Vi dụ phương pháp ám thị gián tiếp

Bạn có quan tâm tới ám thị không?
Nếu không thì quả là “thiệt thòi” vì bạn bị ám thị bởi xung quanh và tự ám thị mình hàng ngày đấy.

Ám thị là quá trình tác động một cách trực tiếp hay gián tiếp lên tâm lý con người nhằm mục đích điều khiển người bị ám thị thực hiện những yêu cầu nhất định. Còn trong trạng thái bị ám thị, khả năng nhận thức, phê phán [xem xét và nhận định], phân tích đối với nội dung ám thị bị giảm đi rõ rệt. Phương tiện được sử dụng trong ám thị có thể là ngôn ngữ và phi ngôn ngữ [cử chỉ, điệu bộ, nét mặt…].

Từ nhỏ tới lớn, ta sống trong ám thị, tự ám thị. Ám thị của bố mẹ, ám thị của thầy cô giáo, ám thị của bạn bè, của người bán hàng, của đồng nghiệp, của các đối tượng khác nhau trong xã hội. Những ám thị, “mệnh lệnh” được thể hiện qua yêu cầu trực tiếp, hãy làm việc này, hãy tuân theo điều kia, hãy giữ nguyên tắc nọ, cũng có thể được thể hiện gián tiếp dưới dạng ẩn giấu làm cho người nhận ám thị không nhận ra mục đích, nhưng vẫn tiếp nhận. Chúng ta tự ám thị khi tự mình đưa ra yêu cầu, mệnh lệnh cho chính mình, trí tưởng tượng phong phú và cảm xúc sống động giúp tăng hiệu quả của việc tự ám thị. Còn khi ám thị của người khác đã được biến thành tự ám thị, thì chúng ta đã sống trong yêu cầu của người khác rồi đấy!

Ở đứa trẻ, lời nói của bố mẹ bao giờ cũng được tuân theo, thường thì trẻ ngoan như vậy cho đến khoảng 10, 12 tuổi [kết thúc giai đoạn ẩn tàng]. Rõ ràng, việc “thuyết phục” dễ dàng được con cái trong cả một thập kỷ củng cố thói quen lớn cho bố mẹ rằng “con cái luôn nghe lời mình”. Vì thói quen này mà có thể có bố mẹ bị sốc khi con bước vào tuổi dậy thì với những thay đổi lớn về nhận thức, hành vi, giới tính.

[Phân biệt một chút về sự bướng bỉnh với sự tiếp thu ám thị ở trẻ. Trẻ bướng bỉnh, chống đối, đó là những hành vi hoặc là để thu hút sự chú ý về phía mình, hoặc để thăm dò phản ứng của người khác, qua đó trẻ học cách xây dựng và kiểm soát mối quan hệ, hoặc là triệu chứng để nói về một khó khăn bên trong tâm lý mà trẻ đang phải chịu đựng, người lớn cần phải quan tâm tới trẻ nhiều hơn. Nhưng chủ đạo trong giai đoạn này, việc tiếp thu ám thị vẫn dễ dàng vì trẻ chưa có nhiều thông tin để đối chiếu, so sánh, phân tích.]

Khi lớn lên, ám thị khó đi vào để gây ra hiệu ứng thực hiện yêu cầu bởi tính chọn lọc, phân tích trên cơ sở dữ liệu thông tin đã được tích lũy nhiều hơn trong trí nhớ, ý thức của người nhận ám thị. Chúng ta đã biết cân đối với các quan điểm về đạo đức, pháp luật, giá trị sống, động cơ, quyền lợi của mình. Nhưng chúng ta cũng không biết rằng, chúng ta vẫn bị bẫy ám thị cũng ở mức độ tinh vi hơn nhiều. Bạn có thể tìm hiểu ám thị liên quan tới các hoạt động quảng cáo, chào mời bán hàng, truyền thông, giáo dục và cả trong tuyên truyền, chính trị nữa.

Có một số điều tôi muốn nhấn mạnh liên quan tới ám thị

Một là các yếu tố làm tăng cường hiệu quả của ám thị:

– Những phẩm chất của người ám thị, vị thế xã hội, khả năng truyền cảm, những ưu thế về tính cách, ý chí và trí tuệ, ví dụ: rõ ràng là một người có học vị cao thì lời nói sẽ thuyết phục hơn một người không có bằng cấp nào cả, một người nói ngọt ngào thì sẽ đạt được mục đích hơn người khác nói cục mịch, chất phác [tiếc thay].

– Những đặc điểm cá nhân người bị ám thị, trong đó nổi bật nhất là khả năng ám thị: họ dễ rơi vào trạng thái nhận thức đặc biệt của ý thức, được đặc trưng bởi sự co lại nhiều như có thể miền ý thức và dễ dàng thực hiện mệnh lệnh của ám thị, ví dụ trạng thái thôi miên, trạng thái giấc ngủ sinh lý.

– Mối quan hệ giữa người ám thị và người bị ám thị: sự phụ thuộc, tự chủ, tin tưởng, ví dụ trong quan hệ trên – dưới [như lãnh đạo – nhân viên], hay quan hệ gia đình [bố mẹ – con cái, vợ – chồng], hay có những nét nhân cách phụ thuộc, tính tình cả nể, hay có xu hướng làm hài lòng người khác…

– Phương thức thiết kế giao tiếp [các bằng chứng thuyết phục, sự kết hợp giữa thành tố trí tuệ và cảm xúc, các tác động củng cố], ví dụ như câu chuyện con dê biến thành con chó trong kế hoạch của 4 tên “lưu manh”.

Hai là, hãy hiểu rõ về trạng thái dễ nhận ám thị của mình, rất nhiều khi, nó đến từ hoặc là lòng ham muốn, mong ước của mình [ví dụ như về tiền bạc, danh vọng, hay tình cảm…], hoặc là nỗi sợ hãi [nhưng không ý thức được rõ] của mình [ví dụ như hình ảnh quyền lực, lo lắng mất mát, chia tách…]. Người thao túng sẽ đoán ra và túm được gót chân Asin. Để đạt được mục đích, kẻ thao túng sẽ đưa ra các yêu cầu dựa trên việc nuôi dưỡng kỳ vọng, ao ước của mình [mà thực tế sẽ không bao giờ đạt được] hoặc dựa trên sự hăm dọa [trực tiếp hoặc gián tiếp] khiến ta sống dậy nỗi sợ hãi kia. Vì vậy, mà một cách tự động, dễ dàng, ta nghe lời người khác, kể cả là những điều vô lý, không phải là tính cách thường thấy của ta, hoặc vượt qua cả khuôn khổ đạo đức, giá trị trước đây của ta nữa.

Ba là liên quan tới khái niệm thôi miên, bao gồm việc người khác thôi miên mình và mình tự thôi miên chính mình. Trong trạng thái thôi miên, có sự giảm thiếu các yếu tố phê phán, miền ý thức co lại tới mức tối đa, nội dung ám thị có tác động mạnh mẽ, do đó xuất hiện những phản ứng tâm lý, sinh lý xa lạ với chủ thể trong trạng thái bình thường, tác động đến hàng loạt lĩnh vực nhận thức [tri giác, trí nhớ, chú ý, tư duy] và nhân cách [thay đổi tâm trạng, ám thị hình ảnh của người khác…]. Tư duy tích cực cũng chính là việc mình tự nhủ với mình, lặp đi lặp lại điều gì đó, và tự thôi miên rằng mình trở thành điều đó, còn thực tế thì chưa chắc vì đó chỉ là tìm kiếm sự hài lòng bên trong để tăng cường khả năng đối diện với cuộc sống hàng ngày. Vậy bạn muốn mình tỉnh táo hay bị thôi miên, đó là lựa chọn của bạn!

Và ám thị là một nghệ thuật, bạn có thể dùng nó để thao túng người khác đấy, nhưng điều đó dành cho những người có những động cơ “khó hiểu” bên trong, có thể mang tính bệnh lý nữa. Điều quan trọng hơn là, bạn nhận ra những điều đang diễn ra, giữ thái độ tỉnh táo, hoài nghi, và sáng suốt trong cảm nhận của cá nhân và hành xử lại với các tác động xung quanh ấy.

Ngô Thị Thu Huyền

Theo định nghĩa của từ điển thuật ngữ tâm lý học [GS. TS Vũ Dũng chủ biên]: ám thị là quá trình tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên tâm lý con người nhằm mục đích điều khiển họ thực hiện những yêu cầu nhất định.

Trong trạng thái bị ám thị, năng lực ý thức, tính phê phán của người bị ám thị đối với những Nội dung bị ám thị giảm đi rõ rệt. Những Nội dung này được cá nhân lĩnh hội một cách tự động, rất khó bị phê phán, suy xét, phân tích một cách logic.

Ám thị là một thành tố của giao tiếp, song nó cũng có thể được tổ chức, xây dựng thành một dạng giao tiếp đặc biệt, thường được sử dụng trong lĩnh vực y học, Tôn giáo… Phương tiện được sử dụng trong ám thị có thể là ngôn ngữ và Phi ngôn ngữ [nét mặt, điệu Bộ…]. Chủ thể gây ám thị có thể là một cá nhân hay một nhóm.

Dựa theo phương thức tác động lên tâm lý có thể chia thành ám thị trực tiếp và ám thị gián tiếp.

  • ám thị trực tiếp là quá trình sử dụng những mệnh lệnh, yêu cầu tác động trực tiếp lên tâm lý của đối tượng.
  • trong ám thị gián tiếp, thông tin được đưa ra dưới dạng ẩn hoặc che giấu, làm cho đối tượng không ý thức được mục đích, yêu cầu của người ám thị và tiếp nhận nó một cách từ từ, không chủ định.

Dựa theo trạng thái của người bị ám thị, có thể chia thành: ám thị khi thức, ám thị trong thôi miên, ám thị sau thôi miên, ám thị trong giấc ngủ sinh lý.

Ám thị được sử dụng nhiều trong lĩnh vực y học. Nó có thể là thành tố trong giao tiếp thầy thuốc – bệnh nhân hoặc có thể được sử dụng như một Kỹ thuật liệu pháp tâm lý. Trong giáo dục học, người ta cũng đã có ý định  sử dụng ám thị để dạy học, đặc biệt là dùng ám thị trong thôi miên để dạy ngoại ngữ, chơi cờ hoặc phát triển một năng lực đặc biệt nào đó.

Hiệu quả của ám thị được quy định bởi

  1.  Những phẩm chất của người ám thị, vị thế xã hội, khả năng truyền cảm, những ưu thế về tính cách, ý chí và trí tuệ
  2. Những đặc điểm cá nhân người bị ám thị, trong đó nổi bật nhất là khả năng ám thị
  3. Mối quan hệ giữa người ám thị và người bị ám thị: sự phụ thuộc, tự chủ, tin tưởng
  4. Phương thức thiết kế giao tiếp [các bằng chứng thuyết phục, sự kết hợp giữa thành tố trí tuệ và cảm xúc, các tác động củng cố]

Định nghĩa Ám thị trong Từ điển thuật ngữ Tâm lý học do GS. TS Vũ Dũng chủ biên.

Tự ám thị

Tự ám thị là quá trình ám thị hướng vào chính bản thân mình, khi đó chủ thể và khách thể tác động ám thị trùng nhau.

Tự ám thị nâng cao mức độ tự điều chỉnh, cho phép chủ thể tạo ra cho mình những cảm giác và tri giác khác nhau, điều khiển các quá trình chú ý, trí nhớ, các phản ứng cảm xúc và các phản ứng Xô ma. Tự ám thị có chủ định đạt được bằng tự chỉ thị dưới dạng lời nói và tái tạo tư duy những tình huống có ý nghĩa liên quan đến nhu cầu thay đổi trạng thái tâm lý và sinh lý. Trí tưởng tượng giàu có, tính mềm dẻo về tâm lý tạo điều kiện cho tự ám thị có chủ định đạt được hiệu quả. Tự ám thị không có chủ định được đặc trưng bởi thái độ thiếu phê phán của chủ thể đối với những tư tưởng, những quan điểm, những đánh giá của mình, thiếu sự hoài nghi của tính đúng đắn và chính xác của chúng vì giảm bớt những chức năng kiểm tra của ý thức. Kết quả của tự ám thị không có chủ định đôi khi ảnh hưởng đến tính ổn định của hoạt động tâm lý. Tự ám thị có thể sử dụng như một phương pháp đo tâm lý trong thể thao và trong giáo dục.

Nguồn: Từ điển thuật ngữ Tâm lý học – GS. TS. Vũ Dũng

2,968 người xem

Video liên quan

Chủ Đề