Vai trò của sinh học trong đời sống con người

Nhìn lại, sau 15 năm thực hiện việc “đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trên địa bàn tỉnh, công tác nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học đã có nhiều tiến bộ rõ rệt; những ứng dụng rộng rãi trên các lĩnh vực nông nghiệp, y - dược, bảo vệ môi trường... đã phát huy tác dụng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân trong tỉnh.


Hình: Dây chuyền công nghệ sản xuất phân bón NPK

Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, đã đẩy mạnh công tác chọn lọc, nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật để sản xuất đại trà các giống cây trồng có chất lượng tốt, năng suất cao, chống chịu sâu bệnh gây hại, thích nghi với thổ nhưỡng và điều kiện khí hậu của địa phương; giúp bảo tồn và nhân giống thành công nhiều giống cây trồng đặc hữu như: keo, bạch đàn, bần trắng, mắm trắng; các giống hoa lan, đồng tiền, cúc, ly, mai… cho giá trị kinh tế cao. Nhiều giống cây trồng được nghiên cứu, khảo nghiệm thành công, bổ sung vào cơ cấu bộ giống cây trồng nông nghiệp của tỉnh như: lạc LDH.09, mỳ KM7, điều ĐDH102-293, ớt chỉ thiên lai F1 BĐC.01, đậu xanh kháng bệnh khảm vàng vi rút, dưa chuột thơm lai F1… Đặc biệt, đã ứng dụng công nghệ sinh học trong xử lý gây đột biến gen để chọn tạo ra các loại giống lúa chịu hạn, phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương. Góp phần nâng cao tỷ lệ gieo sạ giống lúa xác nhận, giống nguyên chủng trên địa bàn tỉnh đạt trên 98%; tỷ lệ  sử dụng giống lạc mới đạt 80% và 95% giống ngô, sắn, mía, rau màu.Nhiều dây chuyền sản xuất phân bón sinh hóa, phân bón hữu cơ từ rác thải, các phế phụ phẩm nông nghiệp, các phế phụ phẩm trong quá trình chế biến gỗ được đầu tư phát triển. Các Trường đại học trên địa bàn tỉnh đã sản xuất các chế phẩm sinh học cây trồng như chất kích thích ra rễ, chất kích thích ra hoa, phân bón qua lá; sản xuất các chế phẩm vi sinh EM, Trichoderma, Metarhizium… phòng trừ bệnh cho cây trồng.Ứng dụng công nghệ sinh học chăm sóc, phòng chống dịch bệnh và xử lý môi trường nước thải trong nuôi trồng thủy sản ở một số khu ứng dụng công nghệ cao sản xuất các giống thủy sản có năng suất, chất lượng, sạch bệnh, giá trị kinh tế cao như tôm chân trắng, tôm sú… và ứng dụng phát triển kỹ thuật sinh sản nhân tạo một số giống thủy sản mới như cá rô phi vằn đơn tính dòng GIFT, cá Lăng Nha [Hemibagrus wyckioides], cá trê lai, hàu Thái Bình Dương, hàu Muỗng, cá Măng, cá Chua... Áp dụng thành công việc nuôi cấy tảo và lưu giống tảo làm thức ăn cho tôm giống; ứng dụng các chế phẩm sinh học để phòng, điều trị có hiệu quả các bệnh nguy hiểm, thường gặp trên các đối tượng thủy sản chủ lực của tỉnh và xử lý chất thải, phế thải từ nuôi trồng thủy sản, giảm thiểu ô nhiễm môi trường...Nhiều doanh nghiệp, đơn vị sản xuất ứng dụng công nghệ vi sinh, công nghệ enzym trong sản xuất chế biến, bảo quản nông sản, sản xuất thức ăn chăn nuôi, thay thế dần việc sử dụng các hóa chất, thuốc bảo quản hóa học, tạo ra các sản phẩm sạch, có chất lượng, tính cạnh tranh cao trên thị trường trong và ngoài nước, đem lại hiệu quả kinh tế cao.An toàn sinh học trong lĩnh vực y - dược được ngành y tế của tỉnh áp dụng nghiêm ngặt bằng các quy định về an toàn sinh học; đồng thời đẩy mạnh thực hiện công nghệ gen, công nghệ tế bào gốc trong chẩn đoán, giám định và điều trị các loại bệnh, nhất là các bệnh hiểm nghèo, triển khai thực hiện tốt các chương trình tiêm chủng... Từ năm 2009 đến nay, Bệnh viện Đa khoa tỉnh đã triển khai kỹ thuật sinh học phân tử trong xét nghiệm chẩn đoán các bệnh viêm gan siêu vi B, viêm gan siêu vi C, lao phổi và ngoài phổi, Human papilloma virus, chẩn đoán sốt xuất huyết; đồng thời, triển khai kỹ thuật nuôi cấy định danh vi khuẩn và kháng sinh đồ bằng máy tự động [Phoenix 100 BD], giúp định danh nhanh các nguyên nhân gây bệnh, trả kết quả kháng sinh đồ không chỉ định tính [nhạy hay kháng thuốc] mà còn cung cấp nồng độ ức chế tối thiểu [MIC] cho việc tối ưu hóa liều thuốc điều trị. Bên cạnh đó, công tác ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo tồn và phát triển các vùng dược liệu, nghiên cứu, chọn tạo và nhân nhanh các giống cây dược liệu có năng suất và hàm lượng hoạt chất cao, chất lượng tốt để làm nguyên liệu sản xuất thuốc; ứng dụng công nghệ sinh khối tế bào trong sản xuất nguyên liệu làm thuốc; sử dụng có hiệu quả các loại thuốc, các chế phẩm y dược sinh học vào công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng được đẩy mạnh thực hiện.Công tác phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo vệ môi trường bằng quan trắc, đánh giá chất lượng được chú trọng; việc ứng dụng các chế phẩm sinh học để xử lý chất thải trong sản xuất công nghiệp, rác thải sinh hoạt và chất thải chăn nuôi, hạn chế ô nhiễm môi trường được tăng cường. Nhiều chính sách khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển và sử dụng năng lượng sạch như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối có khả năng tái tạo từ phế liệu, phế thải, thực vật và thân thiện với môi trường. Đến nay, hầu hết các doanh nghiệp, nhà máy, bệnh viện trong tỉnh đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải ứng dụng công nghệ sinh học hiếu khí kết hợp kỵ khí, giảm thiểu đáng kể ô nhiễm môi trường.Nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được đầu tư phát triển công nghiệp công nghệ sinh học, đổi mới, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sạch vào hoạt động sản xuất, nhất là những doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực có thế mạnh trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, sản xuất thức ăn chăn nuôi... đã tạo ra các sản phẩm công nghiệp sinh học chủ lực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều doanh nghiệp, đơn vị sản xuất thực hiện quy trình ứng dụng công nghệ sinh học hoàn chỉnh với quy mô công nghiệp, đặc tính ổn định cao, sử dụng vi sinh vật hoặc enzym trong quá trình sản xuất, chế biến, tạo ra các sản phẩm sạch, có chất lượng, có tính cạnh tranh cao như Công ty cổ phần Bia Sài Gòn - Quy Nhơn, Công ty TNHH sữa  Bình Định, Công ty cổ phần Phân bón và Dịch vụ tổng hợp Bình Định, Công ty cổ phần Dược và Trang thiết bị y tế Bình Định và một số đơn vị sản xuất cồn rượu, thức ăn chăn nuôi…, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế của tỉnh.

Công tác nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học tuy còn nhiều việc phải hoàn thiện để tiếp tục phát triển, nhưng những tín hiệu tích cực, lạc quan ban đầu đã tạo động lực thúc đẩy việc ứng dụng những tiến bộ vào sản xuất và đời sống. Mặc khác, việc áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm tới.

Theo binhdinh.dcs.vn

Ứng dụng công nghệ sinh học góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống

[ĐCSVN] - Thực hiện Chỉ thị 50 - CT/TW ngày 4/3/2005 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học [CNSH] phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiều tỉnh, thành đã xây dựng đề án, kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế từng ngành, địa phương, góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của việc phát triển và ứng dụng CNSH vào phục vụ sản xuất và đời sống.

Nhờ ứng dụng CNSH nhiều giống cây trồng được lai tạo, cho năng suất cao. [Ảnh: BL]


CNSH góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ [KH&CN], sau gần 10 năm triển khai thực hiện, việc ứng dụng CNSH bước đầu đạt được kết quả tích cực trên nhiều lĩnh vực như nông, lâm, ngư nghiệp, lĩnh vực y tế bảo vệ sức khỏe cộng đồng, lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững và nhiều lĩnh vực khác…

Cụ thể, về lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, nhiều công nghệ, kỹ thuật hiện đại của công nghệ gen, tế bào, vi sinh được ứng dụng hiệu quả trong lĩnh vực trồng trọt, sản xuất. Cụ thể, CNSH được ứng dụng trong việc chọn giống, nhân nhanh giống vật nuôi có năng suất cao, sản xuất thức ăn chăn nuôi... đặc biệt phải kể đến việc ứng dụng CNSH trong trồng nấm. Tổng sản lượng các loại nấm và nấm dược liệt đạt trên 250.000 tấn/năm, đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 90 triệu USD/năm.

Đồng thời, nhờ thành tựu của CNSH, các ứng dụng mới trong lĩnh vực chẩn đoán, điều trị và theo dõi bệnh đã có bước tiến nhảy vọt. Hiện nay, với các bệnh lạ, nguy hiểm các nhà CNSH của Việt Nam đều có khả năng chẩn đoán bằng việc ứng dụng kỹ thuật gen như: Dịch bệnh SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H7N9… Đặc biệt, công nghệ tế bào gốc trong điều trị bệnh được nghiên cứu ứng dụng trong 5 năm qua, thành công trong việc điều trị bỏng, điều trị ung thư vú, ung thư tử cung…Chúng ta cũng đã xây dựng được Ngân hàng Tế bào gốc, Ngân hàng Máy dây rốn, Ngân hàng tế bào gốc từ người hiến tặng sử dụng trong điều trị bệnh cho trẻ em…CNSH cũng giúp Việt Nam nghiên cứu và sản xuất thành công 10/11 loại vắc xin phục vụ tốt chương trình tiêm chủng mở rộng và tiết kiệm cho ngân sách nhà nước hàng trăm tỷ đồng. Với thành công này, Việt Nam trở thành một trong bốn nước trên thế giới [sau Mỹ, Bỉ, Trung Quốc] làm chủ công nghệ và sản xuất thành công vắc xin Rota sống ở quy mô công nghiệp.

Cùng với đó, trong 10 năm qua đã có 100 chế phẩm sinh học được ứng dụng vào thực tế đời sống và sản xuất, như: chế phẩm vi sinh xử lý môi trường, xử lý chất thải rắn, chất tồn dư thuốc bảo vệ thực vật... CNSH cũng được ứng dụng trong chăn nuôi nông hộ. Hiện trên toàn quốc có hàng trăm ngàn hầm biogas trong chăn nuôi hợp vệ sinh, góp phần bảo vệ môi trường.

Ngoài ra, CNSH đã ứng dụng hiệu quả trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng…Sản xuất thành công các que thử về ma túy, bảng màu, quy trình truy nguyên góp phần trong đấu tranh phòng chống buôn bán và sản xuất ma túy. Việc sử dụng các que thử, phân tích truy nguyên ma túy giúp cơ quan điều tra như Công an, Biên phòng, Hải quan, Viện Kiểm sát…có đủ có sở pháp lý trong quá trình xét xử, chủ động trong phá án.

Tiếp tục đầu tư có trọng tâm, trọng điểm

Đánh giá về 10 năm triển khai Chỉ thị 50, TS. Nguyễn Văn Liễu, Vụ trưởng Vụ KH&CN các Ngành Kinh tế - Kỹ thuật [Bộ KH&CN] cho biết, Chỉ thị 50 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đẩy mạnh việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNSH đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của CNSH trong sự nghiệp CNH, HĐH, đồng thời đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển CNSH đến năm 2020.

Tổng sản lượng các loại nấm ăn, nấm dược liệu của Việt Nam đã tăng nhanh trong năm qua. [Ảnh: BL]

Đến nay, việc phát triển CNSH không chỉ còn là chủ trương, định hướng mà đã trở thành giải pháp hữu hiệu để phát triển nhanh, bền vững trong các ngành, lĩnh vực, tổ chức sản xuất có liên quan đến sinh học, cũng như tại tất cả các địa phương trong toàn quốc.

Tuy chưa đạt được thành tựu như các nước có bề dày về phát triển CNSH, song các kết quả nghiên cứu đã đạt được của các nhà khoa học Việt Nam đã đóng góp tích cực vào lĩnh vực nông nghiệp, y tế là những lĩnh vực mà thời gian qua đã gặt hái rất nhiều thành công.

Để đạt được nhiều kết quả hơn nữa trong phát triển CNSH, theo TS Liễu, Việt Nam cần có chính sách hỗ trợ về tài chính cho việc ứng dụng các CNSH mới vào sản xuất, phát triển sản xuất mới trong các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các sản phẩm sinh học dùng trong bảo quản, chế biến thực phẩm, y tế…. Đồng thời, thúc đẩy chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, tạo cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp chế biến trong nước ứng dụng các CNSH mới trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh hoặc tạo ra sản phẩm mới. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải…

Theo TS Nguyễn Thị Thanh Thủy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Mặc dù đạt nhiều kết quả trong việc triển khai ứng dụng CNSH trong thời gian qua. Tuy nhiên, việc ứng dụng CNSH vẫn còn một số hạn chế như: Số đề tài ứng dụng công nghệ gen còn ít và hiệu quả chưa cao; lĩnh vực mà các đề tài, dự án triển khai còn dàn trải trên nhiều đối tượng, chưa tập trung nguồn lực vào giải quyết một số vấn đề cấp bách cần có công nghệ cao, CNSH. Trong đó, các cây trồng quan trọng như ngô, đậu tương, lĩnh vực chăn nuôi thú y, lâm nghiệp, thức ăn, phòng trị bệnh, quản lý, xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản, công nghệ sau thu hoạch, chế biến và an toàn thực phẩm còn ít đề tài, dự án...

Bởi vậy, tiếp tục thực hiện hiệu quả Chỉ thị 50 của Ban Bí thư, giai đoạn 2015-2020 cần gắn kết nhu cầu của thực tế sản xuất với hoạt động nghiên cứu, triển khai thông qua việc đặt hàng nghiên cứu của các Tổng cục, Cục quản lý chuyên ngành thuộc bộ, các sở NN&PTNT và các doanh nghiệp.

Đồng thời cần lựa chọn các nhiệm vụ có kế thừa các sản phẩm nghiên cứu trước để hoàn thiện quy trình, xây dựng mô hình ứng dụng phục vụ mở rộng quy mô áp dụng sản phẩm vào thực tiễn sản xuất [yêu cầu về sản phẩm đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, quy trình công nghệ phải được đăng ký công nhận tiến bộ kỹ thuật].

Bích Liên

Video liên quan

Chủ Đề