Tại sao Herodote lại nói Ai Cập la tặng phẩm của sông Nile

I. Địa lí và dân cư Ai Cập cổ đại

1. Điều kiện tự nhiên

Ai Cập là vùng đồng bằng dài và hẹp, ở vùng đông bắc châu Phi, nằm dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực sông Nin. Sông Nin, bắt nguồn từ vùng xích đạo châu Phi, là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, dài 6497 km, với bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài khoảng 7000 km. Miền đất đai do sông Nin bồi đắp chỉ rộng khoảng 15 – 25 km, ở phía bắc có nơi rộng đến 50 km vì ở đây sông Nin chia làm nhiều nhánh trước khi đổ ra biển. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 11, nước sông Nin dâng cao đem theo một lượng phù sa rất phong phú, bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày càng thêm màu mỡ. Mặt khác, sông Nin cung cấp nguồn thực phẩm thuỷ sản dồi dào cho cư dân. Bên cạnh đó, con sông này là một trong những con đường giao thông quan trọng nhất của vùng này. Do đó, nền kinh tế ở đây sớm phát triển. Nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp đều phát triển từ rất sớm, tạo điều kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất thế giới. Chính vì vậy, nhà sử học Hêrôđôt đã nói rằng:” Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”.

Nhờ có đất đai màu mỡ, các loại hình thực vật như đại mạch, tiểu mạch, sen, cây papyrus... sinh sôi nảy nở quanh năm. Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, quần thể động vật đồng bằng và sa mạc rất phong phú và đa dạng, gồm có trâu bò, hươu cao cổ, tê giác, hà mã, cá sấu, voi, hổ, báo, chim và cả các loài thuỷ sản. Bên cạnh đó, Ai Cập còn có rất nhiều loại đá quý như đá vôi, đá badan, đá hoa cương, đá mã não...; kim loại thì có đồng, vàng, còn sắt thì phải đưa từ bên ngoài vào.

Về mặtđịa hình, Ai Cập là mộtđất nước tươngđối bịđóng kín, phía Bắc làĐịa Trung Hải, phíaĐông giáp biểnĐỏ, phía Tây giáp sa mạc Xahara, phía Nam giáp Nubi, nơi giápấy là một vùng núi hiểm trở khó qua lại, chỉ cóởĐông Bắc, vùng kênhđào Xuyê sau này, người Ai Cập mới có thể qua lại với vùng TâyÁ. Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nin từ Nam lên Bắc. Miền Thượng Ai Cậpở miền Nam là một dải lưu vực hẹp, miền Hạ Ai Cập nằmở nằmở miền Bắc là mộtđồng bằng hình tam giác. Hơn 90% đấtđai của Ai Cập là sa mạc. Phần lớn cư dân Ai cập sốngở châu thổ sông Nin. Khí hậu mùađông ôn hoà, mùa hạ nóng và khô. Vùng ven biển Alêchxanđơria có lượng mưa lớn nhất: 200mm. Vùng cạnh biểnĐỏ hầu như không có mưa. Nhiệtđộ trung bình tháng giêng ở miền bắc là 12độ, miền nam là 15– 16độ; tháng bảy từ 25– 26độ và 30– 34độ.

Ai Cập nằm ở một vị trí địa lý đặc biệt nên có vị trí địa – chính trị quan trọng. Ai Cập là nơi giao nhau của 3 châu lục: Á, Phi, Âu. Tại đây, 3 châu lục hoà nhập quanh một biển trung gian - Địa Trung Hải – nơi có thể nối liền hoặc chia cắt 3 đại dương: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương. Đó là vị trí thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu với các châu lục khác. Nhờ đó, các hoạt đông trao đổi thương mại, kinh tế, văn hoá... rất phát triển và luôn được cải thiện.

2. Con người

Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Arập, nhưng thời cổ đại, cư dân ở đây là người Libi, người da đen và có thể có cả người Xêmit di cư từ châu Á tới. Con người đã xuất hiện và sinh sống ở lưu vực sông Nin từ thời đồ đá cũ. Những tài liệukhoa học hiện đại đã xác minh rằng người Ai Cập thời cổ là những thổ dân châu Phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc. Những thổ dân này đi lại săn bắn trên lục địa, khi đến vùng đồng bằng sông Nin, họ định cư ở đây và theo nghề trồng trọt và chăn nuôi từ rất sớm. Về sau chỉ có một chi của bộ tộc Hamit từ Tây Á xâm nhập hạ lưu sông Nin, chinh phục thổ dân người châu Phi ở đây. Trải qua một quá trình hỗn hợp lâu dài, người Hamit và thổ dân ở đây đã đồng hoá với nhau, hình thành ra một bộ tộc mới, chính là người Ai Cập. Họ thuộc chủng tộc Môngôlôit và Nêgrôit. Người Ai Cập chỉ có một ngôn ngữ chính là tiếng Arập. Cấu trúc làng theo chiều dọc. Các thành viên trong xã hội không được bình đẳng. Thức ăn của họ là lúa mì, lúa mạch, đậu, trái cây : táo, quả hạnh, quả đấu là thức ăn phụ; thịt gia súc, thịt thú hoang : hươu, lợn, lừa rừng, các loại sữa, trứng và thuỷ sản. Người Ai Cập ưa phục tùng, thích ra lệnh. Họ cần cù chăm chỉ. Sống bên cạnh sa mạc và sông Nin nên họ có tính cách chịu đựng, kiên nhẫn, dũng cảm, liều lĩnh. Họ là những người tháo vát và lanh lợi.

Vai trò của sông Nin đối với Ai Cập

Sông Nile có vai trò vô cùng to lớn đối với Ai Cập, có thể tóm gọn vai trò của sông Nile đối với Ai cập bằng những đại ý dưới đây:

– Cung cấp nguồn nước quan trọng cho đời sống và sản xuất.

– Bồi đắp nên đồng bằng châu thổ màu mỡ.

– Huyết mạch giao thông chính nối tất cả các vùng của Ai Cập, cũng như nối Ai Cập với các nước láng giềng

-> Sinh ra nền văn minh sông Nin rực rỡ thời cổ đại.

Sông Nin còn được người Việt phiên âm là Nhĩ Lônhư trong sáchTây hành nhật kýcủaPhạm Phú Thứ.

Đề cương ôn tập lịch sử văn minh thế giới có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [102.35 KB, 16 trang ]

Đề cương ôn tập Lịch sử văn minh
thế giới có đáp án
Câu 1

Cơ sở hình thành và thành tựu cơ bản của văn minh Ai Cập

1. Cơ sở hình thành:

Ai Cập nằm ở Đông Bắc Châu Phi, hạ lưu sông Nin. Sông Nin là một con sông dài nhất thế giới,
khoảng 6500 km chảy từ Trung Phi lên Bắc Phi. Hàng năm, tới mùa mưa nước sông Nin cuồn
cuộn đỏ phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ở hạ lưu sông Nin. Đất đai màu mỡ, cây cỏ tốt
tươi, các loài động thực vật phong phú, nên ngay từ thời nguyên thuỷ con người đã tập trung
sinh sống ở đây đông hơn các khu vực xung quanh.

Tới cách ngày nay khoảng 6000 năm, con người ở đây đã biết sử dụng những công cụ, vũ khí
bằng đồng. Công cụ bằng đồng giúp con người ở đây chuyển sang sống chủ yếu nhờ nghề
nông, thoát khỏi cuộc sống săn bắn, hái lượm và sớm bước vào xã hội văn minh. Chính vì vậy
mà cách đây hơn 2000 năm trước, một nhà sử học Hy Lạp là Hêrôđôt tới thăm Ai Cập đã có
một nhận xét rất hay là “ Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”.

Về mặt dân cư, những cư dân cổ nhất ở lưu vực sông Nin là những thổ dân Châu Phi hình
thành trên cơ sở hỗn hợp nhiều bộ lạc. Sau này, một số bộ tộc Hamit [Hamites] từ Tây Á xâm
nhập hạ lưu sông Nin. Trải qua một quá trình hỗn hợp lâu dài giữa người Hamit và thổ dân
Châu Phi đã hình thành ra những tộc người Ai Cập cổ đại.

Các thời kì lịch sử chính của Ai Cập cổ đại : Lịch sử Ai Cập cổ đại có thể chia ra làm 5 thời kì
chính sau :


Thời kì TảoVương quốc [ khoảng 3200 - 3000 năm TCN ]




Thời kì Cổ Vương quốc [ khoảng 3000 - 2200 năm TCN ]



Thời kì Trung Vương quốc [ khoảng 2200 - 1570 năm TCN ]



Thời kì Tân Vương quốc [ khoảng 1570 - 1100 năm TCN ]



Thời kì Hậu Vương quốc [ khoảng 1100 - 31 năm TCN ]

2. Thành tựu cơ bản:

1


a] Chữ viết: Khoảng hơn 3000 nămTCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng hình .
Muốn chỉ một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả những khái niệm
trừu tượng thì họ mượn ý. Thí dụ để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái
đầu bò đang cúi xuống; để nói lên sự công bằng thì họ vẽ lông chim đà điểu [ vì lông đà điểu
hầu như dài bằng nhau ].
Từ chữ tượng hình, sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái. Vào
thiên niên kỉ II TCN, người Híchxốt đã học cách viết của người Ai Cậpđể ghi lại các ngôn ngữ
của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người
Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ cái A , B ...Những chữ tượng hình của người Ai Cập được khắc


trên đá, viết trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây sậy papyrus. Đây là một loại
“giấy” cổ xưa nhất, do vậy ngôn ngữ nhiều nước trên thế giới, giấy được gọi là papes,
papier ...Năm 1822, một nhà ngôn ngữ học người Pháp là Sampôliông [ Champollion ] đã tìm
cách đọc được thứ chữ này.

b] Về văn học: những tác phẩm tiêu biểu còn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo,
Đối thoại của một người thất vọng với linh hồn của mình , Người nông phu biết nói những điều
hay ...

c] Tôn giáo : Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi vùng
thờ mỗi vị thần riêng của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến thời kì thống nhất
quốc gia, bên cạnh những vị thần riêng của mỗi địa phương còn có các vị thần chung như thần
Mặt trời [ Ra ], thần sông Nin [Osiris ].

Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần : hồn và xác. Khi con người chết đi, linh hồn
thoát ra ngoài nhưng có thể một lúc nào đó lại tìm về nơi xác [ Họ tin rằng như khi bị ngất ,
hồn thoát ra ngoài tạm thời ]. Vì vậy những người giàu có tìm mọi cách để giữ gìn thể xác. Kĩ
thuật ướp xác vì vậy cũng rất phát triển.

d] Kiến trúc điêu khắc : Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng
nổi bật nhất phải kể đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp
đầu tiên để làm nơi yên nghỉ cho các pharaon là Imhotép. Người ta đã phát hiện ra khoảng 70
Kim tự tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo.
Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp [ Kheops ] cao tới 146m, đáy hinh vuông , mỗi cạnh tới 230m.
Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai Cập có
câu “ Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước Kim tự
tháp”. Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời sau qua
các công trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư [Sphinx ] hùng vĩ ở gần Kim tự tháp

2




Khephren. Bức tượng mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể
hiện Khephren là chúa tể với trí khôn của con người và sức mạnh của sư tử.

e] Khoa học tự nhiên :

Về thiên văn: người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung hoàng đạo và
sao Thuỷ,Kim, Hoả, Mộc, Thổ. Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự quan sát sao Lang
[ Sirius ]. Một năm của họ có 365 ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần họ thấy sao Lang xuất
hiện đúng đường chân trời. Họ chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng có
30 ngày. Năm ngày còn lại được xếp vào cuối năm làm ngày lễ. Để chia thời gian trong ngày,
họ đã chế ra đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước.
Về toán học: do yêu cầu làm thuỷ lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người Ai Cập cổ
cũng sớm được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo các phép tính
cộng trừ, còn khi cần nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần. Về hình học, họ
đã tính được diện tích của các hình hình học đơn giản; đã biết trong một tam giác vuông thì
bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông. Pi của họ tính = 3,14 .
Về Y học: người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại , mắt, răng, dạ
dày ... Họ đã biết giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.

Câu 2:

Quá trình hình thành đạo Hồi , Ảnh hưởng của Việt Nam?

a] Quá trình hình thành Đạo Hồi

Hồi giáo là một tôn giáo lớn được sang lập vào thời trung đại và nhanh chóng trở thành niềm
phấn khích của các đại đế chế. Điểm khởi đầu là tại bán đảo Arập mà người sáng lập ra là
Muhammad


Theo truyền thuyết vào năm 610 Muhammad nhìn thấy một thiên sứ và nói với ông rằng phải
vâng theo vị thần linh duy nhất là Đấng Allah “Đấng dạy cho con người những điều chưa biết”.
Từ đó ông đã nhận ra sứ mệnh của mình là truyền giảng tư tưởng đơn thuần. Sự ra đời của
Hồi giáo đã làm giảm sút sự ảnh hưởng của các thương gia giàu có nhờ quyền bán ảnh tượng
[Ảnh tượng các vị thần trong đền thánh mécca] mà người dân đang tôn sung, vì thế đã xó
những âm mưu hãm hại Muhammad, biết được điều đó Muhammad đã phải lánh khỏi Mecca
năm 622. Tuy nhiên chính nhờ chuyến đi này mà giáo thuyết của ông đã tỏa rạng và đánh dấu
cho sự mở đầu cả Hồi giáo, Tín đồ Hồi giáo đã lấy năm 622 là năm thứ nhất của lịch Hồi giáo

3


Cuộc lánh nạn của Muhammad đã trở thành huyền thoại, ông thu phục tín đò trên đường lánh
nạn, chỉ trong vòng 10 năm từ người trốn tránh kẻ thù nghịch Muhammad trở thành lành tụ
tôn giáo có nhiều tín đồ.

b] Ảnh hưởng của Đạo Hồi tới Việt Nam
………………….

Câu 3

Những thành tựu cơ bản của văn minh Ấn Độ thời cổ trung đại:

a] Chữ viết: Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà
ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ hoạ. Thế
kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ
này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanscrit, đây là cơ sở của
nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.

b] Văn học: Ấn Độ là nước có nèn văn học rất phát triển, gồm có 2 bộ phận chính là Vê đa và


sử thi, tuy nhiên nổi bật hơn cả là sử thi với hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là
Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220 000 câu thơ. Bản trường
ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là
một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó. Ramayana
là một bộ sử thi dài 48 000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công
chúa Sita. Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á.
Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.

Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều tư tưởng
được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á-Âu.

c] Nghệ thuật: Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều
nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do
yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Hinđu giáo, Phật
giáo, Hồi giáo. Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang
Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các
gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức
tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp.

4


Các công trình kiến trúc Hinđu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng
nhiều vào khoảng thế kỉ VII - XI. Tiêu biểu cho các công trình Hinđu giáo là cụm đền tháp
Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.

Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng
thế kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII.

d] Khoa học tự nhiên:



- Về Thiên văn: người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi
tháng có 30 ngày. [ Như vậy năm bình thường có 360 ngày ]. Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm
vào một tháng nhuận.
- Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta
quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán
học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. [Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử
dụng số Arập trong toán học.] Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp
số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác. Pi = 3,1416.
- Về vật lý: Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông
thái ở Ấn Độ đã viết “...trái đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”.
- Y học: cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương
sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “ Y
học toát yếu” và “ Luận khảo về trị liệu”.

Câu 4:

Sự hình thành và phát triển của đạo Phật thời cổ trung đại, phân tích ảnh hưởng tích cực của
Đạo phật đối với xh Việt Nam hiện nay.

a] Sự hình thành và phát triển của đạo Phật

- Sự hình thành: Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử Xitđacta
Gôtama, hiệu là Sakya Muni [Thích Ca Mâu Ni] khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544
TCN là năm thứ nhất theo Lịch Phật, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập niết bàn. [Vì vậy,
những người châu Á theo đạo Phật trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác
hẳn những người theo đạo Thiên chúa].
- Sự phát triển: Sauk hi ra đời đạo Phật nhanh chóng được truyền bá ở miến Bắc Ấn Độ. Để
soạn thảo giáo lý, quy chế và chấn chỉnh về tổ chức từ thé kỷ thứ V – III TCN đạo Phật đã riệu


5


tập 3 cuộc Đại hội từ đó đạo Phật được truyền sang Xrilanca, rồi đến các nước khác như
Myanma, Thái Lan, Indolexia…

Khoảng năm 100 sau CN đạo Phật triệu tập đại hội lần 4 ở Cusan, Đại hội đã thông qua giáo lý
của đạo Phật cải cách, xuất hiện phái phật giáo mới gọi là phái Đại thừa để phân biệt với phật
giáo cũ là phái Tiểu thừa
Sau Đại hội lần 4 ở Cusan các nhà sư càng được khuyến khích ra nước ngoài truyền Đạo, do
đó đạo Phật càng được truyền bá mạnh mẽ sang các nước Trung Á, Trung Quốc. Những thế kỷ
tiếp sau đó Phật giáo suy dần ở Ấn Độ song lại phát triển mạnh ở các nước và nó đã trở thành
quốc giáo của một số nước: Xrilanca, Thái Lan, Campuchia, Lào…

b] Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đến xã hội Việt Nam hiện nay.

Với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình, Phật giáo trở thành chỗ
dựa trong đời sống văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng. Các chuẩn mực của đạo
đức Phật giáo có tác dụng điều chỉnh hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến
quần chúng.

Với tư tưởng từ bi, cứu khổ cùng với các giá trị đạo đức của Phật giáo đã có ảnh hưởng không
ít tới môi trường sống của người dân, bởi vì đạo Phật là tiếng nói của một con người gửi tới
những con người khác, để cùng giúp nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Vì thế,
đạo Phật mang tính xã hội và đạo đức rất cao. Phật giáo không chỉ dừng lại ở công việc chia sẻ
những khó khăn của xã hội như hòa bình, thịnh vượng, công bằng, mà còn hướng mọi người
lấy điều thiện làm chuẩn mực sống, làm phương tiện và mục đích để đạt tới hạnh phúc cho
con người. Như hiện nay trong làm ăn kinh tế, một số người vì sự lôi cuốn của đồng tiền muốn
làm ít hường nhiều, muốn làm giàu nhanh chóng, đã bất chấp thủ đoạn, coi thường pháp luật
chà đạp nghiêm trọng tới đạo đức, lối sống truyền thống. Với quan niệm tiêu dùng của cải vật


chất hợp lý, không quá coi trọng tài sản đến mức trở thành nô lệ của nó, không ăn của người,
cuộc sống an vui giải thoát chỉ đạt được khi con người đạt được chân thiện mỹ, hạnh phúc của
người này có được không phải bằng cách giẫm đạp lên hạnh phúc của người khác, phải đem
an vui đến cho mọi người, Phật giáo đã phần nào tác động tốt tới nhân cách, lối sống các tín
đồ.

Cũng có thể thấy rằng những giáo lý của phật giáo khá đồng thuận với tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, nên việc phật giáo được Đảng và nhà nước quan tâm là điều tất yếu.

Câu 5

6


Điều kiện hình thành những thành tựu cơ bản của văn minh Trung Quốc thời cổ trung đại?

Lãnh thổ Trung Quốc ngày nay rộng mênh mông nhưng Trung Quốc thời cổ đại nhỏ hơn bây
giờ nhiều. Địa hình Trung Quốc đa dạng, phía Tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô
hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.

Trong hàng ngàn con sông lớn nhỏ ở Trung Quốc, có hai con sông quan trọng nhất là Hoàng
Hà và Trường Giang [Dương Tử]. Hai con sông này đều chảy theo hướng tây-đông và hàng
năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc.

Trung Quốc gồm nhiều dân tộc nhưng đông nhất là người Hoa-Hạ. Người Hoa ngày nay tự cho
tổ tiên họ gổc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc
ngày nay.[Dân núi Hoa sông Hạ]. Trong gần 100 dân tộc hiện sinh sống trên đất Trung Quốc
ngày nay, có 5 dân tộc đông người nhất là Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng.

Những điều kiện về địa hình và dân cư đó đã hình thành cho thế giới một nền văn minh mới,


đó là văn minh Trung Quốc với rất nhiều thành tựu.

Câu 6

Những thành tựu cơ bản của Văn minh Trung Quốc thời cỏ trung đại. từ ảnh hưởng đó đến sự
phát triển của văn minh thế giới.

1] Những thành tựu cơ bản của văn minh Trung Quốc:

a] Chữ viết: Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa,
xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên
Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được
thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện.

b] Văn học: Trung Quốc có nền văn học rất phong phú đó là nhờ vào chế độ thi cử và việc văn
chương trở thành thước đo của tri thức. Các thể loại tiêu biểu: Thơ,Từ, Phú, Kịch, tiểu thuyết…
trong đó tiêu biểu nhất là Kinh thi, Thơ Đường và Tiểu thuyết Minh - Thanh
Kinh thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân-Thu, được Khổng
tử sưu tập và chỉnh lí. Kinh thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng.
Thơ Đường là thời kì đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả nổi bật lên
ba nhà thơ lớn đó là Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.

7


Tới thời Minh-Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc
chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thuỷ hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Nho
lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần...trong đó Hồng lâu mộng
được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.


c] Sử học: Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân-Thu
đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân
Thu.

Tới thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại tác Phẩm Sử kí, chép lại lịch sử
Trung Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.
Tới thời Đông Hán, có các tác phẩm Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán
thư của Phạm Diệp.
Tới thời Minh-Thanh, các bộ sử như Minh sử, Tứ khố toàn thư là những di sản văn hoá đồ sộ
của Trung Quốc.

d] Khoa học tự nhiên

Toán học: Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất
hiện cuốn Chu bễ toán kinh, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa
3 cạnh trong một tam giác vuông.
Thời Đông Hán, đã có cuốn Cửu chương toán thuật, trong sách này đã nói đến khai căn bậc 2,
căn bậc 3, phương trình bậc1, đã có cả khái niệm số âm, số dương.
Thời Nam-Bắc triều có một nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ
3,14159265, đây là một con số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó.
- Thiên văn học: Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800 vì
sao. Họ đã xác định được chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch
Can-Chi. Thế kỉ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt trời. Thế kỉ II,
Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất.
Năm 1230, Quách Thủ Kính [đời Nguyên] đã soạn ra cuốn Thụ thời lịch, xác định một năm có
365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII.
- Y dược học: Thời Chiến Quốc đã có sách Hoàng đế nội kinh được coi là bộ sách kinh điển của
y học cổ truyền Trung Hoa. Thời Minh có cuốn Bản thảo cương mục của Lí Thời Trân. Cuốn
sách này được dịch ra chữ Latinh và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của
người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học


Trung Quốc.

e] Hội họa, điêu khắc, kiến trúc

8


- Hội hoạ: Hội hoạ Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản
hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở
Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội hoạ từ đời Hán
đến đời Tuỳ.
- Điêu khắc: Ở Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc
điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời
Tây Hán [ pho tượng cao nhất thế giới ], tượng Phật nghìn mắt nghìn tay.
- Kiến trúc: Cũng có những công trình rất nổi tiếng như Vạn lí trường thành [ tới 6700 km ],
Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.

2. Ảnh hưởng đó tới sự phát triển văn minh thế giới:
………….

Câu 7

Bốn phát minh lớn về KHKT của Trung Quốc thời cổ trung đại và ý nghĩa của nó:

Thời trung đại Trung Quốc có 4 phát minh lớn rất quan trọng đó là: Giấy, kĩ thuật in, thuốc
súng và kim chỉ nam.

a] Kĩ thuật làm giấy:

- Thời Tây Hán, người Trung Quốc vẫn dung thẻ tre, lụa để ghi chép. Đến khoảng thế kỷ II,


mặc dù đã biết dung phương pháp xơ gai để làm giấy, tuy nhiên giấy thời kỳ này còn xấu, mặt
không phẳng , khó viết nên chỉ dung để gói.
- Đến thời Đông Hán, năm 105 một người tên Thái Luân đã dung vỏ cây, lưới cũ, rẻ rách…làm
nguyên liệu, đồng thời đã cải tiến kỹ thuật, nên đã làm được loại giấy có chất lượng tốt. Từ đó
giấy được dung để viết 1 cách phổ biến thay thế cho các vật liệu trước đó.
- Từ thế kỷ III nghề làm giấy được truyền sang Việt Nam và sau đó được tryền đi hầu khắp
các nước trên thế giới.

b] Kĩ thuật in:

- Từ giữa thế kỷ VII kĩ thuật in giấy đã xuất hiện. Khi mới ra đời là in bằng ván sau đó có một
người dân tên Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung đã hạn chế được
nhược điểm của cách in bằng ván. Tuy nhiên cách in này vẫn còn hạn chế nhất định: chữ hay

9


mòn, khó tô mực. Sau đó đã có một số người tiến hành cải tiến nhưng ko được, đến thời
Nguyên, vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng chữ rời bằng gỗ.
- Từ khi ra đời kĩ thuật in cũng đã được truyền bá rộng rãi ra các nước khác trê thế giới. Cho
đến năm 1448, Gutenbe người Đức đã dùng chữ rời bằng kim loại, nó đã làm cơ sở cho việc in
chữ rời bằng kim loại ngày nay.

c] Thuốc súng:

Thuốc súng là phát minh ngẫu nhiên của những người luyện đan, cho đến thế kỷ X thuốc súng
bắt đầu được dùng làm vũ khí. Sau đó qua quá trình sử dụng nó đã được cải tiến rất nhiều với
nhiều tên gọi khác nhau. Và trong quá trình tấn công Trung Quốc người Mông cổ đã học được
cách làm thuốc súng và từ đó lan truyền sang Tây Á rồi đến châu Âu.


d] Kim chỉ nam.

Từ thế kỷ III TCN người Trung Quốc đã phát minh ra “Tư nam” đó là một dụng cụ chỉ hướng.
Sau đó các thầy phong thủy đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo, đầu tiên la bàn được
dùng để xem hướng đất rồi mới được sử dụng trong việc đi biển. Nửa sau thế kỷ XII la bàn
được truyền sang Arập ròi sang châu Âu

2. Ý nghĩa:

Đối với trung quốc bốn phát minh trên ra đời không chỉ trực tiếp giúp cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của con người Trung Quốc, mà đó còn là những đóng góp không nhỏ của
một nền văn minh cho toàn nhân loại.

Đối với thế giới sự ra đời của kĩ thuật làm giấy, kĩ thuật in, thuốc súng và kim chỉ nam đã nâng
cao được vị thế của loài người, đưa nhân loại tiến lên một bước trong quá trình chinh phục tự
nhiên và tranh đấu với tự nhiên với chính con người để sinh tồn và phát triển.

Câu 8

Quá trình hình thành tư tưởng nho giáo và phân tích những đặc điểm chính của tư tưởng này.
Nêu ảnh hưởng của nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.

1. Quá trình hình thành tư tưởng nho giáo và phân tích những đặc điểm của tư tưởng này.

a] Quá trình hình thành

10


Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên của


Nho gia là Khổng tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ trương lễ trị, phản đối pháp trị. Nho gia đề
cao Tam cương, Ngũ thường, cùng với tư tưởng Chính danh định phận và đề cao tư tưởng
Thiên mệnh. Giá trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ
trương dạy học cho tất cả mọi người.
Tiếp sau Khổng Tử là Mạnh Tử người kế thừa và phát triển học thuyết Nho gia them một bước
Tới thời Hán Vũ Đế [140-87 TCN], chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra
lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và
nâng lên thành Nho giáo.

b] Đặc điểm của Nho giáo
…………………………………………………

Câu 9

Điều kiện hình thành nền văn minh khu vực Đông nam Á và những thành tựu cơ bản của nền
văn minh đó, Việt Nam đã có những đóng góp gì cho nền văn minh khu vực

1. Điều kiện hình thành nền văn minh khu vực ĐNA

a] Điều kiện tự nhiên của ĐNA thuận lợi cho những bước đi đầu tiên của con người. Vì thế có
thể hiểu được tại sao con người đã có mặt ở vùng đất ày từ rất xa xưa. Cùng sinh tụ trên một
khu vực địa lý, cư dân ĐNA đã sang tạo ra một nền văn hóa bản địa có cội nguồn chung từ
thời tiền sử và sơ sử trước khi tiếp súc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Theo những vật
chứng để lại nhờ sự phát hiện của các nhà khảo cổ có thể thấy Văn hóa ĐNA cũng đã trải qua
rất nhiều giai đoạn phát triển khác nhau và rồi dần hình thành lên một nền văn minh mới của
nhân loại.

b] Sự hình thành các quốc gia ĐNA còn gắn liền với việc tiếp thu ảnh hưởng văn hóa Trung
Hoa và văn hóa Ấn Độ. Những ảnh hưởng này là khá tòa diện và sâu sắc, cả về chữ viết, văn
chương, tôn giáo, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Sự tiếp thu đó qua các con đường khác


nhau nhưng chủ yếu vẫn là thông qua hoạt động thông thương và việc xâm chiếm. Tuy phải
chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của hai nền văn hóa lớn song ĐNA vẫn là ĐNA một khu vực được
coi là “Châu Âu giáo mùa” cũng có những bản sắc và những thành tựu riêng biệt mang đậm
chất ĐNA

2. Những thành tựu cơ bản của nền văn minh ĐNA

11


Cư dân ĐNA lấy sản suất nông nghiệp lúa nước làm phương thức hoạt động kinh tế chủ yếu.
Do đó không chỉ có những nét tương đồng về canh tác và hệ thồng thủy lợi, mà đến các phong
tục tập quán ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của của nền nông nghiệp lúa nước.
a] Trước khi các tôn giáo được truyền bá vào ĐNA, cư dân nơi đây đã dùng thuyết “vạn vật
hữu linh” để chỉ tất cả những hình thức tín ngưởng. Trong đó sớm nhất là bái vật giáo với
những ý niệm về sức mạnh siêu nhiên của tự nhiên.

Quan niệm “vạn vật hữu linh” đã tồn tại trong các tín ngưỡng dân gian và có tác động không
nhỏ đến các tôn giáo được truyền bá vào và một phần làm biến dạng nó, biến nó thành cái của
mình: như Ăng co vát ở Campuchia, Bánh xe luân hồi bằng đá ở Thái Lan,

b] Khác với văn hóa chữ viết của người Hán và Ấn Độ, văn hóa cư dân nông nghiệp ĐNA tắm
mình trong nền văn hóa dân gian. Tín ngưỡng, lễ hội gắn liền với chu ký nông nghiệp, thờ
cúng tổ tiên. Cơ cấu của lễ hội bao gồm hai phần đó là Lễ và Hội đan xen hòa quyện vào nhau
rất khăng khít, Ngoài ra lễ hội khu vực ĐNA còn mang tính chất thống nhất cao như Tết cổ
truyền ở các nước đều có với hình thức gần giống nhau và thời điểm cũng tương đương nhau.

c] Qua các văn bia người ta biết rằng ĐNA cổ xưa đã sử dụng chữ viết đươc du nhập từ Ấn Độ
là chính. Tuy nhiên trong quá trình lịch sử lâu dài việc sang tạo ra chữ viết và quá trình cải
tiến nó của các cư dân ĐNA không phải là một sự bắt chước đơn giản mà là cả một quá trình


công phu và sang tạo, một thành tựu đáng kể về văn hóa của khu vực.

Nền văn học dân gian của các dân tộc ĐNA cũng rất phong phú và đa dạng về thể loại đó là
những truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ngụ ngôn, truyện trạng…mặc dù
có chịu ảnh hưởng của văn học Hán và Ấn Độ song văn học ĐNA vẫn mang được bản sắc
riêng.

Ngoài ra văn hóa ĐNA còn rất nhiều bản sắc riêng biệt nữa như: Chiếc nhà sàn, Thích múa hát
tập thể, hát đối…

3. Việt Nam đã có những đóng góp gì cho nền văn minh khu vực?
…………………

Câu 10

Điều kiện hình thành nền văn minh Hy Lạp – La Mã và những thành tựu cơ bản của nền văn
minh Hy Lạp – La Mã cổ đại.

12


1. Diều kiện hình thành nền văn minh Hy Lạp – La Mã

a] Điều kiện hình thành nền văn minh Hy Lạp

* Địa lý và dân cư:
- Vùng đất của thế giới Hy Lạp cổ đại lớn hơn nước Hy Lạp ngày nay rất nhiều, nó gồm miền
Nam bán đảo Bancăng [Balkans], các đảo trên biển Êgiê [Aegean] và phía tây Tiểu Á. Trung
tâm của thế giới Hy Lạp cổ đại nằm ở phía nam bán đảo Bancăng.
- Đất đai Hy Lạp không được phì nhiêu, không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực, địa


hình lại còn bị chia cắt thành nhiều vùng đồng bằng nhỏ hẹp. Nhưng bù lại, Hy Lạp có nhiều
vũng, vịnh, thuận lợi cho việc lập những hải cảng. Ở đây còn có nhiều khoáng sản lại tương
đối dễ khai thác như đồng, vàng, bạc...Chính vì vậy, kinh tế Hy Lạp cổ đại chú trọng phát triển
về công, thương nghiệp hơn nông nghiệp, nhất là buôn bán đường biển. Đặc điểm này của
kinh tế cũng làm cho nền văn minh Hy Lạp cổ tuy phát triển sau văn minh Ai Cập cố, nhưng
những lái buôn Hy Lạp trong quá trình ngang dọc trên Địa Trung Hải cũng học được nhiều điều
hay từ Ai Cập và Lưỡng Hà.
- Về dân cư, dân Hy Lạp cổ đại gồm nhiều tộc người như người Êôliêng [Eolien], Akêăng
[Acheen], Đôriêng [Dorien]...Lúc đầu các tộc người này đều gọi theo tên riêng từ thời bộ lạc
của mình, tới thế kỉ VIII-VII TCN các tộc người đó đều tự gọi một tên chung là Helen
[Hellenes] và gọi đất nước mình là Hella [Hella] tức Hy Lạp .

b] Điều kiện hình thành nền văn minh La Mã.
- Bán đảo Italia, nơi hình thành nhà nước La Mã cổ đại nằm ở Nam Âu như một chiếc chân
người chìa ra Địa Trung Hải.
- Bán đảo Italia có nhiều đồng bằng, tương đối thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp,
trong lòng đất lại chứa nhiều khoáng sản, thuận lợi cho nghề luyện kim. Địa hình ở đây lại
không bị chia cắt, tạo điều kiện cho sự thống nhất. Bờ biển ở phía nam bán đảo có nhiều vịnh,
cảng thuận tiện cho tàu bè trú ẩn khi thời tiết xấu. Do điều kiện địa lí như vậy nên bán đảo
Italia có điều kiện tiếp xúc với những nền văn minh phát triển sớm ở phương Đông.
- Người dân có mặt sớm nhất ở trên bán đảo Italia được gọi là Italiot, trong đó bộ phận sống
trên đồng bằng latium được gọi là người Latinh [Latin], ngoài ra còn có một số nhỏ người gốc
Gôloa, gốc Hy Lạp.

2. Những thành tựu cơ bản của nền văn minh Hy Lạp – La Mã

a] Những thành tựu cơ bản của văn minh Hy Lạp.

13



Tuy xuất hiện muộn hơn nền văn minh Ai Cập nhưng nhờ tiếp thu được nhiều giá trị từ Ai Cập
và Lưỡng Hà cổ đại và phát triển lên, nâng lên tầm khái quát, nên nền văn minh Hy Lạp cổ đại
đã có rất nhiều đóng góp giá trị.

* Chữ viết: Về chữ viết, người Hy Lạp cổ đại đã dựa trên hệ thống chữ viết của người Phênixi
[Phoenicia] rồi cải tiến, bổ xung thành một hệ thống chữ cái mới gồm 24 chữ cái. Từ chữ Hy
Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ. Đó là cơ sở chữ viết mà nhiều dân
tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng.

* Văn học: Văn học Hy Lạp cổ đại có thể chia ra làm ba bộ phận chủ yếu có liên quan với
nhau, đó là thần thoại, kịch, thơ.
- Người Hy Lạp có một hệ thống thần thoại rất phong phú để mô tả thế giới tự nhiên, nói lên
kinh nghiệm cuộc sống và cả tâm tư sâu kín của con người. Hầu như trong cuộc sống thời đó
có việc gì thì đều có thần bảo trợ, lo về công việc đó. Kho tàng thần thoại Hy Lạp mãi tới ngày
nay còn được nhiều môn nghệ thuật ở các nước trên thế giới khai thác. Đây là một dân tộc có
một kho tàng thần thoại mà nhiều dân tộc lớn trên thế giới phải ghen tị. Về sau, khi có chữ
viết, kho tàng thần thoại này được Hêdiốt [ nhà thơ Hy Lạp sống vào thế kỉ VIII TCN ] hệ
thống lại trong tác phẩm Gia phả các thần.
- Thơ ca là thể loại văn học rất phát triển, đặc biệt nó có thế mạnh khi chưa có chữ viết. Tiêu
biểu nhất phải kể đến tác phẩm Iliat và Ôđixê của Homer [ thế kỉ IX TCN ]. Tới thế kỉ VII-VI
TCN xuất hiện nhiều nhà thơ được công chúng ưa thích như Acsilôcút, Xôlông, Xaphô,
Anacrêông...
- Hy Lạp là quê hương của kịch nói phương Tây. Ở đây có cả bi kịch lẫn hài kịch. Những nhà
viết kịch nổi tiếng thời đó như Etsin, Sôphôclơ, Ơripit...

* Sử học: Từ thế kỉ VIII-VI TCN, lịch sử Hy Lạp chỉ được truyền lại bằng truyền thuyết và sử
thi. Đến thế kỉ V TCN lịch sử ở Hy Lạp mới trở thành một bộ môn riêng biệt. Các nhà viết sử
tiêu biểu của Hy Lạp thời đó là Hêrôđôt [Herodotus] với cuốn Lịch sử chiến tranh Hy-Ba ,
Tuyxiđit [Thuycudides] cuốn Lịch sử chiến tranh Plôpônedơ.



* Kiến trúc, điêu khắc: Những công trình kiến trúc của Hy Lạp cổ đại không hùng vĩ như của Ai
Cập cổ đại nhưng nó lại nổi bật ở sự thanh thoát, hài hoà. Các công trình kiến trúc ở Hy Lạp cổ
đại thường được xây dựng trên những nền móng hình chữ nhật với những dãy cột đá tròn ở
bốn mặt. Qua nhiều thế kỉ, người Hy Lạp cổ đại đã hình thành ra ba kiểu cột mà ngày nay
người ta vẫn thể hiện trong trường phái “cổ điển”.Kiểu Đôric [thế kỉVIITCN], trên cùng là
những phiến đá vuông giản dị không có trang trí; kiểu Lônic [t.kỉ V TCN] cột đá tròn thon hơn,
có đường cong ở bốn góc phiến đá hình vuông như hai lọn tọc uốn; kiểu Côranh [ thế kỉ IV
TCN ] có những cành lá dưới những đường cong, thường cao hơn và bệ đỡ cầu kì hơn.

14


- Các công trình kiến trúc tiêu biểu thời bấy giờ là đền Pactơnông [Parthenon] ở Aten, đền thờ
thần Dớt [Zeus] ở núi Olempia, đền thờ nữ thần Atena [Athena].
- Các nhà điêu khắc ở Hy Lạp cổ đại cũng để lại nhiều tác phẩm tới bây giờ vẫn xứng đáng là
mẫu mực cho điêu khắc như các pho tượng Vệ nữ ở Milô, tượng Lực sĩ ném đĩa, tượng nữ thần
Atena, tượng thần Hecmet...Những nhà điêu khắc tiêu biểu thời đó như Phiđat [ Phidias],
Mirông[ Miron],Pêliklêt,[Polykleitos]...

* Khoa học tự nhiên: Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều nhà bác học mà
đóng góp của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Ơclit [Euclide], người đưa ra các tiên đề hình học
đặt cơ sở cho môn hình học sơ cấp. Pitago [ Pythagoras], ông đã chứng minh định lí mang tên
ông và ngay từ thế kỉ V TCN ông đã đưa ra giả thuyết trái đất hình cầu. Talét [Thales], người
đã đưa ra Tỉ lệ thức [Định lí Talét]. Đặc biệt là Acsimet [Archimede], người đã đề ra nguyên lí
đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu
vật đó trong lòng chất lỏng [lực đẩy Acsimet].

* Triết học: Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai trường phái
triết học duy vật và duy tâm. Đại diện cho trường phái duy vật là các nhà triết học nổi tiếng


như: Talét [Thales], Hêraclit [Heracleitus], Đêmôcrit [Democritus]... Đại diện cho trường phái
duy tâm là các nhà triết học: Platôn, Arixtôt.

* Luật pháp và tổ chức nhà nước: Các quốc gia ở phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều về hệ
thống pháp luật và cách tổ chức nhà nước từ Hy Lạp cổ đại.
- Nhà nước ở Hy Lạp cổ đại hình thành trên cơ sở sự tan rã của xã hội thị tộc. Nhà nước dân
chủ chủ nô ở Hy Lạp ngày càng được hoàn thiện qua những cải cách của Xôlông [Solon],
Clisten [Clisthenes] và Pêliclêt [Pericles].
- Về luật pháp, bộ luật cổ nhất của Hy Lạp là bộ luật Đracông [Dracon], bộ luật này có những
hình phạt rất khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử. Sau này, nhờ những cải cách của
Xôlông, Clisten, luật pháp Hy Lạp ngày càng mang tính dân chủ hơn [nhưng cũng chỉ công dân
tự do mới được hưởng, nô lệ thì không].

b] Những thành tựu của nền văn minh La Mã.

Người La Mã không chỉ kế thừa nền văn minh của người Hy Lạp thời cổ đại mà còn có những
đóng góp đáng kể, tạo thành nền văn minh Hy-La, cơ sở của văn minh Tây Âu sau này.

* Chữ viết: Từ chữ Hy Lạp cổ, người La Mã đã đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay
ta quen gọi là chữ Latinh. Đây là một thứ chữ viết đơn giản, thuận tiện nên đã được sử dụng

15


rộng rãi trong toàn bộ đế quốc và sau này đã trở thành chữ viết của nhiều quốc gia trên thế
giới.

* Văn học: Văn học La Mã cổ đại cũng có nhiều thể loại như thơ, kịch, sử thi với các tác giả nổi
tiếng như Xixêrông [Xixeron], Viêcghin [Vergil], Hôratiut [Horatius].


* Sử học: Từ thế kỉ III TCN, người La Mã đã có viết sử nhưng họ viết bằng chữ Hy Lạp. Người
đầu tiên viết sử La Mã bằng chữ Hy Lạp là Phabiut.

Người viết sử La Mã bằng chữ Latinh đầu tiên là Cato[234-149 TCN]. Sau đó còn nhiều người
khác như Plutac, Tacitus.

* Triết học: Các nhà triết học La Mã cũng đã kế thừa truyền thống của triết học Hy Lạp, kế
thừa những tư tưởng duy vật của Đêmôcrit. Những nhà triết học tiêu biểu thời kì đó như:
Lucretius, Ciceron.
* Luật pháp: Bộ luật thành văn cổ nhất ở La Mã là bộ Luật 12 bảng. Nó được gọi như vậy vì
được khắc vào 12 bảng đá vào năm452 TCN.
* Khoa học tự nhiên: Các nhà khoa học người La Mã cũng có công sưu tập, tổng hợp những
kiến thức khoa học khắp vùng Địa Trung Hải. Những nhà khoa học nổi tiếng thời đó như
Plinius, Ptôlêmê, Hêrôn
* Y học: Ông tổ của Y học phương Tây là Hipôcrat [Hippocrates]. Ông đặc biệt được đời sau
luôn nhớ tới bởi lời thề Hypôcrat khi nhắc những người bước chân vào ngành y. Cuốn Phương
pháp chữa bệnh của Ông để lại đã được dùng làm sách giáo khoa cho nhiều trường đại học ở
châu Âu mãi tới thời cận đại.
* Kiến trúc và điêu khắc: Một trong những giá trị kiến trúc của người La Mã thể hiện qua các
cầu vòm bằng đá. Nhờ những chiếc cầu này mà hệ thống giao thông nối liền các vùng của đế
chế La Mã trở nên thuận lợi.

Công trình kiến trúc La Mã nổi tiếng hay được nhắc đến là đền Pactơnông, đấu trường Côlidê
và Khải hoàn môn. Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng thời đó là Vitorius.

Điêu khắc La Mã có cùng phong cách với điêu khắc Hy Lạp. Những bức tượng còn lại ở thành
Rôma và những phù điêu trên Khải hoàn môn là hiện vật tiêu biểu cho điêu khắc La Mã.

16




1. Tổng quan về Ai Cập cổ đại

1.1Địa lí và cư dân

Ai Cập ở vùng Đông Bắc châu Phi, nằm dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực sông Nin. Sông Nin bắt nguồn từ vùng xích đạo của châu Phi, dài 6.700 km, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài 700 km. Miền đất đai do sông Nin bồi đắp chỉ rộng 15-25 km, ở phía Bắc có nơi rộng đến 50 km vì ở đây sông Nin chia thành nhiều nhánh trước khi đổ ra biển. Hàng năm, từ tháng 6 đến tháng 11, nước sông Nin dâng cao đem theo một lượng phù sa rất phong phú bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày càng màu mỡ. Chính vì vậy, nến kinh tế ở đây phát triển sớm tạo điều kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất thế giới. Cũng chính vì vậy, nhà sử học Hi Lạp Hêrôđôt nói rằng: “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”.

Tuy vậy, về mặt địa hình, Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín, phía Bắc, là Địa Trung Hải, phía Đông giáp Biển Đỏ, phía Tây giáp sa mạc Xahara, phía Nam giáp Nubi, nơi giáp giới ấy là một vùng núi hiểm trở khó qua lại. Chỉ có ỏ Đông Bắc, vùng kênh đào Xuyê sau này, người Ai Cập cổ đại mới có thể qua lại với vùng Tây Á.

Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nin từ Nam lên Bắc: miền Thượng Ai Cập [miền Nam] là một dải lưu vực hẹp, miền Hạ Ai Cập [miền Bắc] là một đồng bằng hình tam giác.

Về tài nguyên thiên nhiên, Ai Cập có rất nhiều loại đá quý như đá vôi, đá bazan, đá hoa cương, đá mã não v.v… Kim loại thì có đồng, vàng, còn sắt thì phải đưa từ bên ngoài vào.

Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Arập, nhưng thời cổ đại, cư dân ỏ đây là người Libi, người da đen và có thể có cả người Xêmit di cư từ châu Á tới nữa.

1.2Các thời kì lịch sử của Ai Cập cổ đại

Nhà nước Ai Cập cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỉ IV TCN. Từ đó cho đến năm 525 TCN, theo cách phân chia của Manêtông, tác giả sách Lịch sử Ai Cập, sổng vào thế kỉ III TCN, lịch sử Ai Cập cổ đại được chia thành 5 thời kì là Tảo vương quốc, cổ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc và Hậu kì vương quốc gồm tất cả 31 vương triều.

a. Thời kì Tảo vương quốc [khoảng 3200-3000 TCN]

Vào khoảng nửa sau thiên niên kỉ IV TCN, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân hóa giàu nghèo, các công xã nông thôn đã liên hiệp lại thành những nhà nước nhỏ đầu tiên gọi là châu. Dần dần, những châu ấy hợp lại thành hai miền Thượng và Hạ Ai Cập. Tiếp đó, qua đấu tranh, hai miền Thượng và Hạ Ai Cập mới thống nhất thành nước Ai Cập. Từ khi nhà nước Ai Cập thống nhất ra đời cho đến khoảng năm 3000 TCN, ở Ai Cập đã trải qua hai vương triều là vương triều I và vương triều II, được gọi chung là thời kì Tảo vương quốc.

Ngay từ thời kì này, người cổ Ai Cập đã biết sử dụng công cụ bằng đồng đỏ, biết dùng cày và dùng súc vật để kéo cày. Người đứng đầu nhà nước là một ông vua chuyên chế gọi là Pharaông.

b. Thời ki Cổ vương quốc [khoảng 3000-2200 TCN]

Thời kì Cổ vương quốc bao gồm 8 vương triều, từ vương triều III đến vương triều X. Đầu thời Cổ vương quốc, chế độ tập quyền trung ương được củng cố, kinh tế cũng phát triển hơn trước. Trên cơ sở ấy, các Pharaông đã huy động sức người, sức của để xây dựng cho mình những Kim tự tháp rất đồ sộ. Nhưng từ vương triều V, thế lực của chính quyền trung ương bắt đầu suy giảm, đến vương triều VII, nền thống nhất không duy trì được nữa.

c. Thời kì Trung vương quốc [khoảng 2200-1570 TCN]

Thời kì Trung vương quốc bao gồm 7 vương triều, từ vương triều XI đến vương triều XVII, trong đó, thời kì thống trị của vương triều XI và vương triều XII là thời kì ổn định nhất. Nhưng đến năm 1750 TCN, ở Ai Cập đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa của dân nghèo. Từ đó Ai Cập bị suy yếu. Đến năm 1710 TCN, miền Bắc Ai Cập bị người Híchxốt ở Palextin chinh phục và thống trị 140 năm. Trong thời gian ấy, miền Nam Ai Cập cũng phải thần phục vương triều ngoại tộc này.

d. Thời kì Tân vương quốc [1570 – khoảng 1100 TCN]

Năm 1570 TCN, người Híchxốt bị đánh đuổi khỏi Ai Cập, đất nước lại được thống nhất, thời Tân vương quốc bắt đầu. Thời kì này gồm 3 vương triều, từ vương triều XVIII đến vương triều XX. Các vua đầu vương triều XVIII tích cực thi hành chính sách xâm lược bôn ngoài và đã chinh phục được Xyri, Phênixi, Palextin ở châu A và Libi, Nubi ở châu Phi.

Cuối vương triều XVIII, do thế lực của tầng lớp tăng lữ thờ thần Mặt trời Amôn phát triển quá mạnh, lấn át cả uy quyền của vua. Vì vậy, để làm suy yếu thế lực của tầng lớp tăng lữ, vua Ichnatôn đã tiến hành một cuộc cải cách tôn giáo, nhưng chính sách cải cách này chỉ được thi hành trong một thời gian ngắn.

Về công cụ sản xuất, từ thời Trung vương quốc, đồng thau đã ra đời nhưng chất lượng còn kém và còn ít. Đến thời Tân vương quốc, đồng thau mới được sử dụng rộng rãi, đồng thời sắt đã bắt đầu xuất hiện nhưng còn rất hiếm.

Sau vương triều XVIII, Ai Cập ngày càng suy yếu.

e. Ai Cập từ thế kỉ X-I TCN

Từ thế kỉ X TCN, Ai Cập hết bị chia cắt lại bị ngoại tộc thống trị. Đặc biệt, từ năm 525 TCN, Ai Cập bị nhập vào đế quốc Ba Tư ở Tây Á.

Năm 332 TCN, Ai Cập bị Alếchxăngđrơ ở Makêđônia chinh phục. Sau khi đế quốc Makêđônia tan rã, Ai Cập thuộc quyền thống trị của một vương triều Hi Lạp gọi là vương triều Ptôlêmê [305—30 TCN]. Đến năm 30 TCN, Ai Cập thành một tỉnh của đế quốc La Mã.

Điều kiện tự nhiên của người Ai Cập cổ đại

Điều kiện tự nhiên của người Ai Cập cổ đại gắn liền với sông Nile, hàng năm được bồi đắp bởi những lớp phù sa màu mỡ, rất thích hợp phát triển nghề nông.

1. Điều kiện tự nhiên của Ai Cập cổ đại

Ai Cập là quê hương của một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ai Cập ở Đông Bắc Bộ châu Phi, là một vùng thung lũng hẹp và dài nằm dọc theo hạ lưu sông Nile; hai bên thung lũng là những dãy núi đá nham thạch và đá hoa dựng thẳng như những bức tường. Bên kia những dãy núi đá là miền sa mạc khô khan, nóng nực.

Ai Cập phía đông giáp miền rừng núi trùng điệp Nubia thuộc Trung bộ châu Phi, phía tây giáp sa mạc Libya, phía bắc giáp Địa Trung Hải, bốn mặt đều có biên giới thiên nhiên cách trở, khiến cho Ai Cập thời cổ đại hầu như cô lập đối với thế giới bên ngoài, cách biệt với các quốc gia cổ đại khác ở phương Đông. Chỉ ở phía đông bắc mới có một vùng đất hẹp là eo đất Sinai nối liền Ai Cập với miền Tiểu Á. Khí hậu ở Ai Cập nóng nực lại khô khan, quanh năm trời nắng ráo, ngày mưa rất hiếm hoi. Hoàn cảnh địa lý và điều kiện tự nhiên của người Ai Cập cổ đại có liên quan đến tính chất trì trệ tương đối của xã hội và tính đặc thù của nền văn minh cổ Ai Cập.

Toàn bộ lịch sử Ai Cập gắn liền với sông Nile. Sử gia Hy Lạp cổ đại Herodote đã từng viết: “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nile”, ý nói rằng sông Nile tạo nên đất nươc Ai Cập, lại có tác dụng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và lịch sử của người Ai Cập.

Hàng năm, cứ từ tháng sáu đến tháng mười, nước sông Nile dâng cao gây nên những trận lụt lớn, biến Ai Cập thành như một biển cả mênh mông. Thành quách, làng mạc lập trên những đồi cao, nổi lên nhấp nhô như những hòn đảo. Sang tháng mười một, nước sông rút đi, để lại cả một lớp cát phù sa màu mỡ dày đặc, rất thích hợp cho việc gieo trồng các loại ngũ cốc. Bởi vậy, dân cư sống từ thời viễn cổ hai bên bờ sông Nile đã biết nghề nông từ rất sớm.

Từ tháng mười một đến tháng hai là mùa gieo hạt và mùa lúa chín, đồng ruộng, hoa quả tốt tươi. Đến tháng ba là bắt đầu mùa gặt. Gặt xong là đến mùa khô khan, cát bụi. Người ta thường nói: “Ai Cập liên tiếp là một đồng cát bụi, một biển nước và một vườn hoa”. Hai bờ sông Nile và trong các hồ, đầm, mọc rất nhiều một loại cây sậy – cây papyrus – mà người Ai Cập cổ đại dùng để làm giấy viết. Ở những dãy núi phía đông và phía tây dọc theo thung lũng sông Nile, có nhiều loại đá: đá vôi, đá huyền vũ, đá hoa cương, đá văn mẫu… dùng làm vật liệu kiến trúc quan trọng nhất của người cổ Ai Cập.

Về khoáng sản, Ai Cập không có nhiều. Người Ai Cập lấy đồng ở miền Sinai, lấy vàng ở xứ Nubia. Những nguyên liệu quan trọng nhất như sắt và gỗ thì ngay từ thời xưa, người Ai Cập đã phải mua từ nước ngoài đem về.

Người Ai Cập cổ đại

2. Nguồn gốc của người Ai Cập cổ đại

Người Ai Cập thời viễn cổ từ ở đâu đến lưu vực sông Nile? Những tài liệu khoa học hiện đại đã xác minh rằng người Ai Cập thời cổ là những thổ dân của châu Phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc. Bằng cứ là ở Ai Cập, người ta đã từng phát hiện xương hóa thạch và công cụ lao động của người thời đại đồ đá cũ và thời đại đồ đá mới, và khảo cổ học đã chứng minh một cách dứt khoát rằng giống người hóa thạch đó chính là tổ tiên gần gũi nhất của người Ai Cập.

Từ thời viễn cổ, những thổ dân đó đi lại săn bắn trên lục địa. Khi đến vùng thung lũng sông Nile, họ định cư ở đấy và theo đòi nghề nông và nghề chăn nuôi từ rất sớm. Về sau, có một chi của bộ tộc người Hamites từ Tây bộ châu Á xâm nhập hạ du sông Nile, chinh phục thổ dân người Châu Phi ở đây. Trải qua một thời kỳ hỗn hợp lâu dài, người Hamites và thổ dân người châu Phi đã đồng hóa với nhau, hình thành ra một bộ tộc mới, tức là người Ai Cập.

Video liên quan

Chủ Đề