Theo Sigmund Freud Cấu trúc tâm lý của nhân cách gồm
TIỂU LUẬN tâm lý học cấu TRÚC NHÂN CÁCH THEO PHÂN tâm học ý NGHĨA TRONG HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO TRẺBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.46 KB, 19 trang ) Cấu trúc nhân cách theo Phân tâm học. Ý Phân tâm học, với bề dày lịch sử hơn 100 năm của mình, đã và đang là một trường phái học thuật (và cả lâm sàng) gây nhiều tò mò cho giới tâm lý cũng như những người ngoại đạo. Tại Việt Nam, phân tâm vẫn đang là một mảng quan trọng trong tâm lý học được quan tâm, tìm hiểu và bước đầu được nghiên cứu sao cho phù hợp với bối cảnh kinh tế-văn hóa-lịch sử-chính trị đặc trưng của nước ta. Tạm để sang một bên vấn đề gây tranh cãi từ lâu về việc áp dụng hiệu quả phân tâm tại Việt Nam, trong nội dung này với mục đích giới thiệu những quan niệm cơ bản nhất về nhân cách phân theo cấu trúc dựa trên nền tảng phân tâm học. Thế nào là cấu trúc nhân cách ? Nó có ý nghĩa như thế nào với con người nói chung và với một nhà lâm sàng nói riêng ? Làm thế nào để phân biệt các cấu trúc nhân cách, và phân biệt để làm gì ? NỘI DUNG 1. Quan điểm của Phân tâm học về nhân cách Nhân cách (personality trong tiếng Anh, personnalité trong tiếng Pháp) có nguồn gốc từ persona, từ Latinh mang nghĩa cái mặt nạ (chữ nguyên gốc từ tiếng Hy Lạp là prosopon). Persona được các diễn viên đeo trong những vở kịch trong thời kỳ Hy Lạp - La Mã cổ đại. Đó chính là một vật thể trung gian giữa người diễn viên, vai mà anh ta đóng và người xem kịch. Với số lượng hạn chế (khoảng 12 cái), khi khán giả nhìn thấy một persona được đeo, họ có thể tiên đoán trước những hành động tiếp theo của nhân vật. Một điều thú vị nữa là trong một vở kịch, một diễn viên cho một vai chỉ có thể mang một loại persona chứ không được thay đổi theo từng tình tiết cho dù vở kịch có kịch tính đến đâu. Nguồn gốc này của từ vựng cho ta thấy những đặc điểm mà con người ta quy gán cho khái niệm được gọi là nhân cách : một là, cho dù thế giới con người có đa dạng như thế nào, luôn tồn tại một số thể loại nhân cách mang tính hoàn cầu, tất nhiên trừ những trường hợp thực sự cá biệt; hai là, cho dù cuộc sống con người có biến động đến đâu, nhân cách một khi đã hoàn chỉnh thì vẫn không thay đổi về bản chất. Điều này chẳng đi đôi với nhân sinh quan 2 Non sông dễ đổi, bản tính khó dời của phương Đông? Phân tâm học, cùng với các trường phái khác trong tâm lý học và các ngành khoa học tự nhiên xã hội khác, cũng không tách khái niệm nhân cách ra khỏi cách nhìn nhận này. Điểm đặc biệt cơ bản nhất của phân tâm học khi nó đưa ra những giả thiết về nhân cách so với các trường phái tâm lý và ngoại tâm lý khác chính là việc xem nhân cách không chỉ là một thể loại tính cách con người trong đó cộng gộp lại một số những đặc điểm riêng biệt, mà còn là việc đưa khái niệm nhân cách vào trong khía cạnh cấu trúc. Câu hỏi được đặt ra ngay lúc này khó có thể khác hơn : thế nào là cấu trúc? Nhân cách và cấu trúc liên hệ với nhau như thế nào ? Dựa trên nền tảng chủ nghĩa cấu trúc và xây dựng (structuralisme và constructivisme) do Claude Lévi - Strauss khởi xướng giữa thế kỷ XX và những tiền đề triết học trước đó, định nghĩa cấu trúc trong phân tâm học có thể được miêu tả vắn tắt bằng những yếu tố sau : Các chi tiết, yếu tố đơn lẻ hợp thành. Một trật tự sắp xếp giữa những yếu tố đó, cùng với các nguyên lý, quy tắc tổ chức giữa chúng. Một lịch sử, quá trình xây dựng, hình thành nên những yếu tố và nguyên lý đó. Theo đó, ngôn ngữ là một cấu trúc, với các yếu tố đơn lẻ chính là tập hợp những từ vựng mà ta dễ dàng tìm thấy trong các cuốn từ điển, một trật tự và quy tắc quy định bởi hệ thống ngữ pháp và cú pháp. Ngoài ra, bất kỳ một thứ tiếng nào cũng trải qua những biến đổi trong quá trình biến động trải qua năm tháng. Vô thức cũng là một loại cấu trúc, hợp thành bởi những hình tượng được lưu lại sau những trải nghiệm (những dấu vết hình ảnh, âm thanh, bối cảnh ), được sắp xếp theo một logic phi lý tính nhưng rất chủ quan (luật vào/ra, chủ động/bị động ), theo một trật tự thời gian tiềm tàng đặc biệt, và được xây dựng từ thuở ấu thơ từ những mối quan hệ trong gia đình. Có cùng 3 những cơ chế hoạt động như một thứ ngôn ngữ (ẩn dụ, hoán dụ ) với những cách thức rất riêng của mình (chuyển vị, cô đọng ), Jacques Lacan (1965) mạnh dạn đưa ra một phát biểu nổi tiếng : Vô thức được cấu trúc như một thứ ngôn ngữ. Jean Bergeret, bác sĩ tâm thần và phân tâm gia người Pháp thề kỷ XX, khi đề cập đến cấu trúc nhân cách theo học phái Phân tâm, có đề nghị một cách tóm lược những yếu tố cần phải lưu tâm như sau (1974): Thứ nhất: Bản chất của các lo hãi tiềm ẩn. Thứ hai: Kiểu quan hệ đối tượng. Thứ ba: Các cơ chế phòng vệ chủ đạo. Thứ tư: Các dạng triệu chứng thường gặp. Đối với 4 yếu tố nêu trên, mỗi dạng cấu trúc nhân cách đều có những đặc trưng riêng biệt khiến việc chẩn đoán và định hướng làm việc trở nên ít phức tạp hơn. Các đặc điểm của từng cấu trúc theo kiểu phân loại theo yếu tố của Bergeret sẽ được đề cập chi tiết trong bảng đính kèm. * Phân tâm học cổ điển chia ra 3 cấu trúc nhân cách lớn như sau: Cấu trúc nhiễu tâm : gồm 4 loại : ám ảnh, hysteri, ám sợ và lo hãi Cấu trúc loạn tâm : gồm các loại : hưng cảm và sầu uất (maniacodépressive), hoang tưởng (paranoiaque) và phân liệt (schizoide/paranoide) Tranh cãi lớn về tính duy nhất của cấu trúc thứ 3: lệch lạc (perversions) và các nhân cách ranh giới (états-limites). Các lệch lạc rất đa dạng (thị dâm, phô trương, bái vật, bạo/khổ dâm ), bên cạnh các nhân cách ranh giới phi cấu trúc hay mang tính ái kỷ. Ngoài ra, các học giả phân tâm còn nhiều tranh cãi lớn xung quanh cấu trúc thứ 4: tự kỷ. Liệu tự kỷ là một cấu trúc độc lập, hay là một biểu hiện đặc biệt của nhóm loạn tâm vẫn còn là một đề tài tranh luận triết học sôi nổi. Hai bộ ba (topique) của Freud Sẽ là một thiếu sót nghiêm trọng nếu đề cập đến các cấu trúc nhân cách mà không nhắc lại hai bộ ba mà Freud đã xây dựng để hệ thống hóa bộ máy 4 tâm trí con người, dù đó không phải là một chủ đề quá lạ lẫm với đa số quý vị. Cần nhấn mạnh là cho dù một con người được cấu trúc như thế nào, các yếu tố trong hai bộ ba này đều tồn tại và tham gia vào đời sống nội tâm của con người và cả những mối quan hệ xã hội của người đó. Điều khác nhau của các cấu trúc chính là tính năng động, sự tương tác và liều lượng mà mỗi yếu tố được khai triển và kiềm tỏa. Ta sẽ phân tích vấn đề này sâu xa hơn. Bộ ba thứ nhất của Freud được ông khái niệm hóa vào năm 1900. Trong bộ ba này, Freud phân biệt 3 thành tố chính yếu trong tâm trí bao gồm : ý thức, tiềm thức và vô thức. Cùng với giả thiết về sự tồn tại của vô thức và về sự ảnh hưởng dữ dội, khó cưỡng lại của vô thức lên các hành vi, ngôn ngữ con người. Cũng chính sự ra đời giả thiết này đã làm khai sinh ra một trường phái triết học-tâm lý mới mang tên phân tâm học. Tuy nhiên, việc duy trì cách tiếp cận bộ máy tâm trí bằng bộ ba trên đôi khi làm Freud gặp khó khăn trong việc lý giải một số hiện tượng tâm trí (vd sự lặp đi lặp lại mang tính cưỡng chế của một số hành vi mặc cho sự nhận thức của thân chủ) cũng như trong tiến trình trị liệu phân tâm cổ điển, vào năm 1923, Freud cho phát hành cuốn Cái Tôi và cái Ấy. Trong quyển sách này, Freud đề nghị một bộ ba mới nhằm tiếp cận đầy đủ hơn guồng máy tâm trí con người, biết rằng bộ ba mới này không xóa bỏ hay mâu thuẫn với bộ ba cũ mà ngược lại, bổ sung cho nhau. Hai bộ ba của Freud vẫn còn giữ nguyên giá trị học thuật và trị liệu cho đến ngày nay, làm nền tảng cho phần lớn các trường phái tâm lý hay tân phân tâm sau này, dù các trường phái ấy có lên tiếng chống lại hay vay mượn một phần các giả thiết trên của Freud. Ta có thể biểu diễn sự chồng chập phối hợp của hai bộ ba đó theo một hình ảnh quen thuộc của một tảng băng trôi: Dựa trên mô hình trên, ta có thể vắn tắt mối quan hệ giữa các thành tố kia trong mỗi cấu trúc nhân cách như sau : 5 Nhiễu tâm: cái Tôi bị kẹp giữa cái Siêu tôi/cái Thực tế (bên ngoài) đè nặng bên trên và cái Ấy bị vùi nén ở tận cùng, là một trong những đường hướng trị liệu chính là khơi gợi cái Ấy ra khỏi sự dồn nén ngạt thở ấy. Loạn tâm: cái Thực tế (bên ngoài) bị vùi nén ở tận cùng bởi cái Tôi và trên đó nữa là cái Ấy đè đường hướng trị liệu mô phỏng là hỗ trợ sao cho cái thực tế kia được tiếp cận mà không gây lo hãi quá khích và hạn chế khéo léo sự ngự trị của cái Ấy. Ở một con người bình thường - nhiễu tâm: có một chút nhiễu tâm và một chút loạn tâm nhưng phần nhiễu tâm nổi trội hơn. Người bình thườngnhiễu tâm cần được phân biệt với người bị nhiễu tâm ở chỗ: thứ nhất, ở người bình thường-nhiễu tâm không có những triệu chứng chức năng gây phiền hà đến cuộc sống của chính bản thân người ấy; thứ hai, tâm trì người bình thường-nhiễu tâm có sự linh hoạt trong việc sử dụng các cơ chế phòng vệ cũng như trong cách thức đối mặt, giải quyết các lo hãi, trong khi người bị nhiễu tâm thường cứng nhắc, bị đóng khung trong những cách thức đối mặt không hiệu quả và sử dụng những cơ chế phòng vệ nhiễu tâm một cách quá mức đến độ gây nên sự đau khổ chủ quan. Các cấu trúc nhân cách được định hình từ thuở ấu thơ, trong mối quan hệ trong gia đình (mở rộng). Mấu chốt của việc xây dựng cấu trúc nhân cách theo Freud chính là thời kỳ Oedipe. Trong thời kỳ của mối quan hệ tam giác này, việc đối diện và giải quyết mặc cảm và nỗi lo hãi bị thiến (complexe và angoisse de firtration) là tiên quyết cho một cấu trúc nhiễu tâm. Trọng tâm của cấu trúc loạn tâm không đạt đến điểm này mà loay hoay trong thời kỳ cổ xưa tiền Oedipe. Vấn đề của cấu trúc lệch lạc lại nằm ở ngưỡng cửa bước vào Oedipe : không thừa nhận việc người mẹ không có bộ phân sinh dục nam (qua đó, một cách vô thức, gặp khó khăn trong sự phân biệt giới tính) và khỏa lấp nỗi lo hãi đó bằng những cách thức riêng biệt. Nhân cách ranh giới đối diện với sự mất mát, trống vắng tiền Oedipe và phải dựa vào những mối quan hệ tích cực theo hướng nâng đỡ để có thể tiếp tục bước đi trong cuộc sống. 6 Sau đây là bảng tóm tắt ngắn gọn các đặc điểm chính của các cấu trúc trên: Cấu trúc Thời kỳ chủ đạo nhân cách Nhiễu tâm Oedipe Lo hãi chủ đạo Cơ chế phòng vệ Bị thiến chủ đạo Dồn nén (refoulement), phủ Loạn tâm Tiền Oedipe nhận (dénégation) Bị ăn thịt, bị tan rã, bị Phóng chiếu mất trọng lực, bị tan Lệch lạc vào nước, Ngưỡng trước Oedipe (rằng người mẹ mất (projection), chối bỏ (déni) Chối bỏ (déni) cái biểu tượng quyền Ranh giới Tiền Oedipe năng) Bị mất mát [Quan hệ nương tựa] (relation détayage) * Đóng góp của Jacques Lacan vào các câu trúc nhân cách Jacques Lacan (1901-1981) là một bác sĩ tâm thần - nhà phân tâm học người Pháp, người đã cải cách các học thuyết phân tâm của Freud theo định hướng triết học Hégel (theo cách diễn giải của Alexander Kozhevnikov) và vận dụng những nghiên cứu từ ngôn ngữ học để làm sáng tỏ thêm hai bộ ba của Freud, đưa ra thêm một cấu trúc khác nhằm miêu tả bộ máy tâm trí con người trong những khía cạnh mà hai bộ ba kia vẫn chưa hình tượng hóa được. Dựa trên hình ảnh vòng nơ của dòng họ Borromée (Ý), Lacan đề nghị một cách tiếp cận mới về tâm trí, nhất là vô thức, theo cách sau: Trong đó: Cái Thực (Réel): những thứ hiện hữu về mặt vật chất, bên ngoài; bản chất của nó không bao giờ ta có thể hiểu được, nắm bắt được hay giải thích được; đó là những thứ không thể thiếu và cũng không thể tránh được. Cái 7 Thực khác với Thực tế nội tâm (Réalité psychique) mang tính chủ quan và là cách mà ta tiếp cận với cái Thực đó. Vd : thân thể, cái chết, một vết thương, một thiên tai . Cái Ảo (hay Tưởng Imaginaire) : bao gồm những hình ảnh, những sự đồng nhất hóa, cơ thể Đó là cách mà ta hiện diện trước và trong mắt người khác. Nói cách khác, khi ta tiếp xúc với người khác, ta đang hoạt động trong khái cạnh Ảo (Tưởng). Cái Biểu tượng (Symbolique) : giúp sắp xếp, tổ chức. Ngôn ngữ là một trong số đó. Chính tính biểu tượng hệ thống lại thế giới này cho chúng ta. Nền tảng của tính biểu tượng là ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ không phải là yếu tố duy nhất trong tính biểu tượng. Các chỗ giao của 3 vòng xuyến này cũng là đại diện cho những yếu tố sau: Nơi Ảo giao Biểu tượng gọi là ý nghĩa (sens), hay là một sự sắp xếp các hình tượng tưởng tượng theo một trật tự nhất định sao cho nó mang một ý nghĩa. Sự rối loạn của các hình tượng (do Biểu tượng không giúp sắp xếp các yếu tố trong phần Ảo) là một trong những nguyên căn của các dấu hiệu bệnh lý. Cái ý nghĩa tiếp xúc trực tiếp với cái Thực: đó là cách mà con người tiếp cận đến cái Thực khó hiểu, ngoài tầm với. Vd: các tôn giáo cho cái chết một ý nghĩa nào đó. Các ngành khoa học chính xác hay lĩnh vực y khoa đào sâu nghiên cứu, đưa ra những giả thiết để tìm hiểu thế giới tự nhiên, vũ trụ, thân thể. Khi cái Thực di chuyển tự do, vòng Ảo và Biểu tượng đứt rời nhau, cái ý nghĩa bị biến mất. Đó chính là khi ta gặp một sang chấn tâm lý. Mô hình này của Lacan cho ta thấy rõ triết lý trị liệu : thiết lập lại cùng với thân chủ ý nghĩa của sang chấn đó chứ không để họ đối mặt với sự vô nghĩa, trống rỗng. Ý nghĩa đó, cho dù nó hợp lý hay không về mặt khoa học, nhưng nó rất đáng quý trong trị liệu, nhất là khi nó được lồng ghép với một ý nghĩa mang tính cộng đồng. 8 Nơi Thực giao với Biểu tượng được gọi là Khoái lạc phallic (jouissance phallique - Jp): một khoái lạc có chừng mực, được sắp xếp và giới hạn bởi những lề luật. Nó tiếp xúc với vòng Ảo, làm rào cản cho vòng Ảo di chuyển tự do. Nói cách khác, nó khiến cho các huyễn tưởng, tưởng tượng chỉ dừng lại ở mức đó chứ không thể hiện ra bên ngoài dưới dạng hành động. Khi trục Ảo bị đứt ra khỏi bộ ba, di chuyển lên xuống tự do, trục Biểu tượng và Thực tách rời nhau, Khoái lạc phallic bị xóa sổ. Khi ấy, ta đề cập đến những rối loạn hoang tưởng, loạn tâm. Trong loạn tâm, sự Khoái lạc bị thiến này không được đạt đến. Các xung năng trong cơ thể bộc lộ ra bên ngoài mà không có sự kiểm soát nào. Cần phải nói thêm là các hoang tưởng, điên sảng không phải chỉ là dấu hiệu bệnh lý, mà còn là một nỗ lực của người bệnh để tự giải thoát ra khỏi căn bệnh (tuy nhiên, điều đáng buồn là nó không phải lúc nào cũng tương thích với các hình tượng xã hội). Triết lý trị liệu ở đây có thể thấy rõ là giúp cho thân chủ nắm bắt những yếu tố mang tính biểu tượng để kiểm soát lại cái Thực. Lacan nghĩ là không nên loại bỏ các hoang tưởng, mà ngược lại phải đồng hành cùng thân chủ để tìm ra một cái ý nghĩa cho nó, giúp cho những hoang tưởng đó, từ chỗ khó hiểu, bí ẩn, trở nên có thể chia sẻ được. Điều quan trọng là tâm lý gia không bị cuốn trôi theo hay chìm ngập vào hoang tưởng của thân chủ. Nơi Ảo và Thực giao nhau, Lacan gọi đó là Khoái lạc Khác (jouissance Autre - JA): nằm song song và kèm theo Khoái lạc phallic (Jp). Nó hoàn toàn nằm bên ngoài Biểu tượng, nghĩa là nó không được sắp xếp, tổ chức, hệ thống hóa, không thể diễn đạt hoàn toàn bằng bất kỳ hệ thống ngôn ngữ nào. Đây là mội Khoái lạc vô biên, không giới hạn; giới hạn duy nhất có thể đề cập đến là giới hạn của cơ thể con người. Khi vòng Biểu tượng tách ra khỏi bộ 3, nó đè bẹp Khoái lạc Khác, hai vòng Thực và Ảo trở nên tự do, ta có thể nói đến tính lệch lạc với triết lý sau : đưa một trật tự biểu tượng (bất kỳ nào đó) giẫm đạp lên khoái lạc của người khác (nhất là người mẹ thuở ấu thơ). Người lệch lạc chối bỏ sự thiếu hụt nơi người khác, cho rằng người đó hoàn mỹ, chẳng thiếu 9 hụt thứ gì. Làm như vậy, chính người lệch lạc sẽ nhận được cho mình khoái cảm hoàn thiện từ trong mối quan hệ với một người khác được cho là hoàn thiện. Định hướng trị liệu khá rõ ràng : phục dựng nơi người đó ý tưởng rằng người khác cũng có những thiếu hụt, và trong chính sự thiếu hụt đó sẽ làm nảy sinh những khoái cảm tuy không hoàn thiện nhưng nó thúc đẩy con người ta tìm kiếm. * Cách nào ta nhận biết các cấu trúc nhân cách. Ta có thể nhận biết cấu trúc nhân cách theo bảng tóm tắt sau: Mục Giấc mơ Nhiễu tâm Thường xuyên Loạn tâm Ranh giới/Lệch lạc có Rất hiếm. Không Tùy vào nhân cách cụ những giấc mơ khác mơ trong suốt quá thể mà gần giống với nhau hay lặp đi lặp trình trị liệu, hoặc nhiễu hay loạn tâm hơn. lại, được kể ra một cho là có những khi công việc trị liệu giấc mơ nhưng tiến hành được một không nhớ được Diễn ngôn thời gian. nội dung. Có tính biểu tượng, Thường là những Chuỗi biểu năng có thể có những lỗi, va vấp, đề nghi hoặc, tài thường được tiếp diễn. Mối liên chuỗi nhật, mang tính hệ giữa biểu nghĩa và năng nghĩa không miêu tả hoặc cao năng nghĩa tương đối gián đoạn mà được siêu, thần bí. Nói nhạy cảm. Khả năng liên tưởng tiếp diễn. chỉ để nói, lắp đầy biểu tượng tốt nhưng lời Mối tương quan biểu khoảng trống vì nói có chức năng như nghĩa năng nghĩa nó gây lo hãi dữ một tấm màn che đậy chặt chẽ. dội. những Sáng tạo một cái gì đó sâu bên từ vựng trong. mới. Ít có những nghi hoặc. Nếu có nhầm 10 lẫn thì mang màu sắc vay mượn. Chuỗi năng Về triệu nghĩa gián đoạn. Thân chủ nói, than Cũng nói về triệu Biết là điều đó đi trái với chứng phiền về triệu chứng, chứng nhưng hình tượng, đạo đức xã về nỗi ám sợ, về không than phiền hội nhưng vẫn tiếp tục những nghi hoặc hay gì, cho rằng nó với cơ chế nội tại. khía cạnh tình dục. không phiền hà gì Thể hiện sự đau khổ, đến cuộc sống hay nỗi đau khi mang con người. Cơ chế triệu chứng. Dồn nén, nghi hoặc, Phóng chiếu, đồng Chối bỏ, Tách chia phòng vệ tự trách móc và cảm nhất hóa phóng chủ đạo thấy có tội, nuối tiếc, chiếu, chối bỏ Huyễn phủ nhận Thường gây ra cảm Gần tưởng giác có tội, sự dày vò hoang tưởng bị hơn là 1 huyễn tưởng, với những Gần với 1 cảnh tượng nội tâm, đặt câu hỏi giết, bị ám hại trong đó không có sự vì thường có liên được bộc lộ một phiền hà khi phải bộc lộ quan đến khía cạnh cách dữ dội, khó ra, thậm chí có một sự tính dục kiểm soát khoái lạc khi phát ngôn về những vấn đề nhạy Vị trí của cảm Nghiêng về khiá cạnh Tưởng tượng hoặc Tùy vào nhân cách cụ tưởng huyễn tượng những chủ đề như sự cái tưởng, về bị đóng mác trong thể toàn năng, sự lo lắng xuất đối với 1 số vấn đề Chuyển Thực, hoặc hiện dưới dạng ảo giác hay hoang tưởng Chuyển cảm Ảo và Chuyển cảm Thực 11 Cả 3 cảm Biểu tượng Ngôn ngữ chính là công cụ chuyên nhất giúp ta xác định cấu trúc nhân cách của một thân chủ, vì theo Freud, ngôn ngữ chính là tâm trí. Là một nhà lâm sàng theo định hướng phân tâm, ta làm việc trong ngôn ngữ, bằng ngôn ngữ và cùng với ngôn ngữ. Nhưng ngôn ngữ là một phạm trù rất rộng, được thể hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Làm sao và thông qua những cách thức nào để một nhà lâm sàng có thể nhận biết đúng đắn một cấu trúc nhân cách ? Các test phóng chiếu với tranh vẽ cụ thể (TAT, CAT, Patte Noire ) hay thông qua lời nói (điền vào câu trống, ngụ ngôn của Duss ) giúp ta có những cái nhìn tổng quan về những xu hướng chính yếu của tâm trí và nhân cách, trong đó nhấn mạnh đến các cơ chế phòng vệ đặc trưng và những thuận lợi, khó khăn mà mỗi thân chủ gặp phải trong quá trình xây dựng bộ máy tâm trí từ thời thơ ấu đến hiện tại. Test phóng chiếu trừu tượng theo kiểu Rorschach mang cho ta thông tin hữu ích về cấu trúc nhân cách của thân chủ, tất nhiên khi được sử dụng phối hợp với những công cụ khác. Tuy nhiên trong lâm sàng, nhất là trong những buổi trị liệu phân tâm cổ điển, test phóng chiếu tương đối ít dùng. Thay vào đó, nhà lâm sàng phân tâm lắng tai nghe, quan sát và ghi nhận những hành vi, hành động của thân chủ trong suốt chiều dài của các buổi gặp gỡ để đắn đo và xác định cấu trúc nhân cách. Sau đây là một bảng tóm tắt ngắn gọn (và không đầy đủ) của những dấu hiệu thường được quan tâm nhất nhằm xác định cấu trúc nhân cách. Mặc dù còn có những hạn chế, Phân tâm học nói chung, Phân tâm học về nhân cách nói riêng đã có những đóng góp to lớn trong nghiên cứu về cấu trúc nhân cách của con người. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến Freud. Ông đã đưa ra một lí thuyết trọn vẹn về nhân cách, nó đầy dủ và cho phép giải quyết nhiều vấn dề tâm lý có ứng dụng thực tế mà đến nay vẫn còn được ứng dụng. 12 Freud còn được đánh giá cao khi là người đã khám phá ra một lĩnh vực nghiên cứu mới của tâm lý học: vô thức. Có công lớn trong việc nghiên cứu động lực hành vi vủa con người là động cơ vô thức. Và đưa ra những khái niệm: Sự dồn nén, cơ chế tự vệ, sự đồng nhất hoá, xung đột, sự xã hội hoá Vấn đề các động cơ bị che giấu của bệnh nhân trong lâm sàng và ý nghĩa của nhân tố này đối với các nhà lâm sàng. Có nhận xét: Ông được coi là người dũng cảm nhất thế giới bởi dám vạch trần bộ mặt đao đức giả của nhân loại. Tuy nhiên Phân tâm học cũng bộc lộ những nhược điểm. Phân tâm học đã đối lập hoàn toàn với các nguyên tắc cơ bản của tâm lý học duy vật biện chứng.Nó tách biệt hoàn toàn nhân cách với những điều kiện xã hội của sự hình thành nhân cách, đề cao cái vô thức, cái sinh vật lên hàng đầu. Yếu tố sinh học thuần tuý là bât biến. Đây là chủ nghĩa sinh vật điển hình. Hạ thấp vai trò của ý thức, không xem ý thức là đối tượng của tâm lý học. Thuyết phân tâm của Freud về sau được phát triển thành phân tâm học mới (phân tâm học hiện đại) với các tên tuổi Jung, Irommđã đưa ra một số cải biến cho mô hình truyền thống. Freud đã có thiên tài phát hiện ra nhiều vấn đề mới, đề xuất một số khái niệm tâm lý giúp con người hiểu sâu về con người, và bất kỳ ai quan tâm đến con người đều phải nắm được. Mặt khác trong lúc chuyển sang suy luận và vận dụng cho thực tiễn, Freud và các đồ đệ về sau đã có nhiều kết luận và cách làm khó chấp nhận đứng về khoa học. 2. Ý nghĩa của Phân tâm học trong hình thành nhân cách cho trẻ. Thuyết cấu trúc nhân cách với cốt lõi là thuyết phân tâm học cảu Sigmund Frued, có vai trò rất lớn đối hình thành nhân cách cho trẻ đặc biệt là xã hội hiện đại ngày nay khi mà vấn đề hình thành nhân cách cho trẻ đang đặt ra nhiều vấn đề. Vai trò của nó đối với các khâu đánh giá, tiếp cận vấn đề ngày càng được thể hiện rõ nét.Trong xã hội hiện đại khi mà cuộc sống ngày càng đầy đủ, nhu cầu vật chất được đặt lên hang đầu, lấn át đi các giá trị tinh thần.Con người càng có nhiều nguy cơ mắc đến những hội chứng khủng 13 hoảng liên quan đến vấn đề tâm lý, có thể nói đây là một trong những mảng nổi cộm của công tác giáo dục hiện nay. Mọi thành phần mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể mắc những vấn đề như trên, một trong những đối tượng dễ gặp những vấn đề về tâm lý nhất chính là trẻ em, đặc biệt là trong giai đoạn tiểu học từ (6-12 tuổi).trong giai đoạn này quá trình hình thành nhân cách cũng như phát triển tâm lý đang có những thay đổi lớn. Những ca rối nhiễu khủng hoảng tâm lý đặc biệt cần sự trợ giúp của thuyết cấu trúc nhân cách, chẳng hạn em A là đang học lớp 4 là con trong một gia đình giàu có. Bố mẹ thương yêu và luôn dành cho em những điều kiện tốt nhất về vật chất để em sống và học tập trong một điều kiện thích hợp và phát triển tốt nhất. Đây có thể nói là một gia đình kiểu mẫu, hoà hợp, hạnh phúc nếu nhìn từ góc độ bên ngoài vào.Tuy nhiên sự thật là bố mẹ cô bé sống không hạnh phúc với nhau, mỗi người theo đuổi một con đường riêng. Do phải kiếm tiền làm công việc kinh doanh nên thường xuyên họ phải vắng nhà, ít thời gian quan tâm trò chuyện, chăm sóc kỹ lưỡng về mặt tinh thần cho con cái. Cô bé thì ngược lại rất cần sự âu yếm, quan tâm của cha mẹ hơn là những đò chơi thú bông, hay những khoản tiền mà bố mẹ đưa cho. Câu chuyện sẽ không dừng lại ở đó, nếu một hôm cô bé không phát hiện ra bố mẹ mình cãi nhau, họ không hạnh phúc như cô vẫn tưởng. Tất cả sự chiều chuộng về vật chất bên ngoài dường như chỉ để che đậy sự đổ vỡ từ lâu bên trong. Và cô bé đã gặp vấn đề về tâm lý, khủng hoảng thất vọng và đổ vỡ. Có thể nói khi phát hiện ra sự không hạnh phúc trong gia đình. Cô bé trở nên khép kín, tự thu mình lại, ít tiếp xúc với mọi người. Đặc biệt là xa lánh và không chịu nói chuyện với bạn bè và rất ngại đến trường. Hơn thế nữa những tổn thương về tinh thần đã gây nên những tổn thương về mặt thực thể như buồn nôn, chóng mặt. Nhà giáo dục tiếp xúc và tìm ra nguyên nhân của các triệu chứng trên là do sự thiếu hụt về tình cảm gia đình. Nhà giáo dục sử dụng phương pháp màn ảnh trắng, và chuyển dịch ngược cho cô bé dãi bày những tâm sự, uẩn ức của mình vào đó, từ đó chuyển dịch lại những lời khuyên răn, hướng cô bé đến chiều hướng tích cực hơn. 14 Phối hợp 3 hệ thống gia đình, nhà trường bạn bè để có sự trợ giúp tổng hợp đến cô bé. Làm cho cô bé hiểu rằng cô rất quan trọng đối với cha mẹ và mọi người xung quanh. Khi cô như vậy thì họ sẽ rất buồn. Bên cạnh đó, phải tác động đến cha mẹ cô bé, làm cho họ hiểu rằng cần phải dành cho cô vé nhiều tình cảm hơn. Yêu thương không chỉ là những yếu tố vật chất không thôi, mà sư thể hiện tình yêu đó mới là quan trọng, đây mới là điều cô bé đang cần. Khi phối hợp để giải quyết nhà giáo dục không chỉ sử dụng tới một lý thuyết một phương pháp trị liệu không thôi mà cần phải kết hợp, nhiều phương pháp khác nhau nhằm đạt hiệu quả tốt nhất. Một ví dụ khác về sự thay đổi tâm sinh lý của trẻ em trong lứa tuổi vào lớp một. Một số trẻ vào độ tuổi bước vào lớp 1 thương có những triệu chứng như đau bụng , buồn nôn, căng thẳng khi bước vào lớp 1. Nguyên nhân ở đây chủ yếu là do sự thay đổi môi trường từ nhà trẻ, gia đình sang một môi trường mới, môi trường học tập, thay đổi về không gian và thời gian sinh hoạt. Thêm đó việc kiểm tra đánh giá của giáo viên, học nhiều gây nên nhiều áp lực cho các em.Trong những trường hợp thế này, việc lắng nghe, chia sẻ có vai trò rất quan trọng để nắm được tâm tư, tình cảm, mong muốn của các em. Vai trò của gia đình, đặc biệt là các bậc phụ huynh có vai trò quyết định để giúp trẻ thay đổi thói quen và hoà nhập với hoàn cảnh mơi. Ngoài việc quan tâm chăm sóc trẻ kỹ hơn, cha mẹ cần phải có những biện pháp hữu hiệu để giúp trẻ vượt qua thời kỳ khó khăn này. Có thể sử dụng một số cách như sau: Giúp trẻ quen dần với giờ giấc mới. Khi bắt đầu vào lớp 1, con bạn cần làm quen với nhịp sống mới. Vài ngày trước khi khai giảng, hãy cho cháu lên giường và thức dậy sớm hơn. Chuẩn bị tâm lý cho trẻ. Vào những ngày gần lễ khai giảng hãy nói với con bạn về năm học mới. Hãy giải thích cho con hiểu tại sao lại cần phải đến trường và cháu sẽ được lợi gì khi đi học. Cha mẹ phải là người xây dựng cho bé những viễn cảnh mà bé cảm thấy thích thú và hào hứng khi chuẩn bị nhập học. Động viên con bạn thấy lo lắng và khóc sụt sùi khi bạn nói với cháu về chuyện học hành. Đây là chuyện hết sức bình thường. 15 Hãy nói với con là bạn hiểu nỗi lo lắng của cháu, và khi còn nhỏ bạn cũng đã từng có cảm giác như vậy. Hãy bảo con nếu gặp khó khăn cháu đã có bạn luôn sát cánh để giải quyết. Chuẩn bị cho con tác phong tự lập. Những đứa trẻ không có thói quen sống tự lập thường bị stress khi không có bố mẹ ở bên. Để tránh điều đó, bạn cần dạy con cách xoay xở một mình như tự mặc quần áo, tự đi vệ sinh...Kiểm tra sức khỏe cho trẻ trước năm học mới. Kiểm tra thị lực, thính giác, răng miệng và tiêm chủng là những việc rất quan trọng với tương lai con bạn, vì một đứa trẻ có thể trở thành học trò kém chỉ vì có vấn đề về thị lực hoặc thính giác.- Giúp con làm quen trước với môi trường mới. Hãy đưa con bạn đến trường vài lần trước khi khai giảng và giới thiệu cho cháu đâu là phòng học, nhà ăn... để con bạn cảm thấy tự tin hơn khi một mình đến trường. Sắm những vật dụng cần thiết. Bọn trẻ thường thích tưởng tượng mình là nhân vật trong các câu chuyện mang tính giáo dục. Bạn nên mua cho con mình các cuốn sách viết về các hoạt động ở nhà trường và nhất là lễ khai giảng. Chuẩn bị cặp sách và những đồ dùng cá nhân... Những đồ vật mới tạo cho trẻ hào hứng và một tâm trạng yên tâm khi vào lớp.- Tự đưa con đến trường. Đừng để con đến trường một mình vào ngày khai giảng hoặc nhờ một người quen nào đó đưa con bạn đến trường. Nếu có thể hãy đưa cháu đến tận cửa lớp. Tối về hãy nghe trẻ kể lại những gì đã diễn ra vào những buổi học đầu tiên, chia sẻ những lo lắng, suy nghĩ của trẻ. Trấn an chúng và tạo điều kiện để trẻ bộc bạch hết những lo lắng ấy. Những sự quan tâm và những phương pháp tác động đúng cách là những liệu pháp tuyệt vời nhất giúp trẻ vượt qua những lo lắng và tác động tốt đến quá trình phát triển tâm lý của trẻ. Như vậy qua việc lý giải trên ta thấy Phân tâm học do Freud sáng lập có ý nghĩa rất lớn trong hình thành nhân cách cho trẻ. Trước tiên, Freud đã khiến chúng ta nghĩ đến hai thái cực xung lực và những ảnh hưởng của chúng lên tâm thức con người. Vào thời đó con người được tin là có khả năng lý luận. Ông đã mạnh dạn chỉ ra rằng hành vi của con 16 người thực ra đã chịu sự tác động của sinh học. Giữa lúc đó mọi người cho rằng mỗi cá nhân phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình thì ông đã cho thấy ảnh hưởng của xã hội lên những hành vi của con người. Khi mọi người cho rằng vai trò và vị trí của phụ nữ và nam giới được chi phối bởi tự nhiên hay Thượng Đế thì Freud đã giới thiệu ảnh hưởng của đời sống sinh hoạt trong quan hệ gia đình. Tất nhiên xung động vô thức và siêu ngã luôn là một bộ phận của đời sống con người ở trong một hình thái tâm thức nào đó và đây là điểm son trong học thuyết của Freud. Thứ hai, ông đã giúp chúng ta nhận ra một điểm tích cực đáng chú ý trong quá trình giáo dục bằng cách nêu ra rằng một tuổi thơ đầy những bạo lực, bị hất hủi, hoặc trải qua nhiều nghịch cảnh tai ương sẽ dễ phát triển trở thành một người trưởng thành không có hạnh phúc. Chính Freud đã là người khởi xướng suy nghĩ cho rằng những vết thương trong quá khứ có thể sửa chữa lành và tái thiết kế lại. Ông cho phép chúng ta cơ sở để giải thích, mổ xẻ, và hàn gắn lại những vết thương trong quá khứ. Thứ ba, khái niệm cơ chế tự vệ để bảo vệ cái tôi là một đóng góp quan trọng. Theo đó, ông đã lý giải về việc chúng ta sử dụng những cân nhắc và tính toán để đạt được sự cân bằng giữa điều kiện hoàn cảnh thực tế và nhu cầu tư duy tâm lý cá nhân. Chính những cơ chế tự vệ mà ông nêu ra đã thật sự giúp nhiều người có thể xác định được những vấn đề thường gặp. KẾT LUẬN Học thuyết Phân tâm học được xây dựng trên khái niệm vô thức. Freud quan niệm " Tất cả các hiện tượng tâm thần của con người về bản chất là hiện tượng vô thức.Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô thức và tuỳ theo tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện ra theo những qui luật khác hẳn với ý thức". Trong các loại vô thức thì đam mê tính dục có một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ đời sống tâm lí của con người. Đam mê tính dục tạo ra nguồn năng lượng cực kỳ mạnh mẽ 17 (gọi là libido), cội nguồn của mọi cội nguồn tinh thần, nguyên nhân mọi bệnh tâm thần cũng như khả năng lao động sáng tạo ở con người. Đánh giá về Tâm lý học Phân tâm học Phân tâm học của Freud ngay từ khi mới ra đời được đánh giá với nhiều thái độ khác nhau. Những nghiên cứu của Freud vẫn còn có giá trị ứng dụng phổ biến cho đến ngày nay. Một số ý tưởng của Freud gắn liền với thời đại và văn hóa nơi ông đã sống. Nhiều ý tưởng tuy khó có thể kiểm chứng được trong bối cảnh lúc ấy nhưng có thể hiểu dễ dàng hơn ở hôm nay. Nhiều ý tưởng của ông được coi là kinh nghiệm cá nhân và được lấy ra từ nhân cách riêng của ông. Tuy nhiên dù sao ông vẫn xứng đáng là một trong những nhà quan sát có trách nhiệm về những điều kiện sinh hoạt của con người. Ngay cả những nhà học thuyết mới khi xây dựng những học thuyết nhân cách của mình đã luôn luôn so sánh và đối chiếu học thuyết của ông. Trong một ngành như tâm lý học đòi hỏi tiếp cận con người một cách tổng hợp theo kiểu tâm lý học thực nghiệm phân tích từng điểm, đi từng bước là ít hấp dẫn; những học giả các trường phái này cho rằng phải đành vậy, đi từng bước, phải bắt đầu với những điều đơn giản nhất, vô vị, và thường phải thú nhận, điều này chưa thể biết được. Trái lại tư duy theo kiểu phân tâm học gây cảm tưởng là đi sâu, nhằm đúng vào những gì cơ bản nhất của con người như nắm được những chìa khóa có tính quyết định giúp cho soi sáng vào những ngõ ngách thầm kín nhất; kết hợp được hai lối tư duy không phải dễ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Từ điển tâm lý học. A. V . Pêtơrôpxki và M. G. Iarôsepxki chủ biên,NXB Chính trị Quốc gia, Matxcơva 1990. 2. Lịch sử tâm lý học và tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H 2015. 3. Thăm dò tiềm thức của Carl Gustav Jung, Vũ Đình Lưu dịch. Hoàng Đông Phương xuất bản. Trang thư Hoàng Phương Đông. 18 4.Phân tâm học nhập môn của Sigmund Freud, dịch giả: Nguyễn Xuân Hiến. 5. Xem David Staford - Clark, Freud đã thực sự nói gì, NXB Thế giới, Hà Nội 1998. 6.Lịch sử tâm lý học.GS. TS. Nguyễn Ngọc Phú. NXB ĐH QGHN. 7. Nhập môn tâm lý học của Phạm Minh Hạc. NXB Giáo dục 1980. 8. Nhập môn tâm lý học của GS.TS Nguyễn Quang Uẩn, Khoa Tâm lý Giáo dục - Trường ĐH SPHN, năm 2005. 19 |