có thể sử dụng bao gồm: phỏng vấn ý kiến (chuyên gia), quan sát, ghi hình, ghi âm, gửi thư, nhật ký, … 3. Sự khác biệt giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng
Để lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp, người nghiên cứu cần chú ý đến một số yếu tố sau: (i) vấn đề nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu; (ii) kĩ năng và sở trường của nhà nghiên cứu và (iii) khả năng thu thập dữ liệu nghiên cứu. Mặc dù chúng ta hay nhấn mạnh nghiên cứu dạng định tính, hoặc định lượng, tuy nhiên trong thực tế các phương pháp định tính và định lượng hoàn toàn có thể phối hợp và sử dụng trong cùng một nghiên cứu. Trong khi phương pháp nghiên cứu định lượng có thể khái quát hóa kết quả từ mô hình, thì nghiên cứu định tính có thể giúp các kết luận đưa ra được thuyết phục hơn bởi ý kiến của chuyên gia hoặc tình hình thực tế liên quan đến đối tượng/chủ đề được nghiên cứu. Xem thêm loạt bài về các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu khoa học tại đây. Cộng đồng sinh viên kinh tế nghiên cứu khoa học (RCES) |