Tại sao khi cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 chưa kết thúc, hội nghị yên ta đã được triệu tập

Tại sao khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai chưa kết thúc, hội nghị Ianta đã được triệu tập?

A. Do chủ nghĩa phát xít vẫn chưa bị đánh bại, phải triệu tập hội nghị để đề ra kế sách nhanh chóng kết thúc chiến tranh

B. Do các nước muốn phân chia thành quả chiến thắng giữa các nước thắng trận

C. Vì muốn tổ chức lại thế giới sau Chiến tranh

D. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã bước vào giai đoạn kết thúc, có nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách đặt ra cho các nước Đồng minh

Đáp án chính xác
Xem lời giải

Trật tự hai cực YaltaSửa đổi

Sự kiện này cũng dẫn đến việc hình thành Trật tự lưỡng cực Yalta là việc phân chia khu vực có ảnh hưởng giữa các nước lớn của phe đồng minh tại Hội nghị. Nội dung của hội nghị về việc kết thúc chiến tranh: Ba cường quốc thống nhất mục đích là tiêu diệt tận gốc Chủ nghĩa Phát xít Đức và Chủ nghĩa quân phiệt Nhật. Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật tại Châu Á sau khi chiến tranh ở châu Âu kết thúc. Ba cường quốc thống nhất sẽ thành lập một tổ chức để giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới [mà sau này là Liên Hợp Quốc]. Hội nghị đã thông qua các quyết định quan trọng về việc phân chia ảnh hưởng của 2 cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ. Theo đó, Liên Xô duy trì ảnh hưởng Đông Âu, Đông Đức, Đông Berlin, quần đảo Kuril [Nhật], Bắc Triều Tiên, Bắc Việt Nam, Đông Bắc Trung Quốc và Mông Cổ; tương tự Hoa Kỳ cũng duy trì ảnh hưởng ở phần còn lại của châu Âu [Tây Âu], Tây Đức, Tây Berlin, Nam Triều Tiên, Nam Việt Nam, phần còn lại của Nhật Bản, ở bán đảo Triều Tiên, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc, quân đội Mỹ chiếm đóng miền Nam lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới quân sự, nhằm tạo cơ sở cho việc gìn giữ trật tự thế giới sau khi chiến tranh kết thúc. Anh, Pháp được khôi phục khu vực ảnh hưởng cũ. Áo và Phần Lan trở thành nước trung lập. Vùng Mãn Châu, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ được trao trả lại cho Trung Quốc. Ngoài ra, theo thỏa thuận của Hội nghị Potsdam, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới, việc giải giáp quân đội Nhật được giao cho quân đội Anh về phía Nam và quân đội Trung Hoa Dân Quốc về phía Bắc.

Trật tự lưỡng cực Yalta vào năm 1945 đã góp phần hình thành hai hệ thống xã hội đối lập: Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa. Nước Đức chia hai hình thành nhà nước với hai chế độ chính trị khác nhau: Cộng hòa Liên bang Đức ở phía Tây và Cộng hòa Dân chủ Đức phía Đông. Sự chia cắt thành Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc mà vẫn còn tồn tại cho đến bây giờ. Tại Việt Nam, giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17 giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu ở phía Bắc và Quốc gia Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp do Bảo Đại làm quốc trưởng ở phía Nam theo Hiệp định Geneve 1954 là hệ quả của các thỏa thuận giữa các nước đồng minh 1943 đến 1945. Sau 1956, Pháp rút quân, chính phủ Bảo Đại vốn thừa kế Liên hiệp Pháp, đã bị thay thế bởi sự lật đổ của Ngô Đình Diệm bằng việc tổ chức một cuộc Trưng cầu dân ý phế truất Quốc trưởng Bảo Đại vào năm 1955 đương chuyến công du của ông sang Pháp. Sau đó đã cấm không cho Bảo Đại về miền Nam Việt Nam. Những thỏa thuận của 3 cường quốc ở Hội nghị Yalta như vậy đã xâm phạm đến vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cũng như lợi ích dân tộc của các quốc gia này.

Sau chiến tranh, hai hệ thống xã hội nêu trên càng được phát triển bởi:

  • Kế hoạch Marshall đối với các nước Tây Âu của Mĩ.
  • Sự thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế [SEV] vào năm 1949 của khối các nước Xã hội Chủ nghĩa.

Trải qua hơn 40 năm, "Trật tự lưỡng cực Yalta" đã từng bước bị xói mòn và sau những biến động to lớn ở Đông Âu và Liên Xô trong những năm 1988–1991, "Trật tự lưỡng cực Yalta" đã bị sụp đổ, do Khối Đông Âu và các liên minh trong phạm vi ảnh hưởng chủ yếu của Liên Xô [liên minh quân sự – khối Hiệp ước Vacxava và liên minh kinh tế – khối SEV] đã bị tan vỡ và do đó thế "lưỡng cực" của hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô trong trật tự thế giới cũ đã bị phá vỡ.

Thuật ngữ "Trật tự lưỡng cực Yalta" thường chỉ được dùng trong sách giáo khoa các nước theo Xã hội chủ nghĩa.

Chú thíchSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hội nghị Yalta.
  1. ^ trong sách giáo khoa và đề thi do Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam ấn hành

Mục lục

Nguồn gốc và hình thànhSửa đổi

Bài chi tiết: Nguyên nhân xảy ra Chiến tranh thế giới thứ hai và Tam cường [Thế chiến thứ hai]

Nguồn gốc của khối Đồng Minh bắt nguồn từ Khối Đồng Minh thời Thế chiến thứ nhất và sự hợp tác của các cường quốc thắng trận tại Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919. Nước Đức đế quốc không bằng lòng ký Hòa ước Versailles. Tính hợp pháp của chế độ Cộng hòa Weimar mới bị lung lay.

Với việc thị trường chứng khoán phố Wall sụp đổ năm 1929 và tiếp theo cuộc Đại khủng hoảng, bất ổn chính trị ở châu Âu tăng vọt trong đó có sự gia tăng trong việc hỗ trợ chủ nghĩa phục thù dân tộc ở Đức, họ đổ lỗi cho mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế lên Hòa ước Versailles. Đến đầu những năm 1930, Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa do Adolf Hitler lãnh đạo đã trở thành phong trào phục thù thống trị ở Đức, Hitler và phe Quốc xã đã giành được quyền lực vào năm 1933. Chính quyền Đức phát xít yêu cầu hủy bỏ ngay lập tức bản hòa ước và đưa ra yêu sách đối với nước Áo, nơi có nhiều người Đức sinh sống và các vùng lãnh thổ thuộc Tiệp Khắc của Đức. Khả năng xảy ra chiến tranh là rất cao, và câu hỏi đặt ra là liệu nó có thể tránh được thông qua các chiến lược như nhượng bộ.

Tại châu Á, khi Nhật Bản tiến hành các chiến dịch chiếm Mãn Châu năm 1931, tổ chức quốc tế Hội Quốc Liên đã lên án hành vi xâm lược Trung Quốc. Nước Nhật đã đáp trả bằng cách rời khỏi tổ chức vào tháng 3 năm 1933. Sau bốn năm yên ổn, Chiến tranh Trung – Nhật bùng nổ vào năm 1937 với quân đội Nhật xâm chiếm Trung Quốc. Hội Quốc Liên tiếp tục lên án hành động và áp đặt các lệnh trừng phạt đối với nước này. Hoa Kỳ đặc biệt giận dữ với Nhật Bản và tìm cách hỗ trợ nước Trung Hoa Dân Quốc.

Áp phích thời chiến của Anh ủng hộ Ba Lan sau khi Đức xâm chiếm nước này [Chiến trường châu Âu]
Áp phích thời chiến của Mỹ thúc đẩy viện trợ cho Trung Quốc trong Chiến tranh Trung – Nhật [Mặt trận Thái Bình Dương]

Vào tháng 3 năm 1939, Đức xâm lược Tiệp Khắc, điều đó vi phạm Hiệp ước München mà Đức Quốc xã đã kí kết sáu tháng trước đó, và chứng minh rằng chính sách nhượng bộ là một thất bại. Anh và Pháp quyết định rằng Hitler không có ý định duy trì các thỏa thuận ngoại giao và đáp trả bằng cách chuẩn bị cho cuộc chiến tranh. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1939, Anh thành lập Liên minh quân sự Anh – Ba Lan trong nỗ lực ngăn chặn một cuộc tấn công của Đức vào đất nước này. Trước đó, người Pháp đã liên minh với Ba Lan kể từ năm 1921. Liên Xô thì tìm kiếm một liên minh với các cường quốc phương Tây, nhưng Hitler đã chấm dứt nguy cơ chiến tranh với Stalin bằng cách ký Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau vào tháng 8 năm 1939. Thỏa thuận đã bí mật phân chia các quốc gia độc lập ở Đông Âu giữa hai cường quốc và đảm bảo cung cấp đủ dầu cho cỗ máy chiến tranh của Đức. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức tiến đánh Ba Lan; hai ngày sau, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Tiếp theo đó, vào ngày 17 tháng 9 năm 1939, Liên Xô tấn công Ba Lan từ phía đông. Chính phủ lưu vong Ba Lan được thành lập và nó tiếp tục là một trong những đồng minh, một mô hình theo sau bởi các quốc gia bị chiếm đóng khác. Sau một mùa đông yên ổn, Đức vào tháng 4 năm 1940 đã xâm chiếm và nhanh chóng đánh bại lần lượt các nước Tây Âu như Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan và Pháp. Anh và đế chế của nó một mình chống lại Hitler và Mussolini. Vào tháng 6 năm 1941, Hitler đã xé bỏ thỏa thuận không xâm lược với Stalin và mở các cuộc tấn công vào Liên bang Xô viết. Vào tháng 12, Nhật Bản tấn công Hoa Kỳ và Anh. Các phe chính của Thế chiến II được hình thành.

Những quốc gia thuộc khối Đồng MinhSửa đổi

Sau khi Đức Quốc Xã chiếm Ba Lan

  • Ba Lan: 1/9/1939
  • Anh Quốc: 3/9/1939
  • Pháp: 3/9/1939
  • Úc: 3/9/1939
  • New Zealand: 3/9/1939
  • Nepal: 4/9/1939
  • Nam Phi: 6/9/1939
  • Canada: 3/9/1939

Sau khi kết thúc chiến tranh kỳ quặc

  • Na Uy: 9/4/1940
  • Bỉ: 10/5/1940
  • Luxembourg: 10/5/1940
  • Hà Lan: 10/5/1940
  • Hy Lạp: 28/5/1940
  • Nam Tư: 6/4/1941
  • Liên Xô: 22/6/1941

Sau khi Nhật oanh tạc Trân Châu Cảng

  • Panama: 7/12/1941
  • Costa Rica: 8/12/1941
  • Cộng hòa Dominica: 8/12/1941
  • El Salvador: 8/12/1941
  • Haiti: 8/12/1941
  • Honduras: 8/12/1941
  • Nicaragua: 8/12/1941
  • Hoa Kỳ: 8/12/1941
  • Trung Quốc: 9/12/1941
  • Guatemala: 9/12/1941
  • Cuba: 9/12/1941
  • Đại Hàn Dân Quốc: 10/12/1941
  • Tiệp Khắc: 16/12/1941

Sau ngày ký kết Hiến chương Đại Tây Dương

  • México: 22/5/1942
  • Brasil: 22/8/1942
  • Ethiopia: 14/12/1942
  • Iraq: 17/1/1943
  • Bolivia: 7/4/1943
  • Iran: 9/9/1943
  • Ý: 13/10/1943 [trước theo khối Trục]
  • Colombia: 26/11/1943
  • Liberia: 27/1/1944

Sau ngày đổ bộ Normandie

  • România: 25/8/1944 [trước theo khối Trục]
  • Bulgaria: 8/9/1944 [trước theo khối Trục]
  • San Marino: 21/9/1944
  • Albania: 26/10/1944
  • Hungary: 20/1/1945 [trước theo khối Trục]
  • Bahawalpur: 2/2/1945
  • Ecuador: 2/2/1945
  • Uruguay: 7/2/1945
  • Peru: 12/2/1945
  • Uruguay: 15/2/1945
  • Venezuela: 15/2/1945
  • Thổ Nhĩ Kỳ: 23/2/1945
  • Liban: 27/2/1945
  • Ả Rập Xê Út: 1/3/1945
  • Phần Lan: 3/3/1945
  • Argentina: 27/3/1945
  • Chile: 11/4/1945
  • Mông Cổ: 9/8/1945
  • Việt Minh: 19/8/1945

Video liên quan

Chủ Đề