So sánh thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm

Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục xét xử của nước ta luôn tuân theo nguyên tắc 02 cấp xét xử là sở thẩm và phúc thẩm. Tuy nhiên, phán quyết sơ thẩm hay phán quyết phúc thẩm sau khi sau khi có hiệu lực pháp luật cũng có thể bị xem xét lại bởi các thủ tục đặc biệt [không phải cấp xét xử] là “Giám đốc thẩm” và “Tái thẩm”. Măc dù, khái niệm “Giám đốc thẩm” và “Tái thẩm” trong quá trình tố tụng có lẽ không còn mới lạ, đặc biệt là trong tố tụng dân sự. Thế nhưng hiện nay có rất nhiều người không thể phân biệt rõ hai thủ tục đặc biệt này. Theo đó, “Giám đốc thẩm” và “Tái thẩm” theo pháp luật tố tụng dân sự khác nhau cơ bản như thế nào?

SỰ KHÁC NHAU GIỮA THỦ TỤC TÁI THẨM GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định, thủ tục “Giám đốc thẩm” và “Tái thẩm”  trong tố tụng dân sự đều là thủ tục tố tụng đặc biệt, nhằm xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hai thủ tục này mang tính xét lại chứ không trực tiếp xét xử, không trực tiếp giải quyết vụ án.

Theo đó, “Giám đốc thẩm” là xét lại bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có sai sót nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng.

Tái thẩm” là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.

Như vậy, “Giám đốc thẩm” và “Tái thẩm” đều là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật với cơ quan có thẩm quyền xét xử là tương đương nhau. Còn khác nhau cơ bản như sau:

1. Căn cứ, điều kiện để kháng nghị

– Giám đốc thẩm đó là có sự sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án cụ thể tại Điều 326 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

– Còn Tái thẩm là phát hiện có tình tiết mới mà trước đó cả Tòa án và đương sự đều không biết theo căn cứ tại Điều 352 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

2. Thời gian kháng nghị

– Giám đốc thẩm: Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trừ trường hợp: đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định trên nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:

– Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;

– Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.

– Tái thẩm: Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Bộ luật này.

3. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử

– Giám đốc thẩm: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm bao gồm: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án; Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

– Còn đối với Tái thẩm: Hội đồng xét xử có thẩm quyền sau: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Bộ luật này quy định. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.

Như vậy, để phân biệt đúng các thủ tục xét xử trong tố tụng dân sự cũng như để đảm bảo quyền và lợi ích của mình, bạn hãy lưu ý những điểm khác biệt cơ bản trên mà chúng tôi đã phân tích ở trên.

Trường hợp Quý Khách hàng có nhu cầu cần tư vấn; hỗ trợ soạn thảo văn bản; đại diện để thu thập chứng cứ và làm việc với các cơ quan có thẩm quyền để kháng nghị, kháng cáo theo thủ tục Giám đốc thẩmTái thẩm trong các vụ việc liên quan. Bao gồm cả các vấn đề Thi hành án trong quá trình Giám đốc thẩmTái thẩm. Hãy liên hệ với Luật An Phú để được hỗ trợ.

Thông tin liên hệ:

CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ AN PHÚ

Địa chỉ         : Lầu 9, 163 Hai Bà Trưng, Phường 6, Quận 3, Tp.HCM

Hotline         : 028 6656 1770

Email          :

>>Xem thêm:

4 Phương Thức Giải Quyết Tranh Chấp Trong Kinh Doanh Thương Mại

Tranh Chấp Lao Động Là Gì? Nguyên Tắc Giải Quyết Tranh Chấp Ra Sao

Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Và Các Thủ Tục Cần Thiết

Mục lục bài viết

  • 1. Tái thẩm là gì?
  • 2.Giám đốc thẩm là gì?
  • 3. Điểm giống nhau giữa tái thẩm và giám đốc thẩm
  • 4. Điểm khác nhau giữa tái thẩm và giám đốc thẩm
  • 5. Nhận xét về quy định giám đốc thẩm và tái thẩm trong BLTTHS 2015so với BLTTHS 2003

1. Tái thẩm là gì?

Tái thẩm làxét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.

2.Giám đốc thẩm là gì?

Giám đốc thẩm làxét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.

Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ:

- Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;

- Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

3. Điểm giống nhau giữa tái thẩm và giám đốc thẩm

Đối tượng là những bản án quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế buộc các chủ thể có liên quan phải tuân thủ chấp hành. Và khi phát hiện có sai sót thì bị kháng nghị bởi cơ quan có thẩm quyền.

Hậu quả pháp lý:Khi một bản án hoặc quyết định của Tòa án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bởi các chủ thể có thẩm quyền thì bản án, quyết định đó không có giá trị pháp lý đối với các đương sự trong vụ án, các chủ thể có liên quan. Bản án, quyết định cũ của Tòa án trước đó sẽ bị hủy, các đương sự các chủ thể trong vụ án sẽ tuân theo quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm khi bản án được xét lại

Hiệu lực:Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ có hiệu lực ngay khi Hội Đồng giám đốc thẩm, tái thẩm ra quyết định

4. Điểm khác nhau giữa tái thẩm và giám đốc thẩm

Về tính chất:

+ Thủ tục giám đốc thẩm: bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, sự sai sót này có thể xảy ra ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào

+ Thủ tục tái thẩm: là thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị khi phát hiện những tình tiết mới, những tình tiết mới này làm thay đổi nội dung cơ bản của bản án, quyết định của Tòa án.

Về căn cứ kháng nghị:

+ Giám đốc thẩm: Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây. [Căn cứ theo Điều 326 BLTT DS 2015]

- Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;

- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;

- Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.

Về lý luận, sự khác biệt về tính chất của của các căn cứ kháng nghị là cơ sở chủ yếu cho việc thiết lập hai thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật tương ứng là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Thông thường, những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án có nguồn gốc từ chính sự nhận thức, đánh giá không đúng về sự việc hoặc pháp luật do sự ngộ nhận hoặc thiếu cẩn trọng của thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đối với chứng cứ, tài liệu của vụ việc hoặc đối với các quy định của pháp luật về nội dung, về tố tụng dân sự. Ngoài ra, sai lầm về sự việc của Tòa án có thể do yếu tố ngoại cảnh tác động [đương sự hoặc Tòa án không thể biết được] như thiếu những tình tiết, sự kiện cần thiết hoặc các tình tiết, sự kiện mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết vụ việc đã bị giả mạo, được kết luận không đúng [Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam].

+ Tái thẩm:Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây [Theo Điều 352 BLTT Dân sự 2015]:

1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;

2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;

3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;

4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.

Xét căn cứ thứ ba của kháng nghị tái thẩm có thể nhận thấy rằng trường hợp “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật” không được ghi nhận vào một trong các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm mà vẫn coi đây là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Bởi quy định này nhằm đảo bảo hơn quyền tiếp cận công lý của công dân trong tố tụng dân sự. Trường hợp sai lầm về sự việc của Tòa án do yếu tố ngoại cảnh tác động và trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân cố ý làm sai lệch hồ sơ hoặc cố ý kết luận không đúng mà đương sự đã không thể biết được thì quyền khiếu nại của các đương sự đã không thể biết được về các tình tiết mới, tình tiết bị giả mạo hoặc được kết luận không đúng cần phải xác định từ khi họ biết được về các tình tiết, sự kiện đó thay vì kể từ khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực.

Về thời hạn kháng nghị:

+ Giám đốc thẩm:

“1. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:

a] Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;

b] Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.”

+ Tái thẩm:01 năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm” [Điều 355 BLTTDS 2015].

5. Nhận xét về quy định giám đốc thẩm và tái thẩm trong BLTTHS 2015so với BLTTHS 2003

Giám đốc thẩm, tái thẩm là những thủ tục tố tụng hình sự quan trọng mà Tòa án có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền theo các căn cứ luật định nhằm khắc phục những sai lầm nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có quy định tương đối đầy đủ, phù hợp thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Các quy định đó là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm những năm qua. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về nâng cao hiệu lực, hiệu quả, tính dân chủ, công minh của hoạt động tư pháp; tôn trọng và bảo đảm quyền con người; bảo đảm tính ổn định của bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án, chông kháng nghị tràn lan... và qua thực tiễn những năm qua, thì thấy rằng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn còn những hạn chế, bất cập.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã kế thừa những điểm tích cực, phù hợp của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; đồng thời sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng hình sự nói chung, giám đốc thẩm, tái thẩm nói riêng.

Ví dụ như:

Khác với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không coi “việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ” là căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung các nội dung mới quy định trách nhiệm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu trong việc kiểm tra các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực, phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị với người có thẩm quyền xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hai điểm mới: [1] Bỏ thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu; [2] Bổ sung quy định thẩm quyền của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

Điều 398 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung và diễn đạt lại về mặt kỹ thuật các căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thể hiện chính xác hơn, có cơ sở và khả thi hơn bản chất của tái thẩm trong tố tụng hình sự; phân biệt rõ hơn sự khác nhau về căn cứ tái thẩm, thẩm quyền của Hội đồng xét xử tái thẩm.

Điều 399 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung nâng cao trách nhiệm của Tòa án, Viện kiểm sát và thủ tục trong thông báo về tình tiết mới cũng như thủ tục tố tụng tạo cơ sở pháp lý cho Viện kiểm sát trong xác minh tình tiết mới dùng làm căn cứ tái thẩm...

LUẬT MINH KHUÊ [Sưu tầm & Biên tập]

Video liên quan

Chủ Đề